Vietnam
Histoire du Vietnam
Myth of the household geniuses
The myth of the household geniuses is based on the tragic story of a woodcutter and his wife. It has its roots in Taoism. This modest couple lived happily together until the day they discovered they couldn’t have children. The unfortunate husband began to drink and abuse his wife. Unable to bear it any longer, she left him and married a hunter from a neighboring village. But one day, overcome with loneliness and remorse, the woodcutter decided to visit his wife to apologize.
Meanwhile, the hunter returned home. To avoid any misunderstanding, the young woman hid her first husband in a thatched stable near the kitchen where the hunter was smoking his game. By misfortune, an ember escaped from the fireplace and set fire to the barn.
Panic-stricken, the young woman ran to the burning barn to save her ex-husband. The hunter followed to rescue her, and all three perished in the inferno. The Jade Emperor (Ngọc hoàng), deeply moved by this sad fate, divinized the three unfortunates from his celestial throne and entrusted them with looking after the welfare of the Vietnamese people in the advantageous location of the kitchen. From then on, they became the geniuses of the home.
During the week when the genies are in heaven, the Vietnamese fear that their homes will be unprotected. To prevent any incursion of evil spirits into their homes, they erect a tall bamboo pole (cây nêu) in front of their homes, on which clay plates (or khánh in Vietnamese) vibrate sonorously in the wind to ward off the spirits. At the top of the pole floats a piece of yellow cloth bearing the Buddhist emblem.
Vietnamese kitchen
This custom has its origins in a Buddhist legend entitled “The Woodcutter’s Tết”, according to which the Vietnamese have to confront evil spirits.
It’s always on the twenty-third day of the last lunar month that each Vietnamese organizes a ceremony to send the genie of the household to heaven. Not only are fruits, delicacies and flowers placed on his altar, but also appropriate travel equipment (3 pairs of boots, 3 hats, clothes, votive papers) and three carp placed in a small bowl. At the end of the ceremony, the votive papers are burned and the carp released into a pond or river for the genie to use to fly to heaven. The genie must report everything he has seen on earth to the Jade Emperor, particularly in the home of every Vietnamese. His stay in heaven lasts six days. He must return home on New Year’s Eve until the start of the New Year.
(*) cây nêu: This is a cosmic tree linking the earth to the sky, due to the beliefs of ancient sun-worshipping peoples, including the Proto-Vietnamese, but it is also used to demarcate their territory.
Mausolée de Gia Long
Thông thường đến Huế hay gặp trời mưa nhưng kỳ nầy ba ngày ở Huế (7/11/2024 -9/11/2024) , trời lại không mưa. Nhờ đó mới có dịp đi tham quan lăng của người anh hùng được người dân Nam Bộ ngưỡng mộ, vua Gia Long nhất là nay có đường đất đi đến địa phận phường Long Hồ, quận Phú Xuân, thành phố Huế và tránh được đường bộ khoảng 16 cây số và phải qua sông ở bến đò Kim Ngọc. Thật là mình có duyên kỳ nầy nhất là được đi tham quan năm lăng của các vua nhà Nguyễn và di tích thành Lồi của người Chàm ở trên đồi Long Thọ cùng một lúc trong một ngày với chú xe ôm mặc dù đường xá không tốt chi cho mấy.
Habituellement, il fait souvent pluvieux lors de mon passage à Huế mais cette fois, j’ai la chance d’y avoir trois jours de suite au soleil. Grâce à cela, j’ai eu l’occasion d’aller visiter le mausolée de celui qui était adulé par les gens de la Cochinchine, le roi Gia Long. Il y a aujourd’hui une route menant au quartier de Long Hồ dans le district de Phú Xuân de la ville de Huế. On peut éviter ainsi de prendre la voie terrestre d’environ 16km et la traversée à l’embarcadère Kim Ngọc. C’est chanceux pour moi cette fois de pouvoir visiter successivement cinq mausolées de la dynastie des Nguyễn et la citadelle Lồi des Chams sur la colline Long Thọ dans la même journée avec un taxi-moto malgré la route mal entretenue.
Les costumes traditionnels des minorités ethniques (Trang phục dân tộc thiểu số)
Nhuộm, dệt và thêu là những công việc chính mà được thấy ở người phụ nữ của các dân tộc thiểu số trong việc may các bộ trang phục truyền thống. Các bộ nầy không chỉ có vô số phong cách khác nhau mà còn có thêm hàng loạt màu rực rỡ.
Để nhuộm vải lanh hoặc vải gai dầu, các dân tộc thiểu số như người Hmong và người Dao Tien thường dùng đến batik. Đây là kỹ thuật « nhuộm bao vải » có nghĩa là một phần vải được bao che trước khi nhuộm để tạo hoa văn. Người Ai Cập đã sử dụng batik để quấn xác ướp của họ có hơn 2.400 năm trước. Kỹ thuật thủ công này đang phổ biến khắp nơi ở Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và Nam Dương. Chính ở quốc gia nầy kỹ thuật rất được phát triển ở đảo Java và do đó được biết đến với cái tên « batik » có nguồn gốc từ đảo nầy. Kỹ thuật nầy dựa hoàn toàn trên việc áp dụng sáp trước trên nền.
Người ta vẽ lên vải các họa tiết bằng sáp ong đã được đun nóng chảy. Dụng cụ vẽ nầy là một loại bút đặc biết có ngòi cong bằng đồng hoặc một số khung đập hình tam giác, những ống tre nhỏ.
Tùy thuộc vào độ phức tạp của hình họa, sáp ong có thể được áp dụng nhiều lần trên các màu sắc khác nhau trong các bể nhuộm màu. Sau đó, được nhúng vào nước sôi cho sáp được tan hết. Các họa tiết sáng tạo màu được bao bằng sáp để bảo vệ trước khi nhuộm sẽ xuất hiện trên nền vải chàm sẫm.
Những bộ trang phục sặc sỡ và các trang điểm lộng lẫy của họ đã trở thành cùng theo ngày tháng một sức hút không thể chối từ được đối với các du khách nước ngoài khi có dịp họ đến tham quan Việt Nam và đến các vùng có các dân tộc thiểu số như Hà Giang, Cao bằng, Yên Bái, Điện Biên, Sapa vân vân…. Nó cũng là biểu tượng cho bản sắc của các dân tộc thiểu số trên một đất nước có 54 dân tộc.
Teinture, tissage et broderie sont les tâches principales des femmes des minorités ethniques dans la confection de leurs costumes traditionnels. Ceux-ci déploient non seulement une multitude de styles différents mais aussi une gamme de couleurs chatoyantes. Pour teindre les tissus en lin ou en chanvre, les minorités ethniques telles que les Hmong et les Yao Tien ont recours au batik. Celui-ci est une technique de teinture à la cire, employée pour qu’une partie du tissu soit protégée de la teinture durant l’exécution de motifs. Les Egyptiens se servaient du batik pour envelopper leurs momies il y a plus de 2400 ans. Cette technique artisanale se répand partout en Chine, en Inde, au Japon et en Indonésie. C’est dans ce dernier pays qu’elle est très développée à l’île de Java et elle prend ainsi le nom « batik » d’origine javanaise. Elle est basée sur l’application préalable de la cire sur le support.
On dessine d’abord sur le tissu, des motifs à la cire fondue. Les outils utilisés sont des stylets à réservoir en cuivre courbé, des tampons triangulaires ou de petits tubes en bambou. En fonction de la complexité du dessin, la cire peut être appliquée plusieurs fois sur des couleurs différentes dans des bains de teinture. Puis le dernier bain fixatif est nécessaire dans l’eau bouillante pour faire fondre entièrement la cire. Les motifs protégés de la teinture sont apparus en clair sur fond indigo. On obtient ainsi le tissu décoré.
Leurs costumes bigarrés et leurs parures magnifiques deviennent au fil des années la force d’attraction indéniable qu’ils exercent sur les touristes étrangers lorsqu’ils ont l’occasion de visiter les régions du Vietnam où il y a une forte concentration des minorités ethniques comme Hà Giang, Cao Bằng, Yên Bái, Điện Biên, Sapa etc. C’est aussi le symbole de leur identité dans un pays à 54 ethnies.
Dyeing, weaving, and embroidery are the main tasks of women from ethnic minorities in making their traditional costumes. These not only display a multitude of different styles but also a range of shimmering colors. To dye linen or hemp fabrics, ethnic minorities such as the Hmong and Yao Tien use batik. This is a wax-resist dyeing technique, used to protect parts of the fabric from dye during the creation of patterns. The Egyptians used batik to wrap their mummies over 2400 years ago. This artisanal technique spread throughout China, India, Japan, and Indonesia. It is in the latter country that it is highly developed on the island of Java and thus takes the name « batik, » of Javanese origin. It is based on the prior application of wax on the material.
First, patterns are drawn on the fabric with melted wax. The tools used are copper reservoir styluses with a curved tip, triangular stamps, or small bamboo tubes. Depending on the complexity of the design, the wax can be applied several times on different colors in dye baths. Then the final fixing bath is necessary in boiling water to completely melt the wax. The patterns protected from the dye appear light against an indigo background. This is how the decorated fabric is obtained.
Their colorful costumes and magnificent finery have become over the years the undeniable force of attraction they exert on foreign tourists when they have the opportunity to visit regions of Vietnam where there is a high concentration of ethnic minorities such as Hà Giang, Cao Bằng, Yên Bái, Điện Biên, Sapa etc. It is also the symbol of their identity in a country with 54 ethnic groups.
Techniques de pêche d’autrefois au Viet Nam
Cách thức bắt cá ngày xưa ở Việt Nam
Nhũi là một dụng cụ dùng để bắt cá. Nó có hai cái cán bằng tre tréo vơi nhau dươí dạng hình chữ X mà ở giữa lại có một tấm « sáo » bện bằng những cọng tre vót nhỏ mà ở cuối đầu dưới thì có một miếng gỗ lưỡi mỏng. Khi cầm hai cán nhũi đẩy thì một số lượng nước đi vào nhũi và thoát ra ở phiá sau qua các cọng tre chỉ còn ở lại cá,cua hay tôm. Người đi nhũi hay thường mang theo rọ tre để đựng cá.
Version française
Nhũi est un outil de pêche très efface pour attraper les poissons. Il est constitué de deux longues manches en bambou attachées en forme de croix au milieu desquelles se trouve une armature creuse faite avec des petites tiges de bambou et terminée à sa partie inférieure par un mince morceau de bois. Au moment de son utilisation, il y a une quantité d’eau qui s’y introduit et s’échappe par derrière à travers ses tiges de bambou, ce qui permet de retenir les poissons, crabes et crevettes. Le pêcheur est habitué à emmener avec lui le panier à goulots pour contenir ces crustacés.
Version anglaise
Nhũi is a highly effective fishing tool for catching fish. It consists of two long bamboo handles attached in the shape of a cross, in the middle of which is a hollow frame made from small bamboo stalks and terminated at the bottom by a thin piece of wood. When in use, a quantity of water enters and escapes through the bamboo stems at the back, holding back fish, crabs and shrimps. The fisherman is accustomed to taking the basket with him to hold these crustaceans.
Culture du riz inondé (Canh tác trồng lúa nước)
Chính cũng ở đất nước ta với các cuộc khai quật ở đầu thế kỷ 20 mà nhà nữ khảo cổ Pháp Madeleine Colani khám phá được văn hoá Hòa Bình (18000-10000 TCN) vào năm 1922. Đây cũng là một nền văn hoá khởi nguồn cho nền văn minh của người Việt cổ, một nền văn minh trồng lúa nước. Nhờ các cuộc khai quật khảo cổ trong thời gian qua thì biết rõ ngày nay cư dân Hoà Bình là những người đầu tiên biết rõ về kỷ thuật trồng lúa nước và nông nghiệp khác như ngũ cốc vân vân…(Hang Ma chẳng hạn).
C’est aussi dans notre pays que l’archéologue française Madeleine Colani a découvert, lors des fouilles archéologiques au début du 20ème siècle, la culture de Hoà Bình (18000-10000 avant JC) en 1922. C’est aussi la culture donnant naissance à la civilisation des Proto-Vietnamiens, une civilisation du riz inondé. Grâce aux fouilles archéologiques dans le passé, on sait maintenant que les habitants de Hoà Bình étaient les premiers à connaître la culture du riz irrigué et d’autres techniques agricoles comme la culture des céréales etc. (La cave des esprits par exemple).
It was also in our country that French archaeologist Madeleine Colani discovered the Hoà Bình culture (18000-10000 BC) in 1922, during archaeological excavations in the early 20th century. This is also the culture that gave rise to the Proto-Vietnamese civilization, a civilization of flooded rice. Thanks to archaeological excavations in the past, we now know that the inhabitants of Hoà Bình were the first to know irrigated rice cultivation and other agricultural techniques such as cereal cultivation, etc. (La cave des esprits, for example).
Photos prises au Musée d’ethnographie (Hanoï)
Culture du riz inondé
Poétesse Huyện Thanh Quan
Ít ai biết tên thật của bà trong làng văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ XIX. Chỉ gọi bà là bà huyện Thanh Quan vì chồng bà tên là Lưu Nghị, có đậu cử nhân năm 1821 (Minh Mạng thứ 2) và có một thời làm tri huyện Thanh Quan (tỉnh Thái Bình). Thật sự tên thật của bà là Nguyễn Thị Hinh người phường Nghi Tâm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây, quận Tây Hồ (Hà Nội). Cha của bà là ông Nguyễn Lý (1755-1837) đỗ thủ khoa năm 1783 dưới đời vua Lê Hiến Tông. Qua các bài thơ nôm bi thương của bà, chúng ta thường thấy có sự nhớ thương day dứt không nguôi, có một nỗi buồn của nữ sĩ đa tài về những sự thay đổi của cảnh vật thâm trầm nhất là Thăng Long nơi mà sinh ra cũng không còn là kinh đô của đất nước mà là Huế. Còn chồng bà cũng bị cách chức một thời sau đó được thăng lên chức Bát phẩm Thư lại bộ Hình và mất sớm ở tuổi 43. Bà rất nỗi tiếng « hay chữ » nhất là về loại thơ Đường. Loại thơ nầy còn được gọi là cổ thi vì được dùng cho việc thi cử tuyển chọn nhân tài, rất phổ biến ở Việt Nam vào thời Bắc thuộc (Nhà Đường). Bởi vậy thơ nầy mới có tên là thơ Đường.
Lọai thơ nầy chỉ vỏn vẹn có 8 câu ; mỗi câu 7 chữ tức là có tất cả là 8×7= 56 chữ thế mà bà mô tả và dựng lên được một cách tài tình, một bức tranh tuyệt vời từ ngọai cảnh lẫn nội dung. Tuy nhiên thể thơ nầy nó có luật rất chặt chẽ và được điều chỉnh bởi ba quy tắc thiết yếu :vần, điệu và đối khiến ở Việt Nam từ 1925 thì các thi sĩ không còn tôn trọng quy luật bằng-trắc để có thể hiện được sự lãng mạn của mình trong từng câu thơ. Nhưng những bài thơ thất ngôn bát cú của bà Thanh Quan thì phải xem đây là những viên ngọc quý trong làng văn học Việt Nam. Bà đã thành công trong việc vẽ được một cảnh quan nhỏ bé với 56 chữ và bày tỏ cảm xúc sâu sắc của mình một cách tinh tế và sử dụng ngôn ngữ Hán Việt trong thể thơ thất ngôn bát cú một cách điêu luyện.Theo nhà nghiên cứu Trần Cửu Chấn, thành viên của Viện hàn lâm văn học và nghệ thuật Paris thì các bài thơ của bà được xem như là những viên ngọc quý được bà chọn lọc và gọt dũa đặt trên vương miện hay được cắt bằng men.
Các bài thơ Đường của bà không chỉ mang tính chất cổ điển mà còn thể hiện được sự điêu luyện trong cách dùng chữ. Bà còn có tài năng biết biến thành những biểu tượng vô hồn như đá (Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt), nước (Nước còn chau mặt với tang thương), hay cỏ cây (Cỏ cây chen đá, lá chen hoa) thành những vật thể sinh động, còn mang tính và hồn người và còn biết dùng màu sắc đậm nhạt để thể hiện sự tương phản (Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn/ Vàng tỏa non tây bóng ác tà) hay đưa quá khứ về cùng với hiện tại (Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/Nền cũ lâu đài bóng tịch dương/Ngàn năm gương cũ soi kim cổ) khiến các bài thơ tả cảnh của bà trở thành những bức tranh thiên nhiên tuyệt vời cũng như các bức tranh thủy mà họa sĩ dùng bút lông vẽ trên lụa với sắc thái đậm nhạt nhờ quan sát chính xác.
Những bài thơ Đường của bà rất được các nho gia xưa ngâm nga yêu chuộng. Tuy rằng chỉ tả cảnh và bày tỏ nỗi cảm xúc của mình nhưng lời thơ rất thanh tao của một bà thuộc tầng lớp qúy tộc cao có học thức thường nghĩ ngợi đến nhà, đến nước. Đây là lời nhận xét của nhà nghiên cứu văn học Dương Quảng Hàm. Bà có tấm lòng thương tiếc nhà Lê nhưng đồng thời chỉ bày tỏ tâm sự của một người không bằng lòng với thời cục, mong mỏi sự tốt đẹp như đã có ở một thời xa xôi trước đây mà thôi. (Nghìn năm gương cũ soi kim cổ/ Cảnh đấy người đây luống đoạn trường). Cụ thể bà còn giữ chức Cung Trung Giáo Tập để dạy học cho các công chúa và cung phi dưới thời vua Minh Mang cûa nhà Nguyễn. Có một lần vua Minh Mạng có một bộ chén kiểu của Trung Quốc mới đưa sang và vẽ sơn thủy Việt Nam cũng như một số đồ sứ kiểu thời đó. Vua mới khoe và ban phép cho bà được làm một bài thơ nôm. Bà liền làm ngay hai câu thơ như sau :
Như in thảo mộc trời Nam lại
Đem cả sơn hà đất Bắc sang.
khiến làm vua rất hài lòng và thích thú. Phài nói người Trung Hoa hay thường xem trọng sơn hà nên thường thấy ở trên các đồ kiểu còn ở Việt nam ta thì rất hướng về ruộng lúa xanh tươi thế mà bà biết vận dụng thành thạo chữ nôm để có hai câu thơ đối gợi ý tuyệt vời.
Nhưng sau khi chồng bà qua đời, một tháng sau bà xin về hưu và trở về sinh sống ở quê quán của mình cùng 4 đứa con. Bà mất đi ở tuổi 43 vào năm 1848.(1805-1848)
Các bài thơ nôm của bà tuy không nhiều chỉ có 6 bài nhưng thể hiện được tinh thần thanh cao của các nho sĩ, cùng với tinh túy của Đường thi. Viết chữ Hán thì đã khó mà sang chữ Nôm thì càng khó hơn vì khó học mà còn dùng lời văn trang nhã, điêu luyện và ngắn gọn như bà để giữ được quy tắc chặt chẽ của thơ Đường. Thật không có ai có thể bằng bà đựợc nhất là bà biết dùng ngoại cảnh để bày tỏ nỗi cô đơn và tâm trạng của mình. Bà cũng không biết cùng ai để chia sẻ cái ray rứt ở trong lòng (Một mảnh tình riêng ta với ta./Lấy ai mà kể nổi hàn ôn?). Bà luôn luôn tiếc nuối xót xa về quá khứ với một tâm hồn thanh cao lúc nào cũng hướng về gia đình và quê hương.
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa
Lom khom dưới núí, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mâý nhà
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc
Thương nhà, mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại: trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
THĂNG LONG HOÀI CỔ
Tạo hoá gây chi cuộc hí trường
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường.
CẢNH CHIỀU HÔM
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc đưa xa vẳng trống đồn
Gác mái, ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai, gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu, sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn chương đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nổi hàn ôn?
CHIỀU HÔM NHỚ NHÀ
Vàng tỏa non tây bóng ác tà
Đầm đầm ngọn cỏ tuyết phun hoa
Ngàn mai lác đác chim về tổ
Dậm liễu bâng khuâng khách nhớ nhà
Còi mục gác trăng miền khoáng dã
Chài ngư tung gió bãi bình sa
Lòng quê một bước dường ngao ngán
Mấy kẻ chung tình có thấu là..?
CHÙA TRẤN BẮC
Trấn bắc hành cung cỏ dãi dầu
Ai đi qua đó chạnh niềm đau
Mấy tòa sen rớt mùi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá
Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu
CẢNH THU
Thấp thoáng non tiên lác đác mưa
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn, say chấp rượu,
Túi lưng phong nguyệt, nặng vì thơ
Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ ?
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ ?…
Peu de gens connaissaient son vrai nom dans la communauté littéraire vietnamienne au début du XIXème siècle. On l’appelait simplement Madame le sous-préfet du district Thanh Quan parce que son mari Lưu Nghi fut reçu aux trois concours de la licence en 1821 sous le règne de l’empereur Minh Mang et fut un temps sous-préfet du district de Thanh Quan (province de Thái Binh). En fait, son vrai nom était Nguyễn Thị Hinh. Elle était issue du village Nghi Tâm du district de Vĩnh Thuận, près du lac de l’Ouest dans l’arrondissement de Tây Hồ (Hanoï). Son père était Mr Nguyễn Lý (1755-1837) ayant eu réussi être le premier dans le concours interprovincial en 1783 sous le règne du roi Lê Hiến Tông. À travers à ses poèmes élégiaques, nous remarquons toujours la douleur et la tristesse sempiternelle de la poétesse talentueuse face aux changements ayant un profond impact au paysage, en particulier à l’ancienne capitale Thăng Long où elle est née. Cette dernière n’était plus la capitale du pays mais c’était plutôt Huế. Son mari fut licencié durant un certain temps avant d’être promu au poste de secrétaire du Ministère de la Justice. Il fut décédé prématurément à l’âge de 43 ans. Elle a un penchant pour la versification Tang. Ce type de poésie est également appelé la poésie antique car il est utilisé dans les concours destinés à recruter des gens de talent et il est très populaire au Vietnam durant la période de domination des gens du Nord (dynastie des Tang). C’est pourquoi il s’appelle la poésie des Tang.
Ce type de poème composé seulement de 8 vers de 7 pieds permet d’avoir un total de 8 × 7 = 56 mots. Pourtant la poétesse réussit à décrire avec ingéniosité un magnifique tableau porté à la fois sur le paysage externe et le contenu. Cependant, ce poème des Tang a des règles très strictes et est régie par trois principes essentiels: la rime, le rythme et le parallélisme. Depuis 1925 au Vietnam, les poètes ne respectent plus les règles de la métrique pour s’exprimer librement dans le but d’obtenir le lyrisme dans chaque vers. Mais les poèmes des Tang de Mme Thanh Quan doivent être considérés comme un joyau précieux dans le monde littéraire vietnamien. Elle a réussi à décrire et à brosser un petit paysage avec 56 mots et a exprimé ses profonds sentiments de manière raffinée. Elle a utilisé la langue sino-vietnamienne sous une forme poétique de 8 vers de 7 pieds avec adresse. Selon le chercheur Trần Cửu Chấn, membre de à l’Académie des Lettres et des Arts de Paris, ses poèmes Tang sont considérés comme des perles précieuses qu’elle sélectionne, polit et met sur une couronne en or ou ciselée en émail.
Ses poèmes n’ont pas seulement le caractère classique mais ils traduisent aussi la virtuosité dans l’utilisation des mots. Elle a également le talent de savoir transformer des éléments sans vie tels que la pierre (la pierre reste toujours impassible au fil du temps), l’eau (l’eau se montre indignée devant l’instabilité des choses de la vie) ou l’herbe et les arbres (l’herbe et les arbres s’intercalent avec les rochers tandis que les feuilles s’introduisent au sein des fleurs) en des êtres vivants ayant la nature humaine et l’âme et utiliser des couleurs foncée et claire pour faire sortir les contrastes (Sous le ciel blafard, le soir ramène les ombres du crépuscule / Le jaune brille sur les montagnes de l’ouest sous les rayons du soleil couchant) ou rapprocher le passé du présent ((Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/ Sur la vieille voie prise par les calèches, se promène l’âme des herbes d’automne)(Nền cũ lâu đài bóng tịch dương/ Les vestiges du palais somptueux sont éclairés par les rayons du soleil couchant) (Ngàn năm gương cũ soi kim cổ/ Au fil des siècles, dans ce miroir antique, on met en parallèle le passé et le présent). Cela fait de ses poèmes Tang décrivant des scènes de paysage en de merveilleuses peintures naturelles comme les aquarelles que l’artiste réussit à peindre au pinceau sur le tissu en soie avec des nuances entre le foncé et clair à l’aide d’une observation rigoureuse.
Ses poèmes des Tang sont très appréciés par les anciens érudits confucéens. Bien qu’ils ne fassent que décrire le paysage et exprimer ses sentiments, les termes employés sont tellement raffinés et écrits par une dame aristocratique très instruite qui pense souvent à son foyer et à son pays. C’est le commentaire du chercheur littéraire Dương Quảng Hàm. Elle avait un attachement profond à la dynastie des Lê mais en même temps elle n’exprimait que les sentiments de quelqu’un qui n’était pas satisfait de la situation actuelle et qui espérait de retrouver ce qui existait auparavant. ( Ngàn năm gương cũ soi kim cổ/Cảnh đấy người đây luống đoạn trường) (Devant ce tableau, mes entrailles se sentent déchirées en morceaux). La preuve est qu’elle acceptait la tâche d’enseigner les princesses et les concubines sous le règne de l’empereur Minh Mạng de la dynastie des Nguyễn. Une fois, ce dernier reçut un nouvel service à thé en céramique venant de la Chine et ayant pour décor le paysage du Vietnam. Il le montra à ses subordonnés et demanda à la poétesse de composer un distique. Elle ne tarda pas à improviser les deux sentences suivantes:
Như in thảo mộc trời Nam lại
Đem cả sơn hà đất Bắc sang.
L’herbe et les arbres du Sud sont reproduits visiblement sur la céramique ainsi que les monts et fleuves du Nord ainsi ramenés.
Sa spontanéité rendit satisfait l’empereur. Il faut reconnaitre que les Chinois font souvent attention aux montagnes et aux fleuves qu’on retrouve souvent sur les objets de décoration. Par contre au Vietnam, on s’attache à la luxuriance des rizières. Elle réussit à saisir l’essentiel et à composer ces deux vers parallèles tout en sachant respecter strictement les règles de poésie des Tang. Lors du décès de son mari, un mois plus tard, elle demanda au roi de lui permettre de désister sa fonction et retourner à sa terre natale avec ses quatre enfants. Elle mourut en l’an 1848 lorsqu’elle n’avait que 43 ans. (1805-1848)
Étant en nombre limité (6 en tout), ses poèmes réussissent à refléter l’esprit noble des poètes et la quintessence de la poésie des Tang. La composition de ces poèmes est déjà difficile en caractères chinois mais elle parait insurmontable en caractères démotiques dans la mesure où il faut respecter en plus les règles strictes de la poésie des Tang. Peu de gens arrivent à l’égaler car elle sait utiliser des mots avec une rare finesse de langage pour révéler sa solitude et son état d’âme tout en s’appuyant sur le pittoresque des scènes de la nature. Elle ne sait non plus à qui elle peut révéler ses confidences. (Một mảnh tình riêng ta với ta./Lấy ai mà kể nổi hàn ôn?). Sous le poids de son état d’âme, elle se sent seule avec soi-même. Elle continue à éprouver des regrets et se retourner vers le passé avec son esprit noble et à penser sans cesse à son foyer et à sa terre natale.
LE COL DE LA PORTE D’ANNAM (*)
Au moment je gravis le Col de la Porte d’Annam, les ombres du crépuscule s’allongent vers l’occident
L’herbe et les arbres s’introduisent dans les rochers, les fleurs éclosent au milieu des feuilles.
Au pied de la montagne marchent quelques bûcherons , le dos courbé sous le faix;
Sur l’autre côté de la rivière s’élève un marché formé de quelques cases éparses.
En pensant avec douleur à la patrie absente le râle d’eau gémit sans arrêts,
Oppressée par l’attachement au foyer, la perdrix pusse des cris ininterrompus.
Je m’arrête sur le chemin et ne vois autour de moi que ciel, montagnes et mer;
Sous le poids de cet état d’âme, je me sens seule avec moi-même.
CRÉPUSCULE (*)
Sous un ciel blafard, le soir ramène les ombres du crépuscule
Au loin le son de la trompe des veilleurs répond au tam-tam du poste de garde.
Déposant sa rame, le vieux pêcheur regagne sa station lointaine;
Le jeune bouvier frappant sur les cornes de son buffle, retourne au hameau solitaire.
Les oiseaux volent avec effort vers les immenses touffes d’abricotiers qui ondulent sous le vent;
Le voyageur presse le pas sur la route que bordent les saules enveloppés de brume.
Moi je reste au logis ; vous , vous êtes en voyage;
À qui pourrais-je exprimer toutes mes confidences?
(*) Extrait du livre intitulé « Les grandes poétesses du Vietnam », Auteur Trần Cửu Chấn. éditions Thế Giới
Con phượng hoàng (Le phénix)
Con phượng hoàng
The phoenix (Fenghuang)
Cũng như kỳ lân mà người Hoa tHạ thường dùng để ám chỉ một cập thì con phượng hoàng (Fenghuang) nầy cũng vậy. Phượng hay phụng chỉ con đực và hoàng là con cái. Nhưng người dân Việt chỉ gọi gắn gọn con chim nầy bằng phượng hoàng trong văn hóa. Phượng hoàng có phần tựa giống con chim trĩ có mỏ diều hâu dài, mảo trĩ, vảy cá chép, móng chim ưng và đuôi công. Lông của nó đại diện cho màu sắc của ngũ hành: đen, trắng, đỏ, xanh và vàng. Nó là một loài chim lớn ở thời tiền sử thường được coi là con chim thần thoại trong văn hóa phương Đông và hoàn toàn khác biệt với phượng hoàng trong khái niệm của phương tây. Theo truyền thuyết, phượng hoàng chỉ xuất hiện vào thời thái bình, và sẽ ẩn mình trong thời loạn lạc. Chim còn biểu thị cho sự hòa hợp âm dương. Bởi vậy chim được dùng cùng rồng để nói lên quan hệ hạnh phúc và quyền lực mà Thượng đế ban cho hoàng hậu (Âm) và vua (Dương). Nó còn biểu hiện đức hạnh và vẻ duyên dáng nữa. Trong truyền thuyết « Con Rồng Cháu Tiên » của dân tộc ta thì chim là hoá thân của mẹ Tiên Âu Cơ cùng cha rồng Lạc Long Quân. Vậy con phượng hoàng nầy nó có nguồn gốc từ đâu? Nó có phải là con linh vật của người Hoa Hạ hay của đại tộc Bách Việt? Dĩ nhiên nó xuất hiện ở Trung Hoa nhưng ở trong địa bàn của dân Bách Việt bị thôn tính bởi người Hoa Hạ vì hình tượng của nó được tìm thấy sớm nhất trên các miếng ngọc và các hiện vật của nền văn hóa Thạch Gia Hà (Shiziahé) và Lương Chữ (Lianzhu) ở vùng trung và hạ lưu của sông Dương Tử, nơi mà người dân có một lối sống định cư ổn định sớm cùng một hệ thống tưới tiêu ruộng lúa bằng nguồn nước lưu giữ qua các kênh mương. Các học giả Trung Hoa xác nhận cư dân ở đây là Vũ Nhân (羽 人) hay Vũ dân tức là những người thờ vật Chim và Thú tức là Tiên Rồng (truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên).Theo tự điển Hán nôm, chữ Vũ (羽) chỉ chung một loại chim. Tại sao Tiên Rồng? Từ thưở xưa, chim là loại vật có thể bay cao vượt núi đến bồng lai tiên cảnh, nơi cư ngụ của các tiên nữ. Còn rồng chắc chắn là thủy quái mà trong sử nước ta gọi là con thuồng luồng (giao long). Thời đó ở sông Dương Tử có một loại cá sấu nay đang ở trong tình trạng bị đe dọa tuyệt chủng. Để tránh sự tấn công của thủy quái, tộc Việt hay có tục lệ xâm mình. Bởi vậy tộc Việt ghép cho vật tổ của họ là Chim và Rồng với quan niệm song trùng lưỡng hợp (hai thành một).
Còn tên thị tộc Hồng Bàng cũng từ vật tổ Chim Rồng mà ra. Ở văn hóa Thạch Gia Hà còn thấy các hiện vật hình tròn bằng ngọc thể hiện chim phượng hoàng hay rồng được tạo tác một cách tinh vi. Theo nhà khoa học chính trị người Mỹ Charles E. Merriam của đại học Chicago thì đây là một phương thức hợp pháp hóa thực nghiệm quyền lực và giữ vai trò «miranda» [*] để buộc dân chúng phải kính trọng hai loại vật linh thiêng nầy. Bởi vậy cư dân ở đây có thói xâm hình rồng trên người và đội mũ lông chim để thể hiện điều nầy. Các tập tục nầy đều có ở dân tộc ta và được thể hiện ở trên trống Đồng Sơn. Chính ở nơi nầy về sau thời Chiến Quốc là địa bàn của nước Sở sau khi thôn tính được hai nước Ngô Việt của Ngũ Tử Tư và Câu Tiễn. Chính cũng có một thưở ban sơ trong truyền thuyết của dân tôc ta có nhắc đến họ Hồng Bàng. Cụm từ nầy cũng từ Chim Rồng mà ra. Còn nước Văn Lang, bắc tới Hồ Động Đình, đông thì Biển Đông, tây giáp với Ba Thục, nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành) thì cũng nằm hoàn toàn trong địạ bàn của nước Sở. Sự trùng hợp ngẫu nhiên nầy càng cũng cố thêm quan điểm của Edouard Chavannes[2] và Léonard Aurousseau [3]: người Việt cổ và các thần dân của nước Sở có cùng chung tổ tiên: chữ Mi ở trong ngôn ngữ nước Sở khi dịch sang Hùng (熊) trong tiếng Việt thì được xem là tên của các vị vua nước Sở và các vị vua nước Việt. Dựa trên sử ký lịch sử của Tư Mã Thiên do E. Chavannes [2] dịch, chúng ta còn biết rõ vua của nước Sở đến từ những kẻ man rợ ở miền Nam (hay Bách Vịệt). Hùng Cừ nói: Tôi là một kẻ man rợ và tôi không nhận chức tước và tên truy tặng của nước Trung Hoa cả.
Nói tóm lại, phượng hoàng là con linh vật của đại tộc Bách Việt. Bởi vậy ở vùng đất của đại tộc Bách Việt như ở Quảng Đông thuộc nước Nam Việt thưở xưa nay vẫn còn món ẩm thực nổi tiếng đó là món ăn có tên là Phượng trảo » (鳳爪) tức là chân gà hầm nấu với đậu đen. Cũng có ở môt địa diểm nổi tiếng tên là Phượng hoàng cổ trấn (Fenghuang) ở tỉnh Hồ Nam trong địa bàn nước Sở của Trung quốc ngày nay. Nơi nầy còn gìn giữ được những nét văn hóa đặc sắc của người Miêu (hay Hmong), một tộc trong đại tộc Bách Việt. Cần nhắc lại trong tập Lĩnh Nam Chích Quái có kể rằng vào đời Chu Thành Vương (Zhou Chengwang), Hùng Vương sai bề tôi tự xưng là người Việt Thường đem dâng nhà Chu một con chim trĩ trắng để liên kết sự giao hảo và thân thiện với nhà Chu trong thời bình. Có phải con chim trĩ nầy là con phượng hoàng không? Có người cho rằng con chim Lạc ở trên trống Đồng Sơn là tiền thân của hình tượng phượng hoàng ở những thời đại sau này. Có đúng hay không? Sự việc nầy chưa có phần giải đáp cho đến ngày hôm nay nhưng chúng ta có thể xác định một điều là người Việt cổ có tín ngưỡng thờ chim.
[*]miranda: thuật ngữ này liên quan đến các biểu tượng đề cập đến cảm xúc của một dân tộc nhằm áp đặt sự tôn trọng hoặc sự thán phục.
Analogue à la licorne que les Chinois ont utilisée pour se référer à un couple d’animaux, le phénix (Fenghuang) l’est aussi. Phượng (ou phụng) désigne un mâle tandis que Hoàng est réservée à la femelle. Les Vietnamiens appellent tout simplement le phénix sans distinction dans leur culture. Cet oiseau ressemble à un faisan avec un long bec de faucon, une crête de faisan, des écailles de carpe, des griffes d’aigle et une queue de paon. Ses plumes représentent les couleurs des cinq éléments (Wu Xing): noir, blanc, rouge, jaune et vert. C’est un grand oiseau préhistorique souvent considéré comme un oiseau mythique dans la culture de l’Orient et complètement différent du phénix trouvé dans les concepts occidentaux. Selon la légende, le phénix n’apparaît qu’en temps de paix et se cache en temps de trouble ou du désordre. Il manifeste également l’harmonie entre le yin et le yang. C’est pourquoi on se sert du phénix pour évoquer à la fois la relation heureuse et le pouvoir que Dieu accorde à la reine (Yin) et au roi (Yang). Il est aussi le symbole de vertu et de grâce. Dans la légende «Le fils du dragon et le petit-fils de l’Immortelle» de notre peuple, l’oiseau est la réincarnation de la fée mère Âu Cơ et du père dragon Lac Long Quan. Alors, d’où vient ce phénix ? Est-il l’oiseau sacré des Chinois ou celui des Bai Yue?
Il est apparu en Chine mais dans l’aire des Bai Yue annexée par les Chinois car son image a été retrouvée plus tôt sur les objets en jade des cultures de Shiziahé et Liangzhu se trouvant respectivement dans les cours milieu et inférieur du fleuve Yang Tse, où les gens avaient un mode de vie sédentaire précoce et un système d’irrigation et de drainage des rizières avec de l’eau emmagasinée via des canaux. Les érudits chinois confirment que les gens d’ici sont des Vũ Nhân (羽 人) ou des Vũ Dân. Ce sont les adorateurs des oiseaux et des animaux, càd les Enfants du Dragon et les Grands Enfants de l’Immortelle (Con Rồng Cháu Tiên). Selon le dictionnaire sino-vietnamien, le mot Vũ (羽) fait référence à un oiseau. Pourquoi Fée-Dragon ? Dans les temps anciens, les oiseaux sont des animaux pouvant voler au-dessus des montagnes jusqu’à l’endroit où vivent les Immortelles. Quant au dragon, il est certainement un monstre marin qui, dans l’histoire de notre pays, s’appelle le dragon d’eau (Giao Long). À cette époque, dans le fleuve Yang Tsé, il y avait un type d’alligator qui est maintenant en danger d’extinction. Afin d’éviter l’attaque de ce monstre marin, les Proto-Vietnamiens avaient coutume de se tatouer. C’est pourquoi ils associaient à leur totem le couple (Oiseau /Dragon) avec la notion de dualité (deux en un). Le nom du clan Hồng Bàng provient également du couple (Oiseau/Dragon).
Dans la culture de Shijiahé, il y a également des artefacts ronds en jade (phénix, dragons) et fabriqués de manière tellement sophistiquée. Selon le politologue américain Charles E. Merriam [1] de l’université de Chicago, il s’agit d’un moyen de légitimation empirique du pouvoir et de possession de la fonction «miranda» pour forcer les gens à respecter ces deux animaux sacrés. C’est pourquoi les gens d’ici aiment tatouer des dragons sur leur corps et porter des chapeaux de plumes pour les montrer. Ces coutumes ont été retrouvées chez notre peuple et sur le tambour de bronze de Đồng Sơn. C’est ici qui devint plus tard durant la période des Royaumes combattants, le territoire de l’État Chu après que ce dernier avait réussi à annexer les deux états Wu et Yue de Wu Zisu et Goujian. Dans le légendes de notre peuple, le nom patronymique Hồng Bàng est souvent mentionné. Ce nom trouve également toute sa source dans les mots « Oiseau » et « Dragon ».
Etant délimité au nord par le lac Dongtin, à l’est par la mer de l’Est, à l’ouest par le royaume Ba et au sud par le Champa, le royaume Văn Lang se trouvait entièrement dans l’aire géographique de l’état Chu. Cette coïncidence renforce encore les points de vues d’Édouard Chavannes[2] et de Léonard Aurousseau[3] : les Proto-Vietnamiens et les sujets de l’état Chu avaient des ancêtres communs: les noms Mi de l’état Chu traduit en Hùng (熊) en vietnamien étaient considérés comme les noms des rois de l’état Chu et ceux des rois vietnamiens. D’après les chroniques historiques de Sima Qian traduites par E. Chavannes [2], on sait aussi que le roi de Chu était issu des barbares (Man Di) du Sud (ou Bai Yue). Hùng Cừ a déclaré : Je suis un barbare et je n’accepte pas de titres et de noms posthumes en provenance de la Chine. En résumé, le phénix est l’animal sacré des Bai Yue. C’est pourquoi dans les territoires des Bai Yue, comme à Canton appartenant autrefois au royaume de Nan Yue, il existe encore un plat célèbre appelé « Griffes de Phénix » (鳳爪), où des pattes de poulet sont mitonnées avec des haricots noirs. Il y a également une ancienne ville très célèbre appelée en vietnamien « Phượng Hoàng cổ Trấn (ou village ancien Fenghuang » dans la province du Hunan faisant partie du territoire de l’état Chu d’autrefois où on conserve encore les caractéristiques culturelles uniques du peuple Miao (ou Hmong), l’une des tribus des Bai Yue.
Il est important de rappeler que dans le recueil intitulé « La Sélection des contes étranges à Lĩnh Nam (Lĩnh Nam Chích Quái », il est dit que sous le règne du roi Zhu Chengwang (Chu Thành Vương) de l’état Zhou, le roi Hùng ordonna à son ambassadeur de présenter au roi de Zhou un faisan blanc pour se lier de bonne relation et d’amitié avec l’état Zhou en temps de paix. Le faisan est-il le phénix évoqué ? Certains pensent que l’oiseau Lạc sur le tambour de bronze Đồng Sơn est le précurseur de l’image du phénix des époques ultérieures. Est-ce vrai ou pas? Ce fait n’apporte pas de réponse jusqu’à aujourd’hui. Par contre nous pouvons affirmer que les Proto-Vietnamiens croyaient au culte des oiseaux.
miranda: ce terme se rapporte aux symboles s’adressant à l’émotivité d’un peuple pour lui imposer le respect ou l’émerveillement.
Analogous to the unicorn that the Chinese used to refer to a pair of animals, the phoenix (Fenghuang) is as well. Phượng (or phụng) designates a male, while Hoàng is reserved for the female. The Vietnamese simply call the phoenix without distinction in their culture. This bird resembles a pheasant with a long hawk-like beak, a pheasant crest, carp scales, eagle claws, and a peacock tail. Its feathers represent the colors of the five elements (Wu Xing): black, white, red, yellow, and green. It is a large prehistoric bird often considered a mythical bird in Eastern culture and completely different from the phoenix found in Western concepts. According to legend, the phoenix appears only in times of peace and hides in times of trouble or disorder. It also represents the harmony between yin and yang. That is why the phoenix is used to evoke both the happy relationship and the power that God grants to the queen (Yin) and the king (Yang). It is also a symbol of virtue and grace. In the legend « The Dragon’s Son and the Immortal’s Grandson » of our people, the bird is the reincarnation of the fairy mother Âu Cơ and the dragon father Lạc Long Quân. So, where does this phoenix come from? Is it the sacred bird of the Chinese or that of the Bai Yue?
It appeared in China but in the Bai Yue area annexed by the Chinese because its image was found earlier on jade objects from the Shiziahé and Liangzhu cultures located respectively in the middle and lower courses of the Yangtze River, where people had an early sedentary lifestyle and a system of irrigation and drainage of rice fields with water stored through canals. Chinese scholars confirm that the people here are Vũ Nhân (羽人) or Vũ Dân. They are worshippers of birds and animals, that is, the Children of the Dragon and the Great Children of the Immortal (Con Rồng Cháu Tiên). According to the Sino-Vietnamese dictionary, the word Vũ (羽) refers to a bird. Why Fairy-Dragon? In ancient times, birds were animals capable of flying over mountains to the place where the Immortals live. As for the dragon, it is certainly a sea monster which, in the history of our country, is called the water dragon (Giao Long). At that time, in the Yangtze River, there was a type of alligator which is now endangered. To avoid attacks from this sea monster, the Proto-Vietnamese used to tattoo themselves. That is why they associated their totem with the couple (Bird/Dragon) with the notion of duality (two in one). The name of the Hồng Bàng clan also comes from the couple (Bird/Dragon).
In the culture of Shijiahé, there are also round jade artifacts (phoenix, dragons) made in such a sophisticated manner. According to American political scientist Charles E. Merriam [1] from the University of Chicago, this is an empirical means of legitimizing power and possessing the « miranda » function to compel people to respect these two sacred animals. That is why the people here like to tattoo dragons on their bodies and wear feathered hats to show them. These customs have been found among our people and on the bronze drum of Đồng Sơn. This is the place that later, during the Warring States period, became the territory of the Chu State after it succeeded in annexing the two states Wu and Yue of Wu Zisu and Goujian. In the legends of our people, the surname Hồng Bàng is often mentioned. This name also finds its origin in the words « Bird » and « Dragon. »
Being bordered to the north by Dongtin Lake, to the east by the East Sea, to the west by the Ba kingdom, and to the south by Champa, the Văn Lang kingdom was entirely located within the geographical area of the Chu state. This coincidence further supports the views of Édouard Chavannes[2] and Léonard Aurousseau[3]: the Proto-Vietnamese and the subjects of the Chu state had common ancestors: the Mi names of the Chu state translated into Hùng (熊) in Vietnamese were considered the names of the kings of the Chu state and those of the Vietnamese kings. According to the historical chronicles of Sima Qian translated by E. Chavannes[2], it is also known that the king of Chu descended from the southern barbarians (Man Di) (or Bai Yue). Hùng Cừ declared: I am a barbarian and I do not accept titles and posthumous names from China. In summary, the phoenix is the sacred animal of the Bai Yue. That is why in the territories of the Bai Yue, such as in Canton, formerly belonging to the Nan Yue kingdom, there still exists a famous dish called « Phoenix Claws » (鳳爪), where chicken feet are stewed with black beans. There is also a very famous ancient town called in Vietnamese « Phượng Hoàng cổ Trấn » (or ancient Fenghuang village) in Hunan province, which was part of the territory of the former Chu state, where the unique cultural characteristics of the Miao (or Hmong) people, one of the Bai Yue tribes, are still preserved.
It is important to recall that in the collection entitled « The Selection of Strange Tales in Lĩnh Nam (Lĩnh Nam Chích Quái), » it is said that during the reign of King Zhu Chengwang (Chu Thành Vương) of the Zhou state, King Hùng ordered his ambassador to present to the King of Zhou a white pheasant to establish good relations and friendship with the Zhou state in times of peace. Is the pheasant the phoenix mentioned? Some believe that the Lạc bird on the Đồng Sơn bronze drum is the precursor of the image of the phoenix in later periods. Is this true or not? This fact remains unanswered to this day. However, we can affirm that the Proto-Vietnamese believed in the worship of birds.
miranda: this term refers to symbols that appeal to the emotions of a people to impose respect or wonder upon them.
Bibliographie:
[1] Charles E. Merriam, Political power : Its composition and incidence, New York-Londres, Whittlesey House/McGraw-Hil, 1934.
[2] Edouard Chavannes :Mémoires historiques de Sseu-Ma Tsien de Chavannes, tome quatrième, page 170).
[3] Léonard Rousseau: La première conquête chinoise des pays annamites (IIIe siècle avant notre ère). BEFO, année 1923, Vol 23, no 1.
[4] Shin’ichi Nakamura: Le riz, le jade et la ville. Évolution des sociétés néolithiques du Yangzi. Éditions de l’EHESS « Annales. Histoire, Sciences Sociales. 2005/5 60 année pages 1009 à 1034.
Con Lân (La licorne)
Con Lân (La licorne)
Lân là con linh vật đứng hàng thứ nhì trong bốn con vật có sức mạnh siêu phàm hay tứ linh (long, lân, qui, phụng). Trong văn hóa Việt nam, chúng ta thường bị lầm lẫn giữa con kỳ lân với con nghê. Đặc điểm để phân biệt giữa nghê và lân là ở bộ móng, nghê mang móng vuốt còn kỳ lân mang móng guốc. Lân thường xuất hiện ở đình, chùa, đền, miếu hay những công trình kiến trúc nghệ thuật. Theo nhà nghiên cứu việt Đinh Hồng Hải thì Lân có nguồn gốc Trung Hoa, một linh vật tưởng tượng ngoại nhập. Thật sự khi gọi kỳ lân, tức là nói đến một cặp: con đực gọi là kỳ và lân là con cái. Khi du nhập vào văn hóa việt thì người Việt quên đi « con kỳ » mà chỉ kêu là lân thôi. Chỉ có những vị quân vương hiền minh mới xứng đáng được trông thấy nó. Ở Sân Đại Triều Nghi trước Điện Thái Hòa của Tử Cấm Thành (Huế) có hai con lân được đặt ở hai góc sân mang ý nghĩa thời thái bình mà còn biểu tượng nhắc nhở đến sự uy nghiêm giữa chốn triều đình. Lân còn là con vật tiêu biểu báo điềm lành. Nó còn có khả năng nhận ra được người hiền lành và kẻ gian trá. Người dân Việt thường biết nó qua múa lân sư được biểu diễn trong các dịp lễ hội, đặc biệt là Tết Nguyên Đán, Tết Trung Thu hay khánh thành cửa hàng mới vì loại thú nầy tượng trưng cho thịnh vượng và hạnh phúc. Còn trong đạo Phật, nó là hiện thân của bát nhã tức là trí tuệ tối cao hay gíác ngộ.
Version française
La licorne figure au deuxième rang parmi les quatre animaux sacrés aux pouvoirs surnaturels (dragon, licorne, tortue et phénix). Dans la culture vietnamienne, on est habitué à confondre souvent la licorne avec le chien-lion (con nghê). La caractéristique permettant de faire la distinction entre ce dernier et la licorne se retrouve dans les ongles. Le chien-lion possède des griffes tandis que la licorne a des sabots. Les licornes sont visibles souvent dans les maisons communales, les pagodes, les temples, les sanctuaires ou les œuvres d’art architecturales. Selon le chercheur vietnamien Đinh Hồng Hải, la licorne (ou Lân) est d’origine chinoise. Il s’agit d’une mascotte imaginaire importée de l’étranger. En fait, lorsqu’on évoque la licorne, on se réfère souvent à un couple d’animaux : le mâle est connu sous le nom « kỳ » tandis que la femelle s’appelle « lân ». Au moment de l’introduction de la licorne dans la culture vietnamienne, on n’a gardé que la femelle (Lân). Seuls les monarques sages sont dignes de pouvoir la voir. Dans l’esplanade des Grands Saluts devant le somptueux palais de la suprême harmonie (Điện Thái Hoà) de la Cité pourpre interdite (Huế), il y a deux licornes placées dans deux coins différents pour marquer non seulement la période de paix mais aussi le caractère hiératique de la cour impériale. La licorne est un animal de bon augure. Elle est capable de discerner la probité et la malhonnêteté chez un homme. Les Vietnamiens ont l’habitude de la connaître grâce à la danse de la licorne à l’occasion des fêtes importantes (Le Nouvel An, la fête de la Mi-Automne, l’inauguration de la nouvelle boutique etc.) car elle est le symbole de la prospérité et du bonheur. Quant au bouddhisme, la licorne est l’incarnation de l’esprit intuitif de la Prajna (l’intelligence suprême ou l’illumination).
Pourquoi les Thaïs ont-ils un bout d’histoire avec le peuple vietnamien ?
Một đọan đường chung lịch sử với dân Việt.
Selon les érudits occidentaux comme l’archéologue Bernard Groslier, les Thaïs étaient regroupés avec les Vietnamiens dans le groupe Thaï-Vietnamien d’autant plus qu’ils ont fondé leur pays seulement au 14ème siècle et il y a eu au Vietnam la présence des sous-groupes Thai noirs et blancs. Alors, ceux-ci sont-ils des Thaïs trouvés en Thaïlande d’aujourd’hui ?
Refoulés par les Tsin de Shi Huang Di, les Thaïs tentaient de résister maintes fois. Pour l’écrivain vietnamien Bình Nguyên Lôc, les sujets des royaumes Shu et Ba (Ba Thục) annexés très tôt par les Tsin dans le Sichuan étaient les proto-Thaïs (ou Tày). Selon cet écrivain, ils appartenaient au groupe austro-asiatique de branche Âu (ou Ngu en langage mường ou Ngê U en mandarin chinois (quan thoại)) auquel étaient rattachés les Thaïs et les Tày. Pour lui comme pour d’autres chercheurs vietnamiens Trần Ngọc Thêm, Nguyễn Đình Khoa, Hà Văn Tấn etc., le groupe austro-asiatique comporte 4 sous groupes distincts: sous-groupe Môn-Khmer, sous groupe Việt Mường (branche Lạc) , sous-groupe Tày-Thái (branche Âu) et sous-groupe Mèo-Dao auxquels il faut ajouter le sous-groupe austronésien (Chàm, Raglai, Êdê etc.) pour définir la race indonésienne (ou Proto-Malais) (Chủng cổ Mã Lai)
La contribution des Thaïs dans la fondation du royaume Âu Lạc des Viêt de Thục Phán (An Dương Vương) n’est plus mise en doute après que ce dernier a réussi à éliminer le dernier roi Hùng du royaume Văn Lang car le nom « Âu Lạc » (ou Ngeou Lo) évoque évidemment l’union de deux ethnies Yue de branche Âu (Proto-Thaï) et de branche Lạc (Proto-Viet). De plus, Thục Phán était un Yue de branche Âu, ce qui montre à tel point l’union et la mission historique commune de ces deux ethnies face à l’expansion chinoise. Selon Đào Duy Anh, Thục Phán était un prince du royaume Shu. C’est ce qui a été rapporté dans les écrits historiques chinois (Kiao -tcheou wai-yu ki ou Kouang-tcheou ki) , mais il a été réfuté catégoriquement par certains historiens vietnamiens car le royaume Shu était situé trop loin à cette époque, du royaume Văn Lang. Il fut annexé très tôt (plus d’un demi-siècle avant la fondation du royaume Âu Lạc) par les Tsin. Mais pour l’écrivain vietnamien Bình Nguyên Lôc, Thục Phán ayant eu perdu sa patrie, dut se réfugier très jeune en compagnie de ses fidèles à cette époque dans un pays ayant la même affinité ethnique (culture, langue) que lui càd le royaume Si Ngeou (Tây Âu) situé à côté du royaume Văn Lang des Vietnamiens. De plus, les Chinois n’ont eu aucun intérêt de falsifier l’histoire en rapportant que c’était un prince de Shu dirigeant le royaume de Âu Lạc. L’asile de ce dernier et de ses fidèles dans le royaume de Si Ngeou dut prendre un certain temps, ce qui explique au moins un demi-siècle dans cet exode avant la fondation de son royaume Âu Lạc. Cette hypothèse ne semble pas très convaincante car il y avait 3000 km à marcher. De plus, il était à la tête d’une armée de 30.000 soldats. C’est impossible pour lui d’assurer la logistique et de rendre son armée invisible durant l’exode en traversant des zones montagneuses de Yunnan administrées par d’autres ethnies ennemies ou fidèles aux Chinois. Il est probable qu’il dut trouver auprès des Si Ngeou (ou des Proto-Thaïs) tout (armement et effectif militaire, provisions) ce qu’il fallait avant sa conquête.
Il y a récemment une autre hypothèse qui paraît plus cohérente. Thục Phán était le leader d’une tribu alliée de la confédération Si Ngeou et le fils de Thục Chế, roi d’un royaume nommé Nam Cương localisé dans la région de Cao Bằng et non loin de Kouang Si de la Chine d’aujourd’hui. Il y a une concordance totale entre tout ce qui est rapporté dans la légende de l’arbalète magique des Vietnamiens et les rites trouvés dans la tradition des Tày (Proto-Thaïs). C’est le cas de la tortue d’or ou du coq blanc ayant chacun une signification symbolique importante. An Dương Vương (Ngan-yang wang) était un personnage historique. La découverte des vestiges de sa capitale (Cổ Loa, huyện Đông An, Hànội ) ne met plus en doute l’existence de ce royaume établi à peu près trois siècles avant J.C. Celui-ci fut annexé plus tard par Zhao To (Triệu Đà), fondateur du royaume de Nan Yue.
Le mythe Lạc Long Quân-Âu Cơ a insinué avec adresse l’union et la séparation de deux ethnies Yue, l’une de branche Lạc ( les Proto-Vietnamiens) descendant dans les plaines fertiles en suivant les cours d’eau et les rivières et l’autre de branche Âu (les Proto-Thaïs) se réfugiant dans les régions montagneuses. Il y a eu les Mường dans cet exode. Proches des Vietnamiens au niveau linguistique, les Mường ont réussi à garder les coutumes ancestrales car ils étaient refoulés et protégés dans les montagnes. Ceux-ci avaient une organisation sociale semblable à celle des Tày et des Thaïs.
Situé dans les provinces Kouang Tong (Quãng Đông ) et Kouang Si (Quãng Tây), le royaume de Si Ngeou (Tây Âu) n’est autre que le pays des proto-Thaïs (les ancêtres des Thaïs). C’est ici que se réfugia Thục Phán avant la conquête du royaume Văn Lang. Il faut rappeler aussi que l’empereur chinois Shi Houang Di dut mobiliser à cette époque plus de 500.000 soldats dans la conquête du royaume de Si Ngeou après avoir réussi à défaire l’armée du royaume de Chu (ou Sỡ) avec 600.000 hommes. On doit penser qu’outre la résistance implacable de ses guerriers, le royaume de Si Ngeou devrait être de taille importante et assez peuplé pour que Shi Houang Di (Tần Thủy Hoàng) engage une force militaire importante.
Malgré la mort prématurée d’un roi Si Ngeou de nom Yi-Hiu-Song (Dịch Hu Tống), la résistance menée par les Yue de branche Thai ou (Si Ngeou)(Tây Âu) réussît à obtenir quelques succès escomptés dans la région du Kouang Si méridional avec la mort d’un général T’ou Tsiu (Uất Đồ Thư) à la tête d’une armée chinoise de 500.000 hommes, ce qui a été noté dans les annales du Maître Houa-nan (ou Houai–nan –tseu en chinois ou Hoài Nam Tử en vietnamien ) écrites par Liu An (Lưu An), petit-fils de l’empereur Kao-Tsou (ou Liu Bang), fondateur de la dynastie des Han entre les années 164 et 173 avant notre ère.
Si Ngeou était connu pour la valeur de ses guerriers redoutables. Cela correspond exactement au tempérament des Thaïs d’autrefois décrit par l’écrivain et photographe français Alfred Raquez: Les Siamois d’autrefois, belliqueux et coureurs d’aventures, furent presque continuellement en guerre avec leurs voisins et souvent virent leurs expéditions couronnées de succès. À la suite de chaque campagne heureuse, ils emmenèrent avec eux des prisonniers et les établirent sur une partie du territoire de Siam, aussi éloignée que possible de leur pays d’origine.
Après la disparition de Si Ngeou et celle de Âu Lạc, les proto-Thaïs qui restèrent au Vietnam à cette époque sous le giron de Zhao To (un ancien général chinois des Tsin devenu plus tard le premier empereur du royaume de Nanyue) avaient leurs descendants formant bien aujourd’hui la minorité ethnique Thai du Vietnam. Les autres proto-Thaïs s’enfuirent vers le Yunnan où ils s’unirent au VIII ème siècle au royaume de Nanzhao (Nam Chiếu) puis à celui de Dali (Đại Lý) où le bouddhisme du grand véhicule (Phật Giáo Đại Thừa) commença à s’implanter. Malheureusement, leur tentative fut vaine. Les pays Shu, Ba, Si Ngeou, Âu Lạc, Nan Zhao, Dali faisient partie de la longue liste des pays annexés l’un après l’autre par les Chinois durant leur exode. Dans ces pays soumis, la présence des Proto-Thaïs était assez importante. Face à cette pression chinoise sans relâche et à la barrière inexorable de l’Himalaya, les proto-Thaïs furent obligés de redescendre dans la péninsule indochinoise en s’infiltrant lentement en éventail dans le Laos, le Nord-Ouest du Vietnam (Tây Bắc), le nord de la Thaïlande et la haute Birmanie.
Selon les inscriptions historiques thaï trouvées au Vietnam, il y a trois vagues importantes de migration entamées par les Thaïs de Yunnan dans le Nord-Ouest du Vietnam durant les 9ème et 11ème siècles . Cela correspond exactement à la période où le royaume de Nanzhao fut annexé par le royaume de Dali anéanti à son tour 3 siècles plus tard par les Mongols de Kubilai Khan en Chine. Lors cette infiltration, les proto-Thaïs se divisèrent en plusieurs groupes: les Thaïs du Vietnam, les Thaïs en Birmanie (ou Shans), les Thaïs au Laos (ou Ai Lao) et les Thaïs dans le nord de la Thaïlande. Chacun de ces groupes commence à épouser la religion de ces pays hôtes. Les Thaïs du Vietnam n’avaient pas la même religion que ceux des autres territoires. Ils continuaient à garder l’animisme (vạn vật hữu linh) ou le totémisme. C’est pour cette raison qu’ils constituaient ainsi les minorités ethniques du Viet Nam d’aujourd’hui.