Version française
Histoire
Son histoire peut se résumer en quelques mots: combats pour l’indépendance, la conquête de nouvelles terres et l’unification du pays.
Toronto (Capitale de l’Ontario)
Toronto n’est pas non seulement l’une des grandes villes du Canada mais elle est aussi la capitale de la province Ontario. Au moment de notre passage au quartier chinois , la brume matinale envahit de loin la tour célèbre CN connue comme la plus haute tour du monde de 1975 à 2007. Elle est devancée aujourd’hui par la tour Burj Khalifa de Dubai et la tour de télévision et de tourisme de Canton. Malgré cela, elle reste l’un des attraits touristiques canadiens avec 2 millions de visiteurs par an et l’un des symboles importants du Canada. Comme dans d’autres lieux, la ville Toronto possède aussi un quartier chinois qui est moins animé qu’à Paris, les gens étant plus calmes. La vie locale paraît plus agréable et moins stressée qu’à Paris. À cause de la brume matinale, il nous est interdit de monter jusqu’au sommet de la tour CN pour pouvoir faire une photo panoramique sur la ville. C’est dommage pour moi mais il vaut mieux se contenter de ce qu’on a et faire quelques photos car je sais que je ne reviens pas car j’ai d’autres endroits à visiter. Ce qui compte pour moi c’est d’être ensemble avec deux amis d’enfance à l’époque où nous étions âgés de 7 ou 8 ans à l’école et partager tout ce qu’on a de la bouffe jusqu’aux histoires drôles durant le séjour au Canada lorsque nous venons de loin, de trois pays différents (France, USA et Canada). C’est une chance unique d’avoir ce moment de bonheur et de joie dans la vie.
Toronto không những là một trong các thành phố đông dân nhất của Gia Nã Đại mà còn là thủ đô của tỉnh Ontario. Hôm đến tham quan sáng sớm thành phố bị sương mù dày đặc buông xuống che khuất từ đằng xa tháp CN khi lúc tụi nầy ở khu tàu, một ngọn tháp nổi tiếng là cao nhất ở thế giới từ năm 1975 đến năm 2007 nay bị vượt qua bỡi tháp Burj Khalifa (Dubai) và tháp truyền hình và du lịch của Quảng Châu. Tuy nhiên nó vẫn thu hút khoảng 2 triệu khác một năm và là một biểu tượng quan trọng của Canada. Cũng như mọi nơi, Toronto cũng có một khu tàu nhưng nó không có đông đúc như ở Paris, người dân cũng trầm lặng không có ồn ào. Cuộc sống cũng thấy có phần thỏa mái nhiều hơn Paris, cũng có tramway. Vì sương mù phủ xuống tháp CN tụi nầy không được lên ngọn tháp CN chụp toàn cảnh của Toronto. Rất tiếc nhưng thôi có chi thì cứ chụp nhất là mình biết sẻ không trở lại nhưng rất vui là lúc nào ba anh em quen biết từ thưở nhỏ chia sẻ cùng nhau từ các chuyện vui đến các thức ăn nhất là đến từ ba quốc gia khác nhau (Pháp, Mỹ và Gia Nã Đại), đây là cái duyên hy hữu trong cuộc sống.
Tự Đức (Empereur Tự Đức)
Hồng Nhậm
(1847-1883)
Tôn kính một hoàng đế thi sĩ qua 4 câu thơ lục bát:
Ngậm ngùi thương xót phận mình
Làm vua chẳng có quang vinh chút gì
Thực dân chiếm đất ở lì
Trẩm đây buồn tủi, sử thì kết oan
Version française
Version anglaise
Là ông vua thứ tư của triều Nguyễn, ông có tên là Hồng Nhậm khi ông còn là một hoàng tử. Ông là con thứ hai của vua Thiệu Trị và được vua Thiệu Trị đổi ý chọn làm người nối ngôi vua trong di chúc thay vì thái tử Hồng Bảo bị vua xem như người chỉ biết ham vui chơi bời. Hồng Bảo phẫn uất thổ huyết nằm giữa cung điện khi lúc làm lễ đăng quang cho Hồng Nhậm (Tự Đức). Sau đó Hồng Bảo bị mang tội thông đồng với các cha cố đạo Tây Phương âm mưu đảo chánh Tự Đức và bị giết trong tù khiến vua Tự Đức cũng bị chỉ trích ít nhiều về sau qua các bài thơ của các quan triều đình. Vua thiếu lòng cao thượng mà Tào Phi con trưởng của Tào Tháo dành cho em Tào Thực, một nhà thi sĩ lỗi lạc ở thời Tam Quốc trong lúc tranh giành quyền lực. Đây là trường hợp của danh sĩ Nguyễn Hàm Ninh. Một ngày, khi lúc dùng cơm vua bi lưỡi cọ với răng nên đau, liền có ý tưởng chọn cho chủ đề thơ là «chấn thương bởi răng » và ra lệnh cho quân thần làm thơ với chủ đề tài nầy. Lợi dụng thời cơ nầy, Nguyễn Hàm Ninh mới ngỏ lời cùng vua qua bốn câu thơ như sau:
Ta ra đời trước chú chưa sinh
Chú phận làm em, ta phận anh
Ngọt bùi sao chẳng cùng san sẽ
Mà nỡ đau thương cốt nhục tình?
Nguyễn Hàm Ninh được vua khen thưởng nhờ có tài năng phi thường với một số lượng vàng không ít nhưng đồng thời ông cũng nhận được cho mỗi câu thơ sáng tác của ông một roi vì mỗi câu đều có ý nghĩa và sâu sắc. Tự Đức là một đai thi sĩ của thời ông. Đó là lý do tại sao ông có một sỡ thích không thể chối cải được là ông rất trọng các nhà thơ vĩ đại trong thời đại của ông. Họ được đánh giá rất cao với giá trị thực sự của họ ngay cả quyền lực luôn cả lòng tự trọng của Tự Đức đôi khi có thể bị coi thường bởi những lời chỉ trích mạnh mẽ và gay gắt từ những người có tính cách độc lập như Cao Bá Quát. Ông nầy không ngừng chế nhạo vua nhiều lần trước mặt bá quan nhưng vua không ngần ngại khen ngơi khi Cao Bá Quát đã thành công trong việc thể hiện lại được cách nói đối ngẫu của vua bằng cách dựa trên lời nói đưa ra của vua qua một trò chơi chữ khéo léo. Lợi dụng sự hiện diện của Cao Bá Quát, vua Tự Đức mới ra câu đối như sau:
Nhất bào song sinh, nan vi huynh, nan vi đệ
Một bọc sinh đôi, khó làm anh, khó làm em.
Vì vua muốn nhắc lại là Cao Bá Quát có một người anh sinh đôi là Cao Bá Đạt, hai anh em giống nhau, khó mà phân biệt được ai là anh ai là em. Cao Bá Quát trả lại ngay câu đối như sau:
Thiên tài thất ngộ, hữu thi quân, hữu thi thần
Nghìn năm gặp một, có vua ấy có tôi ấy
để nhắc lại với Tự Đức có một vua đa tài thì cũng có một tôi tớ rất giỏi giang. Tự Đức không vui chi cho mấy vì ông biết Cao Bá Quát muốn trêu ông qua câu ca dao ‘Vỏ quýt dày, móng tay nhọn’ đấy. Một lần khi đi qua cửa của điện Cần Chánh, Cao Bá Quát không hài lòng khi thấy treo hai câu đối ngẫu của vua Tự Đức:
Tử năng thừa phụ nghiệp
Thần khả báo quân ân.
Vua Tự Đức thấy vậy mới hỏi vì lý do gì mà Cao Bá Quát không vui. Chữ ‘Tử’ không thể đứng trước chữ ‘phụ’. Luôn cả chữ ‘Thần’ không thể đứng trước được chữ ‘quân’ vì thể thức viết nó không phù hợp với tôn ti thứ tự. Tự Đức bảo Cao Bá Quát sửa lại sự sai lầm nầy. Cao Bá Quát mới đáp lại với hai câu đối như sau:
Quân Ân, thần khả báo
Phu nghiệp, tử năng thừa.
Dù có một tâm hồn lãng mạn và có khí chất ốm yếu, Tự Đức là một hoàng đế ít biết đến sự thư thản và bình tâm suốt thời kỳ ông ngự trị. Ông không những phải đối đầu với sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản của phương tây mà còn dẹp các cuộc biến loạn trong nước như việc loại trừ Hồng Bảo và vây cánh, giặc Châu Chấu do Cao Bá Quát cầm đầu vân vân….Chuyện mất 6 tỉnh ở Nam Bộ lúc nào cũng ám ảnh ông và làm ông buồn rầu triền miên vì ông là vị hoàng đế đầu tiên của triều đại Nguyễn có phần trọng trách để mất đi một phần đất của Vietnam cho ngoại bang nhất là mãnh đất của quê mẹ của ông. Chuyện ông không có con vì ông bị bệnh đầu mùa từ thưở nhỏ và nhất là sự tự sát của sĩ phu Phan Thanh Giản, tổng trấn của các tỉnh miền tây Nam Bộ khiến làm ông lúc nào cũng có tâm tư buồn bã và khiến ông thường tìm nơi ẩn dật qua các nhà thủy tạ màu đỏ Du Khiêm và Xung Khiêm mà nay trở thành những nơi du khách ngoại quốc và Việtnam rất thích khi có dịp đến tham quan các lăng mộ ở Huế. Chính ở nơi nầy vua Tự Đức có làm ra rất nhiều bài thơ nhưng nổi tiếng vẫn là bài thơ “Khóc Bằng Phi” với hai câu thơ để đời khi nhắc đến:
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi
Ông là một đứa con hiếu thảo thường có mẹ bao bọc đó là bà thái hậu Từ Dũ. Ông thường xem xét và chú ý đến những gì mẹ của ông đề nghị. Một hôm, qua vở kich Trung Hoa “Đường Chinh Tây”, bà Từ Dũ bị sốc khi thấy nữ anh hung Phàn Lê Huê giết cha. Để làm vui lòng mẹ, ông buộc lòng truyền lệnh cho quan trọng trách lo các trò giải trí sửa đổi trọn vẹn nội dung lại để tránh màn thảm kịch nầy đi ngược lại với tinh thần Khổng giáo. Chuyện khai phục chức Hàn Lâm Viện điển tịch cho sĩ phu Phạm Phú Thứ cũng có liên quan đến sự qưở trách mà Từ Đức nhận được từ bà thái hậu Từ Dũ. Chính Phạm Phú Thứ dân sớ lên cho Tự Đức chỉ trích và hặc cái tính lười biếng của vua Tự Đức nhất là vua thường bãi bỏ các buổi thiết triều quan trọng và không giải quyết các đơn thỉnh cầu từ khi ông lên làm vua. Mặc dầu bị mang tội phạm thượng khi quân, Phạm Phú Thứ không bị sa thải mà trở thành một đại thần nổi tiếng dưới thời Tự Đức. Vì bị ảnh hưởng quá lớn của nhóm quan lại nho giáo, Tự Đức không thể cải cách kịp thời và bất chấp những lời cảnh báo và ghi nhớ thảm hại của học giả yêu nước Nguyễn Trường Tộ. Ông không tận dụng những cơ hội thuận lợi để đưa Viêtnam trên con đường hiện đại mà còn chìm lún sâu hơn một chút trong sự cô lập, buồn bã và cô đơn từ khi chính quyền thực dân Pháp thôn tính 6 tỉnh Nam Bộ. Để giải khuây nổi buồn triền miên của Tự Đức, bà Từ Dũ hứa thưởng ai có công làm vua Tự Đức cười. Ông thường có thói quen đi xem kịch. Một hôm, lợi dụng sự hiện diện của Tự Đức, một kép hát tên Vung sấn đến trước mặt vua Tự Đức lúc ông đang hút thuốc lá và nói rằng:
Ông có thể cho tớ mồi một hơi không?
Cử chỉ của Vung làm kinh ngạc mọi người vì ai cũng biết đây là một việc phạm thượng nhưng lúc đó vua Tự Đức phì cười và nói rằng: Mi quá gan thế. Nhờ thế Vung khỏi bị tội khi quân và được bà Từ Dũ trọng thưởng. Thật đáng tiếc khi gán cho vua Tự Đức một ông vua chuyên chế có trách nhiệm để chính quyền thực dân cướp đất. Số phận của đất nước cũng như của dân tộc Vietnam đã bị quyết định từ lâu từ khi ông nội của ông, hoàng đế Minh Mạng và cha ông hoàng đế Thiệu Trị đã chọn lựa chính sách đàn áp người công giáo và người truyền giáo nước ngoài. Nhờ vậy chính quyền Pháp mới biện minh được sự can thiệp và thôn tính của họ. Chính sách thực dân Pháp đã tiến hành từ lâu.
Qua những giai thoại nầy, chúng ta biết rằng Tự Đức là một hoàng đế khoan dung và hiếu nghĩa, một người có trái tim và một nhà thơ vĩ đại của thời ông. Số phận của đất nước buộc Tự Đức, bất chấp chính mình, trở thành một hoàng đế và giết chết anh trai của mình vì cộng tác với ngọai bang. Chúng ta có thể làm tốt hơn Tự Đức không? Đây là câu hỏi mà chúng ta tự nêu ra nếu chúng ta đặt mình vào vị trí của vua Tự Đức. Qua bao nhiêu năm chúng ta cũng không tìm thấy được câu trả lời nhưng chúng ta biết có một điều là vua Tự Đức không thể thờ ơ với những biến cố đang ập lên một cách tàn nhẫn trên đầu ông và dân tộc của ông. Ông cũng không đứng dậy nổi được trước nỗi đau buồn thống khổ nầy khi nhìn thấy sự sụp đổ của đất nước mà ông là người bị buộc tội vì có nhiều trọng trách trong lịch sử Vietnam.
Pictures gallery
Les serres royales de Laeken ( Nhà kính hoàng gia Bỉ)
Les serres royales de Laeken
Version vietnamienne
Cứ mỗi năm nhà kính hoàng gia Bỉ tọa lạc ở cung điện Laeken chính thức mở cửa chỉ trong vòng ba tuần đón tiếp công chúng ở khắp nơi trên thế giới, năm nay từ ngày 19/4 đến 10/5. Nhà kính nầy có hơn 100 năm tuổi và được thiết kế bởi kiến trúc sư Alphonse Balat dưới triều đại của vua Léopold II (1865-1909). Công trình nầy là một quần thể kiến trúc hoàn toàn bằng kính và kim khí nằm trong một quan cảnh đồi núi và mất gần 12 năm mới được hoàn thiện với diện tích có đến 2,5 ha. Có luôn cả một tháp Nhật Bản. Nơi nầy, có các loại thực vật rất nổi tiếng nhất là các loại hoa thơm như phong lữ, đỗ quyên, cẩm tú cầu hay hoa trà. Dù thời gian đón khách du lịch rất ngắn (có 3 tuần), nhà kính hoàng gia vẫn là nơi được du khách biết đến rất nhiều, có ít nhất 800.000 người đến tham quan mỗi năm. Tiền thu thập được dùng để sùng tu nhà kính hay dành cho các việc từ thiện của nữ hoàng hay là mua các tác phẩm nghệ thuật cho bộ sưu tập hoàng gia.
Version française
Chaque année, les serres royales de Laeken sont ouvertes au public et aux touristes étrangers durant trois semaines. Cette année l’ouverture commence le 19 Avril et se termine le 10 Mai. Ayant plus de 100 ans d’âge, ces serres royales ont été conçues par l’architecte Alphonse Balat sous le règne du roi Léopold II (1865-1909). Elles sont en fait un complexe architectural réalisé entièrement en métal et en verre et implanté dans un paysage vallonné. On compte presque 12 ans dans la réalisation de ce complexe superbe avec une superficie ayant au moins 2,5 ha. Une tour japonaise est visible de loin. C’est ici qu’on trouve des plantes très connues, en particulier des fleurs parfumées comme les géraniums, les rhododendrons, les hortensias ou les camélias. Bien que l’ouverture au public soit de courte durée (3 semaines), les serres royales de Laeken sont très connues par les touristes étrangers. Il y au moins chaque année 800.000 visiteurs. L’argent récolté est destiné entièrement aux œuvres caritatives de la reine, aux opérations de restauration ou à l’acquisition des œuvres d’art pour enrichir la Collection Royale.
Bruxelles au cœur de l’Europe
Pulluciampelle (Cù Lao Chàm)
Poulo Cham
Version vietnamienne
English version
Galerie des photos
Située à 18km de l’estuaire du fleuve Thu Bỗn de la vieille ville Hội An, l’île Poulo Cham ou Pulluciampelle (Cù Lao Chàm) par UNESCO comme une réserve de biosphère du monde en 2009. Elle est en fait constituée de huit îlots : Hòn Lao, Hòn Dài, Hòn Mồ, Hòn Khô Mẹ, Hòn Khô con, Hòn Lá, Hòn Tai, Hòn Ông avec une superficie totale de 15 km2. Sa population répartie sur ces îlots est estimée à peu près de 3000 habitants. Autrefois, Poulo Cham était le point de relais destiné aux navigateurs pour pouvoir être approvisionnés en nourriture et en eau dans leur long voyage sur la mer de l’Est et appartenait au royaume du Champa. C’est pourquoi on trouve ici beaucoup d’anciens puits et elle est connue sous le nom de l’île du Champa. De passage dans cette île, le touriste a l’occasion de découvrir un environnement riche et varié non seulement en quantité mais aussi en genre de poissons trouvés dans la zone côtière tropicale de la mer de l’Est à travers un bâtiment d’exposition.
On y trouve aussi une coutume que le chercheur Charles J.C. MacDonald (CNRS Marseille) a considérée comme une caractéristique typique trouvée chez les Vietnamiens vivant le long de la côte du Centre et du Sud Vietnam car les gens du Nord ne l’ont pas eue. C’est le culte de la baleine. Selon certains érudits vietnamiens tels que Thái Văn Kiểm, Trần văn Phước ou Trần Hàm Tấn, ce culte appartenait aux Chams. Lors de l’occupation de leur territoire par les Vietnamiens, ceux-ci n’hésitaient pas à l’adopter comme la déesse Po Nagar à Nha Trang. Mais cette hypothèse n’est pas très convaincante dans la mesure où aucun document n’apporte jusqu’aujourd’hui la certitude sur cette appartenance chame. Selon le père Léopold Cadière, cette coutume n’est pas une exception car les Vietnamiens étaient animistes et polythéistes. C’est dans cette île qu’on découvre un temple dédié au culte de la baleine. Ce mammifère marin est vénéré comme un génie. Selon l’érudit Thái văn Kiểm, sous le règne de l’empereur Gia Long, la baleine reçut un brevet de génie et le titre d’amiral des mers du Sud car l’empereur Gia Long dut sa vie à ce mammifère marin lors d’une noyade. Rien ne contredit pas ce que le chercheur anglais Ruddle Kenneth a remarqué dans son livre: le culte de la baleine renforce la cohésion de la communauté des pêcheurs vietnamiens vivant le long de la côte du centre et du Sud Vietnam. En passant une journée dans cette île, je m’aperçois que les ressources naturelles sont énormes sans parler de la réserve du pétrole. Le Vietnam est désigné souvent par l’expression suivante: Rừng vàng biển bạc pour dire que le Vietnam est gâté par la nature ( » La forêt « dorée » et « la mer « argentée« ). Comment les pêcheurs vietnamiens sont-ils si pauvres et si malheureux ? C’est une question que chacun de nous en tant que Vietnamien se demande la cause de cette tragédie et reconnait qui est le coupable afin d’éviter d’être blâmé par notre conscience et par nos ancêtres.
Cù lao Chàm nằm cách bờ biển Cửa Đại của Hội An 18 cây số. Cù Lao Chàm được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới vào năm 2009. Nó gồm 8 đảo: Hòn Lao, Hòn Dài, Hòn Mồ, Hòn Khô Mẹ, Hòn Khô con, Hòn Lá, Hòn Tai, Hòn Ông với tổng diện tích là 15km2. Dân số trên các hòn đảo này gồm khoảng 3.000 người. Thưở xưa, Cù Lao Chàm là nơi dừng chân của các thuyền nhân để tiếp vận lương thực và nước ngọt trong cuộc hành trình trên biển Đông và thuộc về vương quốc Chămpa. Vì vậy mới thấy nơi nầy còn rất nhiều giếng cổ và có tên là cù lao Chàm. Đến đây, du khách sẻ nhận thấy một môi trường phong phú và đa dạng của vùng biển nhiệt đới về số lượng cũng như số loại cá trên biển Đông qua một nhà trưng bày hải sản.
Cũng ở nơi nầy, du khách sẻ khám phá một tập quán mà theo nhà nghiên cứu Charles J.C. MacDonald (CNRS Marseille) là một đặc tính của người Việt ở vùng biến chớ ở miền Bắc thì không có đó là tục lệ thờ cá ông (hay cá voi) nhưng cho đến giờ các nhà học giả Việt như Thái Văn Kiểm, Trần văn Phước hay Trần Hàm Tấn thì nghĩ rằng đây là một tập quán cũa người Chàm mà người Việt tiếp nhận cũng như ở Nha Trang với thánh mẫu Po Nagar nhưng cho đến giờ không có sách vỡ nào chứng minh là thuộc về dân tộc Chàm. Theo cố cả Léopold Cadière thì đúng hơn là người dân Việt theo thuyết duy linh và đa thần nên chuyện thờ cá ông cũng không ngoại lệ. Ở cù lao chàm có một đền thờ cá ông hẳn hòi. Người dân Việt kính nể cá ông như cha mẹ và thần thánh. Theo lời nhà học giả Thái văn Kiểm, dưới thời vua Gia Long, cá ông được chứng chỉ sắc phong làm thống chế của các biển phía nam vì cá ông đã giúp vua Gia Long thoát chết đuối. Cũng có phần đúng với sự nhận xét của học giả Anh Quốc Ruddle Kenneth như sau: chuyện thờ cúng cá ông cũng là một thể thức nhẳm cố liên kết chặt chẻ các ngư dân Việt sống ở vủng biển. Đến đây mới thấy tài nguyên cũa đất nước rất lớn ở biển Đông với bao nhiêu loại tìm thấy trong hải sản chưa nói đến dầu lửa. Rừng vàng biển bạc dùng để ám chỉ đất nước Việt Nam của chúng ta. Thế mà ngư dân Việt vẫn khốn đốn nghèo khổ.? Câu hỏi nầy mỗi nguời Việt chúng ta tự hỏi lòng mình từ đâu, tự nhân diện nó là ai để khỏi hổ thẹn với lương tâm và ông cha của chúng ta.
Tàl liệu tham khảo
Charles J. H. MacDonald: Le culte de la baleine, une exception vietnamienne
Trần văn Phước: Chronique: Funérailles d’une baleine . Bulletin de la Société des Etudes indochinoises, tome XLIX, no2, 1974, p 273-282
Thái Văn Kiểm: Le culte de la baleine . Bulletin de la Société des Etudes indochinoises, tome XLIX, no2, p 311-326
Ruddle Kenneth : Traditional community based coastal marine fisheries management in Vietnam . Ocean and Coastal management, Elsevier Science Ltd, 40, p 1-22
Cadière Léopold: Croyances et pratiques religieuses. Tomes I et II. Saigon, Imprimerie nouvelle d’Extrême Orient 1955-1958
Located 18 km from the estuary of the Thu Bồn River in the old town of Hội An, Poulo Cham Island or Pulluciampelle (Cù Lao Chàm) was recognized by UNESCO as a world biosphere reserve in 2009. It actually consists of eight islets: Hòn Lao, Hòn Dài, Hòn Mồ, Hòn Khô Mẹ, Hòn Khô Con, Hòn Lá, Hòn Tai, and Hòn Ông, with a total area of 15 km². Its population spread across these islets is estimated to be about 3,000 inhabitants. In the past, Poulo Cham was a relay point for navigators to be supplied with food and water during their long journey on the East Sea and belonged to the Champa kingdom. This is why many ancient wells are found here, and it is known as the Island of Champa. Visitors passing through this island have the opportunity to discover a rich and varied environment, not only in the quantity but also in the variety of fish found in the tropical coastal zone of the East Sea through an exhibition building.
There is also a custom that the researcher Charles J.C. MacDonald (CNRS Marseille) considered a typical characteristic found among the Vietnamese living along the coast of Central and Southern Vietnam, as the people of the North did not have it. It is the whale cult. According to certain Vietnamese scholars such as Thái Văn Kiểm, Trần Văn Phước, or Trần Hàm Tấn, this cult belonged to the Chams. During the occupation of their territory by the Vietnamese, they did not hesitate to adopt it, like the goddess Po Nagar in Nha Trang. But this hypothesis is not very convincing since no document to date provides certainty about this Cham affiliation. According to Father Léopold Cadière, this custom is not an exception because the Vietnamese were animists and polytheists. It is on this island that one discovers a temple dedicated to the whale cult. This marine mammal is revered as a spirit. According to the scholar Thái Văn Kiểm, under the reign of Emperor Gia Long, the whale received a spirit patent and the title of admiral of the Southern seas because Emperor Gia Long owed his life to this marine mammal during a drowning incident. Nothing contradicts what the English researcher Ruddle Kenneth noted in his book: the whale cult strengthens the cohesion of the community of Vietnamese fishermen living along the coast of Central and Southern Vietnam.
Spending a day on this island, I realize that the natural resources are enormous, not to mention the oil reserves. Vietnam is often referred to by the following expression: Rừng vàng biển bạc, meaning that Vietnam is blessed by nature (« the golden forest » and « the silver sea »). How are Vietnamese fishermen so poor and so unhappy? This is a question that each of us, as Vietnamese, asks ourselves to understand the cause of this tragedy and to recognize who is to blame in order to avoid being condemned by our conscience and by our ancestors.
Paris je t’aime
Paris est l’une des plus belles villes du monde, en particulier la nuit. Comme l’écrivain américain Ernest Hemingway disait qu’il n’y a que Paris pouvant lui apporter à tout instant, l’inspiration dans la création de ses œuvres littéraires. Pour lui, Paris était considéré toujours comme une fête (The Moveable feast) lors de son séjour à la fin des années 1950. Il y a non seulement la Seine coulant paisiblement sous les ponts ayant chacun une architecture particulière mais aussi des lieux très célèbres comme le jardin de Luxembourg, la cathédrale Notre Dame, la tour Eiffel, le musée du Louvre etc. C’est pour cela que Paris lui a exercé un attrait irrésistible même il était de passage à Paris pour une fois. C’est aussi Paris qui a fait de lui un écrivain célèbre.
Paris là một trong những thành phố đẹp nhất thế giới nhất là về đêm. Cũng như nhà văn hào Mỹ Ernest Hemingway nói chỉ có Paris có thể đem lại cảm hứng sáng tác cho ông bất kỳ lúc nào. Chính vì thế ông xem Paris lúc nào cũng như ngày lễ hội. Không những có sông Seine trôi lặng lẽ dưới các cây cầu có một kiến trúc độc đáo mà còn các nơi nổi tiếng như vườn hoa Luxembourg, nhà thờ Notre Dame, tháp Eiffel, bảo tàng viện Louvre vân vân khiến Paris trở thành nơi có sức lôi cuốn mãnh liệt đối với ông dù ông chỉ có một lần đến Paris. Chính Paris làm ông trở thành một nhà văn hào nổi tiếng.
Paris is one of the most beautiful cities in the world, especially at night. As the American writer Ernest Hemingway said, only Paris could bring him inspiration at any moment in the creation of his literary works. For him, Paris was always considered a feast (The Moveable Feast) during his stay in the late 1950s. There is not only the Seine flowing peacefully under the bridges, each with its own unique architecture, but also very famous places like the Luxembourg Garden, Notre Dame Cathedral, the Eiffel Tower, the Louvre Museum, etc. That is why Paris exerted an irresistible attraction on him, even if he was only passing through Paris once. It is also Paris that made him a famous writer.
Cây khèn bè (Khène)
Version française
English version
Chúng ta thường đặt câu hỏi về nguồn gốc của nhạc cụ mà được gọi là khèn bè. Có nhiều nhà khoa học cho rằng nhạc cụ nầy đến từ nước Lào. Nhưng cũng không ít người ngần ngại và hoài nghi. Đó là trường hợp của nhà nghiên cứu Pháp Noël Péri của Viện Viễn Đông Bác cổ (EFEO).
Đối với ông nầy, nếu người dân Việt không dùng nhạc cụ nầy như người Lào nhưng nhạc cụ mà được trông thấy thường ở người Muờng, một dân tộc rất gần gũi với người Việt về văn hóa và tập quán và người Hmong, cũng giống như khèn bè của người Lào. Hơn nửa nhạc khí nầy được thể hiện không những ở trên các trống và thạp đồng mà còn ở các vật dụng của văn hóa Đồng Sơn. Đó là trường hợp cái cán của một cái môi bằng đồng được trang trí với một nhân vật nam giới ngồi đang thổi khèn bè và được trưng bày hiện nay ở bảo tàng viện lịch sữ ở Saïgon (thành phố Hồ Chí Minh).
Chúng ta dẫn đến đến kết luận và khẳng định một cách quả quyết là nhạc khí nầy có từ thời đồ đồng (giữa 3000 và 1200 trước công nguyên ở Đông Nam Á) và được sáng chế bỡi người thuộc chủng Nam Á (Austro-asiatique) trong đó có các dân tộc Lào, Hmong, Mường, Việtnam và Mnong vân vân… mà chúng ta thường gọi là đại tộc Bách Việt. Cũng không nên quên có một thời điểm nào trong quá khứ dân tộc Lào (chi nhánh Tây Âu) và dân tộc Việt (chi nhánh Lạc Việt) cùng nhau hiệp sức trong việc thành lập nước Âu Lạc của Thục Phán và chống cự lại quân Tần của Tần Thủy Hoàng. Theo bà khảo cứu Pháp Madeleine Colani thì các khèn bè nầy không bao giờ vượt qua dãy núi Hy Mã Lập Sơn và thung lũng Bramahpoutre của Ấn Độ. Tuy nhiên cũng có ngoại lệ.

Đó là truờng hợp các khèn bè của dân tộc Dayak ở đảo Bornéo (Nam Dương) vì trước khi họ định cư trên đão nầy, họ đã sống trước đó dọc theo bờ biển phía đông của Đông Dương. Dựa trên khèn bè của người thuộc chủng Nam Á, người Trung Hoa cũng sáng chế một nhạc cụ thường gọi là lusheng mà được nhắc đến trong kinh nhạc của Đức Khổng Tử.
Theo nhà nghiên cứu Victor Goloubew, người Đồng Sơn tức là tổ tiên của người Việt hiện nay cũng biết thổi khèn bầu.
Khèn bè được xuất hiện dưới nhiều hình dạng mà theo bà Madeleine Colani thi khèn bè của dân tộc Lào xem là óng chuốt và tao nhã nhất. Nói chung thì cây khèn bè thông thường có một cấu tạo ống theo số chẵn, làm bằng tre và ở mỗi cái ống có một lỗ nhỏ thường gọi là lỗ thổi và bên trong ống có một lưỡi gà bằng đồng hay bạc giát mỏng. Các ống nầy được lắp ráp theo cặp với chiều dài giống nhau, theo thứ tự và giảm dần từ miệng của cái bầu khèn được cung cấp không khí bởi hơi thổi của người chơi khèn. Chiều dài của các ống xác định độ cao của nốt. Cây khèn càng dài thì âm điệu càng thấp. Số ống dùng để thổi không có cố định và còn có liên hệ đến truyến thống văn hóa của mỗi dân tộc. Như người Hmong ở các dãy núi phiá bắc Việtnam hay là người Mnong ở Tây Nguyên, thì trên cây khèn chỉ có thấy 6 ống mà thôi. Còn với người Thái ở vùng Mai Châu, số ống lên đến 14.
Khèn có 6 ống (hay Mbuot) của dân tộc Mnong ở Tây Nguyên
Còn khèn của nguời Lào thì số ống có thể biến đổi: hoặc 6 ống với chiều dài có thể lên đến 40 cm thì gọi là khène hot hoặc là 14 ống với khène jet
hoặc là 16 ống với khène baat. Khèn nầy được trọng dụng nhiều nhất ở Lào. Để phát âm tiếng, nguời chơi khèn phải giữ giữa hai bàn tay nhạc cụ mà ở nơi đó có miệng khèn dùng để thổi và đưa không khí vào khèn, xem như là nơi để tụ không khí. Cùng lúc đó người thổi khèn phải bịt ở đầu các ống với các ngón tay khiến làm rung chuyển các lưỡi gà phù hợp qua sự hít vào hay thở ra của mình.
Khèn thường có liên hệ mật thiết với các nghi lễ tôn giáo và các sự kiện quan trọng ( hội chợ, đám cưới, tang lễ vân vân …). Có thể thổi khèn một mình hay là với một nhóm người nhằm để kèm theo các điệu nhảy hay ca hát. Mỗi dân tộc có sự tích cá biệt về khèn. Tiếng khèn cũng làm cho thế giới con người đến gần với thế giới tâm linh. Đối với dân tộc Lào cũng như các dân tộc thiểu số ở Vietnam (Hmong, Thái vân vân…), cây khèn bè biểu tượng bản sắc văn hóa. Đối với dân tộc Hmong, có một cây khèn trong nhà là niềm hãnh diện được có một người đàn ông tài hoa và khí phách trong gia đình.
Trong ngạn ngữ của người Lào, muốn được xem là người Lào đích thực, thì phải biết thổi khèn, ăn cơm nếp với cá ươn (padèk) và ở nhà sàn.
Dù có một vai trò rất quan trọng như các cồng chiền Tây Nguyên (Việtnam), cây khèn bè tiếp tục bị bỏ rơi
theo ngày tháng bởi giới trẻ vì muốn thông thạo trong việc thổi khèn bè thì không những cần có sự kiên nhẫn mà cần có khiếu về âm nhạc. Bởi vậy khèn bè không phải ai cũng thổi được mà cần phải biết diễn xuất một số giai điệu căn bản và biết nhảy hòa nhịp theo tiếng khèn. Một số giai điệu có thể gợi lên các khía cạnh của thiên nhiên và cuộc sống. Có hơn 360 giai điệu dành cho tang lễ. Chính vì thế cây khèn bè có một vị trí quan trọng trong đời sống dân gian và tinh thần của các dân tộc thiểu số.
Tài liệu tham khảo
Essai d’ethnographique comparée. Madeleine Colani, BEFEO, 1936,Vol 36, N°1, pp. 214-216
Hà Văn Tấn: Nouvelles recherches préhistoriques et protohistoriques au Vietnam.
Rapport sur une mission officielle d’étude musicale en Indochine. Péri Noël, G. Knosp. BEFO. 1912. Tome 12, pp 18-2
Pour continuer d’entendre le son du khèn des Hmongs. Hoàng Hoa. Courrier du Vietnam, 24.03.2012
Công giáo Viêtnam ( Le catholicisme vietnamien)
Contrairement à d’autres religions, le catholicisme achoppa énormément sur plusieurs difficultés au début de son implantation au Vietnam (début du XVIème siècle). Cela a été dû en grande partie au refus des missionnaires d’admettre et d’intégrer le culte des ancêtres et les coutumes (polygamie, croyance aux esprits etc…) dans le catholicisme et à l’époque où le Vietnam fut troublé par les guerres internes incessantes. C’est la période où le Vietnam connut le même sort et le même cas de figure que le Japon avec une dynastie légitime mise en tutelle par une famille de ministres héréditaires, ce qu’avait perçu le père Alexandre de Rhodes dans son livre « Histoire du Royaume du Tonquin« . Il y souligna que ce que nous avons dit du Chúa des Tonkinois avait beaucoup de rapport avec ce que l’on raconta du Daishi des Japonais. C’est pourquoi le catholicisme fut perçu, durant cette période, de façon variable par les deux familles gouvernantes, les Trịnh au Nord et les Nguyễn au Sud avec un conflit sempiternel prenant le roi en position d’otage. Il fut alternativement toléré, interdit voire persécuté. Malgré cela, le catholicisme commença à trouver un écho favorable auprès des déshérités et même auprès de la Cour royale en la personne d’Alexandre de Rhodes.
Nhà Đông Hán (Dynastie des Han orientaux)
Bảo tàng viện Guimet (Paris)
Nhà Đông Hán (Dynastie des Han orientaux)
Niên đại nhà Đông Hán
Đông Hán
25-57: Quang Vũ Đế
57-75: Minh Vũ Đế
75-88: Hán Chương Đế
88-106: Hán Hoà Đế
106: Hán Thương Đế
106-125: Hán An Đế
125:Hán Thiếu Đế
125-144: Hán Thuận Đế.
145-146: Hán Chất Đế.
146-168: Hán Hoàn Đế.
168-189: Hán Linh Đế
184: Giặc Khăn Vàng
189: Hán Thếu Đế
189-220: Hán Hiến Đế
190: Cũng cố thế lực Tào Tháo
220: Tào Tháo và Hán Hiến Đế qua đời
Nhà Hán diệt vong
Thời kỳ bắc thuộc lần thứ nhất
Ở các vùng lãnh thổ bị người Hán chinh phục, đặc biệt là ở miền nam Trung Quốc, việc Hán hóa tiếp tục một cách dữ dội bất chấp mọi phản ứng. Vì thế các cuộc nội loạn tiếp nối diễn ra đầu tiên ở Điền Quốc ( năm 86, 83 TCN, 14 sau CN, từ năm 42 à đến năm 45 ) nhưng bi trấn áp một cách nghiêm khắc. Cũng phần đông từ các việc hà hiếp của các quan chức nhà Hán và thái độ ngang tàng cướp đất của các cư dân tàu và tiếp tục đẩy lùi các dân bản xứ đến các vùng heo hút. Hơn nửa họ phải học tiếng tàu, theo phọng tục và tín ngưỡng của người tàu. Sau đó năm 40, xãy ra một cuộc nổi dậy ở Giao Châu gồm có ở thời kỳ đó một phần lãnh thổ của Quảng Tây và Quảng Đông. Cuộc khởi nghĩa do hai người con gái của lạc tướng ở Mê Linh tên là Trưng Trắc (Zheng Cè) và Trưng Nhị (Zheng Er). Để làm gương cho các quân phiến lọan, thái thú Tô Định (Su Ding) không ngần ngại giết chồng của bà Trưng Trắc tên là Thi Sách (Shi Suo) vì ông nầy phản đối chính sách đồng hóa gắt gao. Việc hành hình nầy khiến làm phẫn nộ hai bà và khơi mào đến cuộc vùng dậy ở toàn lãnh thổ của người Bách Việt nhất là vùng của người Việt.
![]()
Dụng cụ dùng để giữ các vành của chiếc chiếu
Poids de natte
Hai bà Trưng được sự hưởng úng của các tộc trưởng khác Man Di ở quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố nên hai bà ta đã đoạt được 65 thành trì trong thời gian rất ngắn, trở thành Nữ vương và đóng dô tại Mê Linh (Meiling). Năm 41, hai bà bị khắc phục bỡi Mâ Viện Phục Ba tướng quân (Ma Yuan) và gieo mình tự sát ở Hát Giang thay vì đầu hàng. Hai bà trở thành một biểu tương về ý chí quật cường của dân tộc Việtnam. Hai bà vẫn được sùng bái không những ở Vietnam mà ở ngay trên các lãnh thổ của dân Bách Việt mà ngày nay thuộc về Trung Quốc (Quảng Tây và Quảng Đông).
Mã Viện bất đầu thi hành chinh sách khủng bố và hán hoá bằng cách đặt người tín nhiệm tàu ở các then chốt của nguồn máy hành chánh và áp đặt tiếng tàu là ngôn ngữ chính thức trên toàn lãnh thổ của người dân Việt. Đây là thời kỳ bắc thuộc lần đầu và được kéo dài gần một ngàn năm trước cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc với Ngô Quyền. Giữa lúc đó, Hán Quan Vũ Đế (Guangwudi) đã thành công đem lại sự thịnh vượng và ổn định trong nước bằng cách giảm thuế về lợi nhuận. Cũng như Hán Vũ Đế, sau khi Quan Vũ Đế mất, con ông Hán Minh Đế (Mingdi) đeo đuổi chính sách bành trướng đất đai với các cuộc tấn công chống lại quân Hung Nô nhầm tranh giành ảnh hưởng ở các nước Trung Á và đem lại sự an toàn cho con đường tơ lụa (Route de la soie). Tướng Ban Siêu (Ban Chao), anh của sử gia nổi tiếng Ban Cố (Ban Gu) (hay Mạnh Kiên)(*) ở thời đó, được trọng trách trong cuộc viễn chinh nầy. Ông đã thành công đến tận hồ Caspienne (hay Caspi) và chinh phục được dân tộc Nhục Chi nhờ có sự giúp đỡ của dân tộc Kusana.
(*) Tác giã của Hán Sử (Annales des Han)
Galerie des photos












