Dong Son culture (Văn hóa Đồng Sơn)

 
vanhoa_dongson
Version vietnamienne

Version française

In the early 20th century, archaeologists from the Ecole française d’Extrême-Orient (Louis Pajot, Olov Jansen) discovered a large number of Bronze Age artefacts in the Mã valley, notably in the village of Ðồng Sơn.

Among these finds are musical instruments, in particular drums. These are decorated with figurative motifs depicting stylized animals and scenes from daily life. But the most remarkable of these drums remains that of Ngọc Lũ. This is a cylinder 63 cm high and 79 cm in diameter. It was purchased by EFEO at the 1902 exhibition and auction in Hanoi for the price of 550 piasters at the time. It is arguably the finest drum ever found in Asia. On its upper side are motifs mixed with various ritual subjects: herds of deer, waterfowl, houses on stilts etc. The Austrian archaeologist Heine-Geldern was the first to propose the name Đồng Sơn for this culture. Since then, the culture has been known as the Ðồng Sơn or Dongsonian culture.   According to researchers Louis Bezacier and Nguyễn Phúc Long, the art of Đồng Sơn represents only the final phase of a long evolution of bronze metallurgy from the Gò Bông (late Phùng Nguyên) , Đồng Dậu and Gò Mun eras and corresponds to the period when it reached perfection and acquired prestige and influence in Southeast Asia and the Pacific.

According to researcher Hà Văn Tấn, the culture of Đồng Sơn has its roots among the proto-Dongsonian cultures discovered, which gradually enable it to have remarkable creations.  The art of Đồng Sơn emerged on the basis of Neolithic industry, as the first bronze objects can be found alongside carved stone instruments and pottery with a still Neolithic character. To look for the origins of the Dongsonian in the north or west of Vietnam, as several researchers have done, is to put forward a hypothesis that has no scientific basis. Dongsonian art is also in contact with the art of the Warring Kingdoms (Houai-style daggers from the Wu-Yue kingdom).  The ancient bronzes found in Vietnam are totally different from those of the Shang and Chu dynasties in China, both in the creation of charming forms and in decoration and alloying.  We can say without hesitation that this is a purely local production with very little influence from Chinese bronzes.

Đồng Sơn culture

(500 B.C. – 43 A.C.)

dongsonien

  

Thanks to the discoveries of bronze ploughing implements (ploughshares) found at Vạn Thắng and Sơn Tây reported by Vietnamese researchers in their book entitled “Les premiers vestiges de l’Âge de bronze au Vietnam p 110-113, Hànội 1963)(1), the Proto-Vietnamese already knew how to plough their rice fields. This invalidates the old Chinese thesis that the Proto-Vietnamese didn’t know how to plough before the Han conquest. They had to learn from the governors Si Kouang (Tích Quan) and Ren Yan (Nhâm Diên) how to grow rice and how to live and dress (Livre des Han postérieurs). One of the characteristics of Dongsonian bronze lies in the subtle blend of copper, tin and lead elements, depending on the type of tool produced (battle axe, crossbow trigger, spear point, ploughshare, hoe, dagger, etc.). According to Vietnamese researcher Nguyễn Phúc Long, ancient bronze drums found in North Vietnam have a much higher lead content than those from archaic China, in the order of 27.8% for the former versus 0.55% for the latter.

Beauty and skill are not lacking either in the decoration of the various objects found with the creatures living in the rice fields (toad, pelican, turtle, buffalo etc.). For some time now, despite the proximity of a multi-cultural country like China, there has been unanimous agreement on the singularity of this age-old culture, which originated with the rice-growing peasants, whose feet were buried in the mud of the flooded fields and who were close to nature. It is contemporary with the Sa Huỳnh and Đồng Nai cultures of central and southern Vietnam today.

Đình Minh Hương Gia Thạnh (Chợ Lớn, Saigon)

Temple Minh Hương Gia Thạnh 

Version française

Tọa lạc ở số 380 đường Trần Hưng Đạọ (Saïgon) , đình Minh Hương Gia Thạnh được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật bởi bộ Văn Hóa.  Đình nầy được coi xem là có lâu đời nhất  ờ vùng Saïgon-Chợ lớn do người Minh Hương xây dựng từ năm 1789. Người Minh Hương là những Việt gốc Hoa mà tổ phụ của họ là người Hoa, thần dân của nhà Minh sang định cư ở Đàng Trong sau khi nhà Minh bị  sụp đổ, được chúa Nguyễn Phúc Tần cho phép hai vị tổng binh cựu thần của nhà Minh Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên cư trú  ở miền nam tức là vùng đất của Chân Lạp cùng với 3000 binh sĩ và gia đình vào năm Kỷ Mùi (1679).  Dương Ngạn Địch  vào khai thác vùng Mỹ Tho còn Trần Thượng Xuyên thì vào khai khẩn vùng Biên Hoà (Cù Lao Phố), một vùng đất trù phú. Người ngoại quốc thường tới lui buôn bán ở nơi nầy. Trong thời kỳ chiến tranh giữa nhà Tây Sơn và Nguyễn Ánh, thì tất cả người Minh Hương đều đứng về phía chúa Nguyễn nên nhà Tây Sơn  tàn phá nhà  cửa của họ  vào năm 1776. Họ buộc lòng phải  lánh nạn  về  ở vùng đất Đề Ngạn xưa tức là Chợ  Lớn ngày nay. Đến năm kỷ dậu (1789)  dưới thời  Lê Mẫn Hoàng Đế  thì con cháu nhà Minh có quyền lập ra Minh Hương xã. Ban đầu chữ « hương » dùng chữ có nghĩa là « hương hỏa » (香火), đến năm 1827 đổi sang chữ có  nghĩa là « làng ». Như vậy Minh Hương có thể hiểu là « làng của người Hoa, thần dân của nhà Minh. Bởi vậy chúng ta cũng thường gọi họ là khách trú. Lúc đầu làng Minh Hương không có ranh định biên giới như các làng khác vì họ ở khắp mọi nơi của vùng đất mới. Người Minh Hương khỏi đi lính và khỏi đi làm xâu.  Nếu họ phạm phép  thì Minh Hương xã phân xử. Mặc dầu có đặc quyền như vậy, Minh Hương xã rất nghiêm ngặt trừng trị và  lo lắng  dạy dỗ con cháu họ. Bởi vậy họ sống rất hoà đồng với người dân Việt khiến  mới có câu ca dao như sau:

Gỏi chi ngon bằng gỏi tôm càng
Đố ai lịch sự bằng làng Minh Hương.

Chính vua Tự Đức đã có sắc tặng cho làng Minh Hương  bốn chữ: Thiện Tục Khả Phong (Phong tục tốt đẹp cần giữ lưu truyền), khắc vô một tấm biển, nay treo trước căn giữa Chánh điện của đình. Theo giáo sư Lâm Vĩnh Thế  thì năm 1865, Thống Đốc Nam Kỳ lúc bấy giờ là Đô Đốc De La Grandière ban hành quyết định chấm dứt quy chế làng của Minh Hương Xã, viện lý do là Sài Gòn và Chợ Lớn là châu thành tức là  thủ phủ của tỉnh, làng Minh Hương không còn có lý do tồn  tại nữa.  Đình Minh Hương Gia Thạnh không phải là nhà làng nữa mà trở thành từ đó nhà hương hỏa chung của tất cả hội viên, của tất cả công dân Việt Nam gốc Hoa có hơn hai trăm năm nay vì họ nói tiếng Việt, mặc quốc phục  trong các dịp tế lễ, cho con cái học trường Việt và hành xử hoàn toàn như là một công dân Việt Nam. Trịnh Hoài ĐứcNgô Nhân Tịnh, hai người Minh Hương làm quan đến chức thượng thư.

Đình được xây cất  theo kiểu nhà năm gian. Mái đình lợp ngói ống, trang trí hình lưỡng long tranh châu, cá hóa long, tượng ông Nhật bà Nguyệt, phù điêu trích từ các tuồng tích Trung Quốc. Trên cột và các đà ngang treo nhiều hoành phi, câu đối, phần lớn được làm từ đầu và giữa thế kỷ 19. Tại đình vẫn còn lưu giữ  nhiều cổ vật quý giá nhất là  đình có giá trị về nghệ thuật thư pháp, nghệ thuật chạm khắc gỗ mang phong cách Việt nam. Nhờ sự giải thích của chị Vân,một thành viên của ban tri sự quản lý  đình hôm đến tham quan, mình  được chị giải thích  biết nhiều  về  các cổ  vật trưng bày  của đình. Thật thú vị và  cũng tiện đây có một lời cám ơn chị qua bài viết nầy.

GIA THANH

Située au numéro 380 rue Tran Hung Dao (Saïgon), la Maison communale Minh Huong Gia Thanh est reconnue comme un monument architectural et artistique par le ministère de la Culture. Cette maison communale est considérée comme la plus ancienne de la région de Saïgon-Cholon, construite par les partisans de la dynastie des Ming  (ou Minh Hương) en 1789.

Les Minh Hương sont des Vietnamiens d’origine chinoise dont les ancêtres étaient des Chinois, sujets de la dynastie Ming qui s’étaient  réfugiés dans le sud après la chute de la dynastie Ming en Chine. Le seigneur Nguyễn Phúc Tần permit aux deux anciens généraux de la dynastie Ming, Dương Ngạn Địch et Trần Thượng Xuyên, de  trouver refuge dans le sud du Vietnam, l’ancien territoire du Chen La avec 3 000 soldats et leurs familles en l’année de la Chèvre (1679). Dương Ngạn Địch était allé exploiter la région de Mỹ Tho et  Trần Thượng Xuyên la région de Biên Hoà (Cù Lao Phố), un territoire riche et peuplé. Les étrangers le fréquentaient souvent pour y faire  des affaires. Durant la confrontation armée entre les Paysans de l’Ouest (Tây Sơn)  et Nguyễn Ánh, tous les Minh Hương s’étaient rangés du côté de ce dernier. Furieux, les Tây Sơn pillèrent leurs maisons en 1776. Les Minh Hương  étaient  obligés de se réfugier dans la région de Đề Ngạn (Cholon d’aujourd’hui). En 1789, sous le règne de l’empereur Lê Mẫn, les Minh Hương  obtinrent  le droit de fonder leur propre village.

Le mot « Hương » était initialement  écrit avec le pictogrammepour évoquer le culte des ancêtres (香火), mais il était remplacé ensuite  par le pictogramme  鄉 en 1827 pour signifier le village. Minh Hương  pouvait être compris ainsi comme  le village des sujets de la dynastie Ming. C’était pour cela on était habitué à les appeler « les résidents étrangers».

Au début, le village des Minh Hương n’était pas délimité par des frontières  comme les autres villages  grâce à leur possibilité de s’installer partout sur le nouveau territoire. Les Minh Hương  étaient exemptés du service militaire et ils n’étaient pas forcés de travailler gratuitement pour l’état. En cas de la violation de la  loi, ils seront punis par leur propre village. En dépit des privilèges qu’ils ont eus, les Minh Hương ne cessaient pas de respecter les lois avec sévérité et ils étaient toujours soucieux d’aider leurs enfants dans l’éducation. C’était pourquoi ils vivaient en harmonie avec les Vietnamiens, ce qui donnait naissance  à  la chanson populaire suivante :

Gỏi chi ngon bằng gỏi tôm càng
Đố ai lịch sự bằng làng Minh Hương.

Quelle salade peut-on trouver  aussi délicieuse comme celle de crevettes ?
Y a t-il quiconque plus poli que le village des Minh Hương ?

L’empereur Tự Đức  lui-même signa pour le  village des Minh Hương un décret comportant  quatre mots suivants: Thiện Tục Khả Phong (Les bonnes coutumes doivent être gardées et transmises), gravés sur une pancarte, désormais accrochée devant la salle principale de la maison communale. Selon le professeur Lâm Vĩnh Thế, en 1865, le gouverneur de la Cochinchine de l’époque, l’amiral De La Grandière, décida de mettre  fin au statut de la création du  village de Minh Hương Xã en prenant prétexte que Saigon-Cholon était la capitale de la province.  Le village des Minh Hương n’avait plus de raison d’exister. Mais il  était devenu dès lors la maison communale  dédiée au culte des ancêtres  pour tous ses membres et pour tous les citoyens vietnamiens d’origine chinoise depuis plus deux siècles car ils parlaient le vietnamien,  ils portaient des vêtements nationaux lors des cérémonies, ils envoyaient leurs enfants dans les écoles vietnamiennes et se comportaient entièrement  comme des citoyens vietnamiens. Trinh Hoài Đức  et Ngô Nhân Tịnh issus des  Minh Hương  étaient au poste de ministre.

La maison communale a été construite dans le style d’une maison à cinq compartiments. Son toit est recouvert de tuiles tubulaires, décoré d’un couple de dragons se disputant la perle enflammée, de poissons se transformant en dragons,  de génies de mariage et des tableaux en relief extraits des opéras chinois. Sur les colonnes et les poutres horizontales sont suspendus de nombreux panneaux horizontaux et des sentences parallèles dont la plupart ont été réalisés au début et au milieu du XIXème siècle.

La maison communale conserve encore de nombreuses antiquités, les plus précieuses étant l’art de la calligraphie et de la sculpture sur bois dans le  style vietnamien.  Grâce aux explications de Mme Vân, membre du comité de gestion  de cette association,  j’ai  beaucoup d’informations à savoir   sur les antiquités exposées.  Pour moi, c’est  très intéressant et  aussi  une opportunité  de lui rappeler ma gratitude à travers cet article.

 

 

Dynastie des Tang (Đại Đường)

Version française

English version

Người Trung Hoa  tự hào luôn luôn là con cháu  của nhà Hán. Tuy nhiên, thời đại hoàng kim của văn minh Trung Hoa không phải là thời kỳ của  nhà Hán mà chính là thời nhà Đường được  kéo dài  ba thế kỷ sau đó (618-907). Nhờ có nguồn  tài liệu  phong phú và  việc phát giác  ra các minh khí, các vật thu nhỏ nghi lễ được đặt trong các ngôi mộ của giới thượng lưu thời đó, chúng ta biết được  thời kỳ nhà Đường là một thời kỳ có những tiến bộ đáng kể về khoa học và kỹ thuật (thuốc súng, bản in khắc gỗ, kỹ thuật cơ khí, y học, bản đồ, vân vân..). Đây  là một triều đại rất cởi mở với thế giới  bên ngoài bằng cách có chính sách khoan dung chưa từng có đối với các nền văn hóa khác và  các tôn giáo nước ngoài như Giáo hội Phương Đông hay Cảnh Giáo,  đạo thờ lửa , một tôn giáo đa thần đến từ Ba Tư, Phật giáo đang phát triển  nhanh chóng vân vân. Cũng dưới thời ngự trị  của hoàng đế sáng lập nhà Đường, Đường Tháit Tôn (Lỳ Thế Dân)  nhà sư  Huyền Trang mới bắt đầu  cuộc hành hương vào năm 629 mà được gọi là « Tây du Ký » bằng cách  tự nguyện đi một  mình suốt  17 năm từ thủ đô  Trường An theo  lời yêu cầu của hoàng đế hầu mang về  các kinh điển  từ nước Thiên Trúc. Đây cũng là thời kỳ nghệ thuật và văn  học  phát triển đến đỉnh cao với các nhà thơ Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị, họa sĩ Vương Duy vân vân  và quyền tự do tương đối khả quan  cho  giới phụ nữ. Họ có thể xuất sắc  trong nghệ thuật, đặc biệt là âm nhạc và thi ca, và đôi khi họ có thể có  một địa vị cao hơn trong xã hội. Đây là trường hợp của hoàng hậu Võ Tắc Thiên (Võ Hậu). Phụ nữ thời đó có thể mặc trang phục ít gò bó hơn với áo dài  rộng Hanfu (Hán phục)

Cũng dưới  triều đại này, con đường tơ lụa đã phát triển nhanh chóng cho nhiều mục đích kinh tế, chính trị và tôn giáo bằng cách  áp dụng chính sách hôn nhân chiến lược, các cuộc chinh phục quân sự và viẽc  sử dụng  tơ lụa nhầm  củng cố liên minh, mua chuộc  và chia rẽ các cư dân du mục và bành trướng đế chế  về phía Tây. Nhờ có sự thiết lập này, triều đại nhà Đường đã thành công trong việc thiết lập các mối quan hệ thương mại và văn hóa trên con đường tơ lụa. Đây là con đường mà hai nhà sư của đạo Phương Đông  đã mang theo trứng giun tơ lụa từ Trung Quốc về Byzance bằng cách giấu trong hai gậy bằng tre. Cuối cùng, đây cũng là thời kỳ Việt Nam ta nằm dưới sự đô hộ của nhà Đường sau khi bị sáp nhập trước đó bởi nhà Tùy với tướng Lưu Phương.

Dưới triều đại nhà Đường, Trường An  là một  thành phố quốc tế lớn nhất thế giới vào thời điểm đó. Nó còn  được mệnh danh là « thành phố một triệu dân »  trong  các tài liệu của Trung Hoa. Được biết đến với cái tên « Bình An vĩnh cửu » , nó là thành phố đông dân nhất thế giới trước BaghdadByzance. Tuy nhiên, theo bản ghi chép điều tra dân số năm 742 trong sách Tân Đường Thư,  Trường An  và các vùng lân cận có đến 362.921 gia đình với dân số là 1960188 người trong khi ước tính có hơn 50 triệu người Trung Hoa  sống vào thời điểm đó trên một lãnh thổ từ Biển Đông Trung Quốc đến Trung Á, từ sa mạc Gobi ở phía bắc và vượt qua dãy núi Nanglin (Lĩnh Nam) ở phía nam, nơi có xứ An Nam. Với diện tích gần 87 km2, Trường An không chỉ là một trung tâm quyền lực chính trị và kinh tế mà còn là một  chỗ bình an với những con đường rộng rãi,  các cung điện  xinh đẹp, các đền  Phật giáo, các khu vườn tư nhân và  các chợ rộng lớn. Các đại lộ và các đường xá  được sắp xếp theo một hệ thống hình chữ nhật gồm 114 khối nhà  được  vách tường bao xung quanh riêng lẻ và được bảo vệ chung tất cả  bởi  một bức tường  khác  nằm ở bên ngoài.

Mỗi buổi sáng, sau khi tiếng trống đầu tiên vang lên, người dân từ khắp nơi đế chế cũng như các  thương nhân nước ngoài bị thu hút bởi công việc buôn bán  thủ đô bắt đầu  đi vào thành và lo chuyện kinh doanh. Còn đêm lại, chỉ có thể đi từ con đường lớn nầy  đến con đường khác nếu có giấy phép.  Tất cả các loại hàng hóa, từ đồ nội thất đến các loại gia vị (nghệ của Ba Tư, ớt của Ấn Độ, vân vân) đều  được tìm thấy  ở hai chợ lớn của thành phố, một chợ  nằm ở phía đông và một chợ ở phía tây. Triều đình  quy định kiểm soát giá cả và chất lượng hàng tuần. Sự phát hiện ra một số ngôi mộ của người  Sogdian (Thổ)  ở thủ đô  càng làm rõ  thêm  tại sao  các yếu tố của văn hóa nước ngoài có thể   xâm nhập vào xã hội Trung Quốc ở Trường  An và ngược lại. Thậm chí  còn có cả một khu phố  dành cho người nước ngoài.

Quân lính  của nhà Đường có rất nhiều đơn vị người Thổ cổ  được gọi là Tujue (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ nguyên thủy). Nhờ  chính sách tuyển dụng này và kinh nghiệm chiến trường  của các sĩ quan Thổ,  nhà Đường thành công mở rộng đế chế của mình về phía tây. Đó là việc  chinh phục các vương quốc ốc đảo Karakhoja, bởi nhà Đường với tướng Sogdian A Sử Na Xã Nhĩ (Ashina Sheer) vào  năm 648 ở tỉnh Tân Cương ngày nay. Ông được Hoàng đế  Đường Cao Tông  bổ nhiệm làm  Hữu vệ đại tướng quân. Ông qua đời vào năm 655 và được chôn cất bên cạnh Đường Thái Tông (Lý Thế Dân). Ông được đổi tên thụy là  Nguyên (Yuan (元)) sau khi ông qua đời.

Trường An đóng  giữ một vai trò quan trọng trong giao dịch thương mại ở trên con đường tơ lụa với các khu vực xa xôi như Thiên Trúc (Ấn Độ), Trung Đông và châu Âu. Mạng lưới đô thị và kiến trúc tôn giáo của nó (Tháp Đại Nhạn nơi lưu giữ những áng kinh Phật cổ  được dịch bởi  Đường Tăng Huyền Trang) và cung điện (Đại Minh Cung, nơi ở của các hoàng đế nhà Đường) là bằng chứng cho thấy sự  hiểu biết kỹ thuật trong việc coi trọng sự hài hòa và môi trường  và mang lại ảnh hưởng đáng kể về sau  trong việc thiết kế các thủ đô của các  vương quốc  Silla ở Hàn Quốc và Heian ở Japon. Trường  An vẫn là một phần quan trọng trong di sản lịch sử và văn hóa của Trung Quốc.

Dưới triều đại của Hoàng đế Đường Thái Tôn, các thương gia và các người đi buôn  có thể đi lại ở khắp đế chế mà không sợ bị cướp giựt. Các nhà tù  thì trống rỗng và người dân không cảm nhận áy náy phải khóa cửa nhà.  Mùa màng  bội thu: chỉ cần 3 hoặc 4 xu ( qian ) mua được  10 lít gạo. Đây không chỉ là giai đoạn thời kỳ thịnh vượng mà Trung Quốc có được   cho đến thời đại của Hoàng đế Huyền Tông trước cuộc nổi dậy của tướng Sogdian An Lộc  Sơn (An Lu Shan) vào năm 755 mà nó còn là mô hình cai trị thường được nhắc đến trong lịch sử Trung Quốc

Musée des arts asiatiques Guimet

Dynastie_Tang

No Images found.

Les Chinois sont fiers d’être toujours les fils des Han.  Pourtant l’âge d’or de la civilisation chinoise n’est pas la période  des Han mais plutôt celle des Tang qui perdure trois siècles plus tard (618-907). Grâce à l’abondance de documentation et la découverte des figurines minqi, des objets rituels déposés dans les tombes des élites de l’époque, on sait que la période des Tang est une période durant laquelle les progrès sont  significatifs en matière des sciences et techniques ( poudre à canon, xylographie, génie mécanique, médecine,  cartographie,  etc.). C’est une dynastie ouverte sur le monde en acceptant la tolérance sans précédent à l’égard des cultures et des religions étrangères (l’église nestorienne, le zoroastrisme, une religion polythéiste venue de Perse,  bouddhisme en plein essor  etc.).

C’est  aussi sous le règne de l’empereur fondateur Tang Tai Zong (Đường Thái Tôn hay Lý Thế Dân) que  le  moine bouddhiste Xuan Zang (Huyền Trang) entama en l’an 629  le pèlerinage sacré   connu sous le nom de «  Pérégrinations vers l’Ouest (Tây Du Ký) » en partant  seul  de la capitale Chang An durant 17 ans,  à la demande  de l’empereur pour ramener les écritures sacrées de l’Inde. C’est aussi la période où l’épanouissement des arts et des lettres était à son comble avec les poètes Du Fu (Đỗ Phủ),  Li Bai (Lý Bạch), Bai Juji (Bạch Cư Dị) , le peintre Wang Wei (Vương Duy) etc.  et celle de la liberté relative pour les femmes. Celles-ci pouvaient exceller dans les arts, en particulier dans la musique et  la poésie.   Elles  pouvaient avoir parfois un statut  plus élevé dans la société. C’est le cas  de l’impératrice Wu Zetian (Võ Tắc Thiên). Les femmes pouvaient porter des vêtements moins contraignants avec la robe ample Hanfu (Hán phục). 

C’est aussi sous cette dynastie que la Route de la Soie connut un grand essor pour de nombreuses fins  à la fois économiques, politiques  et religieuses par la mise en place de la politique de mariage stratégique, les conquêtes militaires et la soie dans le but de consolider les alliances, de soudoyer  et de diviser les nomades et d’agrandir son empire vers l’Ouest. Grâce à cette mise en place, la dynastie réussit à établir des liens commerciaux et culturels tout le long de la route de la soie. C’est par cette route que deux moines nestoriens  ont  ramené à Byzance  les  œufs de vers à soie  de la Chine, en les cachant dans leurs cannes de bambou. Enfin c’est aussi la période où le Vietnam était sous le giron des Tang après avoir été annexé plus tôt par les Sui avec le général Liu Fang (Lưu Phương). 

Sous la dynastie  des Tang, Chang-An est la plus grande ville cosmopolite au monde à cette époque.  Elle  est surnommée « ville d’un million d’habitants » dans les archives chinoises.  Connue sous le nom « Paix Eternelle », elle est la ville la plus densément peuplée du monde devant Bagdad et Byzance. Mais d’après l’enregistrement du recensement en l’an 742 dans le Nouveau Livre des Tang (Tân Đường Thư), Chang ’An et ses environs ont eu 362 921 familles comptant 1960188 personnes tandis qu’on estime plus de 50 millions d’habitants   vivant à cette époque en Chine  sur un territoire allant de la mer de Chine orientale à l’Asie centrale, du désert de Gobi au nord  et au-delà des montagnes Nanglin (Lĩnh Nam) dans le sud où se trouve l’Annam. D’une surface intérieure de presque 87km2, la capitale cosmopolite Chang ’An était non seulement un centre de pouvoir politique et économique  mais  aussi  un havre de paix  doté de larges avenues, de magnifiques palais, de temples bouddhistes, de jardins  privés et de vastes marchés. Ses larges avenues et ses rues étaient disposées selon un damier rectangulaire de 114 blocs de maisons  individuellement murés et  protégés tous par la même muraille externe.

Chaque matin, dès l’annonce de l’ouverture de sa  porte principale par les premiers coups des tambours, les gens venant de tous les coins de l’empire ainsi que  de nombreux marchands  étrangers  attirés par l’important commerce de la capitale  commençaient  à y entrer et à vaquer à leurs affaires. La nuit, on ne pouvait circuler d’un artère qu’à un autre à condition d’avoir un laissez-passer. On y trouvait toutes sortes de marchandises, des meubles jusqu’aux épices (safran de Perse, poivre d’Inde etc.)  dans les deux grands marchés de la ville, l’un à l’est et l’autre à l’ouest. La cour impériale  réglementait le contrôle des prix et de la qualité des produits par semaine. La découverte d’un certain nombre de tombes sogdiennes dans la capitale  a permis de mieux comprendre comment des éléments de la culture étrangère se sont infiltrés dans la société chinoise de Chang’ An et vice-versa. Même on y trouvait un quartier étranger.

L’armée des Tang comptait  beaucoup d’importants contingents de soldats turcs appelés sous le nom Tujue (proto turc). Grâce à cette politique de recrutement et de l’expérience de la steppe que  les officiers turcs ont eue, cela permettait à la dynastie des Tang d’agrandir son empire vers l’Ouest. C’était la conquête des  royaumes-oasis de Karakhoja, par les Tang avec le  général sogdien Ashina She’er  (A Sử Na Xã Nhĩ) en 648 dans l’actuelle province du Xinjiang.  Il était  nommé général de la garde de droite par l’empereur  Tang Gaozong (Đường Cao Tông) . Il mourut en 655 et fut enterré aux côtés de l’empereur  Taizong (Đường Thái Tông). Il fut renommé Yuan () à titre posthume.

Chang An jouait un rôle clé dans l’échange commercial sur la Route de la Soie avec les régions aussi lointaines comme l’Inde, le Moyen Orient et l’Europe. Son maillage urbain et son architecture religieuse (la grande pagode de l’Oie abritant les textes sacrés  rapportés par le moine  Xuan Zang) et palatiale (Palais de la Grande Clarté (Daming Gong  ou la résidence des empereurs) témoignent du savoir-faire technique dans le respect de l’harmonie et de l’environnement et apportent  plus tard une influence non négligeable dans l’aménagement des capitales des Silla en Corée et des Heian au Japon. Chang An  reste une  partie importante dans l’héritage  historique et culturel de la Chine. Sous le règne de l’empereur Tai Zong (Đường Thái Tôn), les commerçants et les marchands pouvaient circuler librement dans tout l’empire sans avoir peur des bandits. Les prisons étaient vides et les gens ne ressentaient pas le besoin de fermer la porte de leurs maisons. Les récoltes étaient abondantes: il suffit d’avoir 3 ou 4 qian pour l’achat de 10 litres de riz. C’est non seulement  la période de prospérité  que la Chine a connue jusqu’au règne de l’empereur Xuan Zong avant la révolte du général sogdien  An Lu Shan (An Lộc Sơn) en 755 mais aussi le bon modèle de gouvernance  souvent évoqué dans l’histoire de la Chine.

Pagode de l’Oie (Tháp Đại Nhạn)

 

Palais Kiến Trung (Điện Kiến Trung)

Điện  Kiến Trung

Version française

Nằm ở điểm cực bắc của trục thần đạo xuyên qua trung tâm Tử Cấm thành, Điện Kiến trung là một  công trình kiến trúc được vua Khải Định  cho xây vào năm 1921-1923. Đây cũng là điện đầu tiên  có sự  phối hợp  phong cách Âu châu gồm có kiến trúc Pháp, kiến trúc Phục hưng của Ý  Đại Lợi cùng  với kiến trúc cổ truyền Việt Nam. Mặt tiền của điện thì  được  trang trí  một cách cầu kỳ với các hoa văn, các họa tiết  với   các mảnh gốm sứ nhiều màu, mang đậm bản sắc của cung đình triều Nguyễn. Tòa điện này được hoàn thành chỉ trong vòng 2 năm, từ 1921 đến 1923 với  sự cố vấn của một số kiến trúc sư, kỹ sư người Pháp và Bộ Công, trên nền cũ mà trước đó là có  hai công trình kiến trúc khác, đó là Minh Viễn Lâu (1827) và Du Cửu Lâu (1913) và nhầm để đáp ứng theo  thị  hiếu thẩm mỹ thời bấy giờ. Theo Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế, điện nầy được lấy tên là Kiến Trung  với chữ Kiến  mang ý nghĩa là dựng  lên và  Trung thì có hàm ý là không sai lệch, ngay thẳng. Điện nầy được xem là nơi ăn ở của  hai nhà vua cuối cùng của triều đại Nhà Nguyễn: Khải ĐịnhBảo Đại.  Chính ở nơi nầy vua Khải Định băng hà vào ngày 6 tháng 11 ,1925. Dưới thời vua Bảo Đại  thì điện được tu sửa toà điện, tân trang  các tiện nghi theo thể cách Tây Phương  trong đó có cả buồng tắm. Cũng tại điện nầy  hoàng hậu Nam Phương hạ sinh Thái Tử  Bảo Long (4-1-1936). Với những năm chiến tranh Việt Nam,  điện  cùng các công trình khác ở Tử Cấm Thành bị tàn phá nên chỉ còn nền mà thôi. Từ năm 2013, Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế đã khởi động dự án phục hồi điện Kiến Trung. Dự án này đã được thực hiện từ  tháng 2 năm 2019 với tổng kinh phí hơn 123 tỉ đồng và  hoàn tất vào tháng 8 năm 2023. Nay điện Kiến Trung trở thành một nơi ưa thích nhất của du khách khi đến tham quan  Tử Cấm Thành.

Version française

Situé à l’extrémité nord de l’axe sacré traversant le centre de la Cité Interdite pourpre, le  palais Kiến  Trung est une œuvre architecturale édifiée par le roi Khải Định en 1921-1923. C’est aussi le premier bâtiment où il y a la combinaison  entre le  style européen  comportant à la fois l’architecture française et  l’architecture de la Renaissance italienne et celui de l’architecture traditionnelle vietnamienne. La façade de ce palais est richement décorée de motifs et de fragments de céramique colorés, portant ainsi l’empreinte de l’identité de la cour royale de la dynastie des Nguyễn.  Sur les conseils de plusieurs architectes et ingénieurs français et du ministère des Travaux publics, ce palais répondant au goût esthétique de l’époque fut  achevé seulement en deux  ans, de 1921 à 1923 sur l’ancien emplacement où ont eu lieu précédemment  deux autres œuvres architecturales connues successivement sous les noms de Minh Viễn Lâu (1827) et Du Cửu Lâu (1913). D’après le Centre de conservation des monuments de Huế, il a été connu sous le nom de  Kiến Trung  (Kiến   » érigé  » et Trung « droit, pas de déformation »). Ce palais était considéré comme le lieu de résidence des deux derniers rois de la dynastie des Nguyễn: Khải Định et Bảo Đại. C’était ici que le roi Khai Dinh fut  décédé le 6 novembre 1925.Sous le règne du roi Bảo Đại, le palais et  son intérieur ont été rénovés selon le style occidental, y comprise la salle de bain. C’était également dans ce palais que la reine Nam Phương donna naissance au prince héritier Bảo Long (4 janvier 1936). Durant la guerre au Vietnam, ce palais était  entièrement détruit ainsi que d’autres résidences de la cité interdite. Depuis 2013, le Centre de conservation des monuments de Huế a commencé à lancer  le projet de restauration du palais Kiến Trung. Ce projet fut mis en œuvre depuis février 2019  et achevé en août 2023 avec un coût total de plus de 123 milliards de đồng. Aujourd’hui, le palais Kiến  Trung est devenu l’endroit préféré de tous les  touristes lors de la visite de la Cité pourpre interdite

Le palais Kiền Trung est visible à travers le long

couloir Trường Lang (Điện Kiến Trung được nhìn thấy qua Trường Lang)

Mausolée des trois empereurs Dục Đức, Thành Thái et Duy Tân

Khu lăng mộ  của 3 vị vua triều Nguyễn: Dục Đức, Thành TháiDuy Tân.

Version française

So với lăng tẩm khác của các vua nhà Nguyễn, lăng Dục Đức có kiến trúc đơn giản và khiêm tốn. Khu lăng mộ hình chữ nhật, có diện tích 3.445m2, bên trong không có tượng đá như các lăng vua khác. Muốn vào lăng phải đi qua hai cổng tam quan, có mái giả bằng xi măng. Lăng Dục Đức (An lăng) nằm trên đường Duy Tân, phường An Cựu, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, thuộc Quần thể di tích cố đô Huế.

Đây là nơi yên nghỉ của 3 thế hệ làm vua triều Nguyễn, gồm: Dục Đức (cha, 1852-1883), Thành Thái (con, 1879-1954) và Duy Tân (cháu, 1900-1945). Khu di tích này có diện tích khoảng 6ha, gồm 2 công trình chính là lăng mộ vua Dục Đức cùng hoàng hậu (bên phải) và điện Long Ân (bên trái). Mộ vua Thành Thái và Duy Tân được bao quanh bởi khu tập thể cũ phía sau điện Long Ân. 

Comparable à d’autres mausolées des empereurs de la dynastie des Nguyễn, celui de l’empereur Dục Đức possède une architecture très simple et modeste.  Étant de forme rectangulaire, celui-ci possède  une superficie de 3 445 mètres carrés et ne contient pas  des statues de pierre à l’intérieur comme les mausolées des autres rois. Pour y entrer on doit franchir les deux portails à trois entrées avec les faux toits en ciment. Connu sous le nom An Lăng, ce mausolée est situé sur la rue Duy Tân dans le district An Cựu de la ville Huế de la province Thừa Thiên Huế et fait partie du complexe des vestiges de la ville de Huế. C’est le lieu de repos des  rois des trois générations de la dynastie des Nguyen:  Dục Đức (père, 1852-1883), Thành Thái (fils, 1879-1954) và Duy Tân (petit-fils, 1900-1945). Ce complexe  d’environ 6 hectares comprend deux bâtiments principaux: le mausolée  du roi Dục Đức  et de son épouse (à droite) et le palais de Long An (à gauche). Les mausolées de Thành Thái et Duy Tân sont entourés par l’ancien quartier collectif derrière le palais Long Ân. 

DUC_DUC

 

 

 

Pagode Từ Hiếu (Huế)

Version française

Pagode de la piété filiale

Nằm trên núi Dương Xuân thuộc làng Thủy Xuân và  cách trung tâm thành phố Huế 5 cây số , chùa Từ  Hiếu tọa lạc trong một khu rừng thông tuyệt  vời ở phía bắc lăng vua Tự Đức. Để tưởng nhớ mẹ của ông, ngôi chùa này được xây dựng vào năm 1843 bởi hòa thượng Nhất Định. Được biết đến với cái tên Từ Hiếu để biểu thị sự tận tâm  của ông và lòng hiếu thảo đối với mẹ. Nhưng đó cũng là ngôi chùa của các hoạn quan ở Tử Cấm Thành Huế.

Perchée sur le mont Dương Xuân dans le village de Thủy Xuân et située à 5km du centre-ville de Huế , la pagode Từ hiếu se trouve dans une belle pinède au nord du mausolée de l’empereur Tự Đức. En l’honneur de sa mère, cette pagode  fut édifiée en 1843 par le moine Nhất Đinh. Elle étai connue sous le nom de Từ Hiếu pour signifier le dévouement et la piété  de ce dernier à sa mère. Mais c’était aussi la pagode des eunuques de la cité pourpre interdite de Huế.

Mausolée de Gia Long

Version française

Thông thường  đến Huế hay gặp trời mưa nhưng  kỳ nầy ba ngày ở Huế (7/11/2024 -9/11/2024) , trời lại không mưa. Nhờ đó mới có dịp đi tham quan lăng của người anh hùng được người dân Nam Bộ ngưỡng mộ, vua Gia Long nhất là nay có đường đất đi đến địa phận phường Long Hồ, quận Phú Xuân, thành phố Huế và tránh được đường bộ  khoảng 16 cây số và  phải qua  sông ở bến đò Kim Ngọc. Thật là mình có duyên kỳ nầy nhất là được đi tham quan năm lăng của các vua nhà Nguyễn và di tích thành Lồi của người Chàm ở trên đồi Long Thọ  cùng một lúc trong một ngày với chú xe ôm mặc dù đường xá không tốt chi cho mấy.

Habituellement,  il fait souvent pluvieux lors de mon passage à Huế mais cette fois, j’ai la chance d’y avoir trois jours  de suite au soleil.  Grâce à cela, j’ai eu l’occasion d’aller visiter le mausolée de celui qui était adulé par les gens de la Cochinchine, le roi Gia Long.  Il y a aujourd’hui une route menant au quartier de Long Hồ dans le district de Phú Xuân  de la ville de Huế. On peut  éviter ainsi de prendre la voie terrestre d’environ 16km et la traversée à l’embarcadère Kim Ngọc. C’est chanceux pour moi cette fois de pouvoir visiter successivement  cinq mausolées  de la dynastie des Nguyễn et la citadelle Lồi des Chams sur la colline Long Thọ  dans la même journée avec un taxi-moto malgré la route mal entretenue.

 

 

 

 

Mausolée Thiệu Trị

Version française

Được có tên là Xương Lăng, lăng của vua thứ ba của triều đại nhà Nguyễn, Thiệu Trị,  nằm dựa  lưng vào núi Thuận Đạo, ở địa phận làng Cư Chánh, phường  Thủy Bằng, quận Thuận Hóa, thành phố Huế, cách trung tâm thành phố khoảng cây số. Vua Thiệu Trị chỉ ngự trị có 7 năm và qua đời lúc 47 tuổi. Thiệu Trị được sử sách mô tả là một hoàng đế thông minh, tận tụy chăm lo việc nước, uyên bác nho học, yêu thích thơ ca. Nhưng Thiệu Trị không có đưa ra cải cách gì mới c ả, chỉ duy trì các chính sách hành chính, kinh tế, giáo dục, luật pháp, quân sự… từ thời vua Minh Mạng.

Étant connu sous le nom de Xương Lăng et adossé à la montagne Thuận Đạo, dans le village Cư Chánh du quartier Thủy Bằng, district Thuận Hóa, ville de Huế, le mausolée du troisième roi de la dynastie des Nguyễn, Thiệu Trị, est situé à environ 1 km du centre-ville. Ce roi n’a régné que 7 ans et est décédé à l’âge de 47 ans. Thiêu Tri est décrit dans les livres d’histoire comme un empereur intelligent, soucieux de prendre soin du pays, connaissant parfaitement le confucianisme et passionné de poésie. Mais Mais Thiệu Tri n’a pas entamé de nouvelles réformes en se contentant de maintenir les politiques administratives, économiques, éducatives, juridiques, militaires etc. de la période  de l’empereur Minh Mang.

 

 

Marché central (Chợ Bến Thành)

Chợ Bến Thành (Saïgon).

Version française
Version anglaise

Chợ nầy được khởi công xây dựng từ năm 1912, nay vẫn được xem là nơi khách du lịch đến mua sấm rất đông, các quần áo, vải sợi, giày dép, thời trang, hàng thủ công mỹ nghệ, thực phẩm tươi sống, trái cây, hoa tươi hay đến ăn uống. Chợ nầy  nổi tiếng chặt chém không nương tay, trả giá nào cũng dính nhưng rất  thuận tiện trong việc mua sấm.

Version française 

Ce marché fut construit en 1912. Il est toujours considéré aujourd’hui comme un lieu où les touristes sont très nombreux. Ils peuvent y trouver tout (vêtements, tissus, chaussures de mode, produits d’artisanat et aliments frais, fruits et  fleurs) ainsi que la nourriture. Ce marché est réputé pour proposer des prix exorbitants aux touristes mais il est très pratique d’y trouver tout. 

Version anglaise

This market was built in 1912. It is still considered a place where tourists are very numerous. They can find everything (clothes, fabrics, fashion shoes, handicrafts and fresh food, fruits and flowers) as well as food. This market is known for offering exorbitant prices to tourists but it is very convenient to find everything there.