Hôi An et son pont-pagode (Chùa cầu)

Version vietnamienne
Version anglaise
Galerie des photos

L’histoire du pont-pagode de Hội An

Certains historiens  attribuent la construction de ce pont  aux Japonais. Ces derniers l’ont-ils construit eux-mêmes ou l’ont-ils réalisé sur la commande des Chinois ? C’est une énigme historique qui reste à éclaircir. D’autres experts réfutent totalement cette hypothèse. Ils estiment que ce pont doit être attribué aux Japonais dans la mesure où celui-ci est destiné à mieux signaler l’entrée du quartier japonais. En tout cas, ce pont s’avère nécessaire car  il est établi sur un grand arroyo où les crues surviennent à la saison des pluies dans le but de faciliter la circulation des véhicules, des chevaux et des piétons dans les deux quartiers de Hội An et de relier aujourd’hui les rues de Trần Phú et Nguyễn Thị Minh Khai. Ce pont est constitué de deux parties : le pont lui-même et la pagode. À l’entrée et à la sortie de ce pont on relève la présence de quatre statuettes de chien et de singe. Certains pensent que les travaux de construction ont commencé dans l’année du singe et achevé dans l’année du chien. D’autres attribuent cette présence à un usage japonais qu’il est temps de chercher à comprendre. Quant à la pagode, elle est située à côté de ce pont et en bois. On trouve sur sa porte principale  une enseigne intitulée « Lai Viễn Kiều »  qui est un autographe royal laissé par le seigneur Nguyễn Phước Châu lors de sa visite en l’an 1719 à Hội An.

Auparavant, cette pagode est dédiée au culte de Huyền Thiên Đại Đế (ou Bắc Đế Trần Vũ), un personnage éminent du taoïsme chargé de gouverner la partie Nord du ciel et d’avoir la mainmise sur le poisson-chat géant (Namazu)  vivant dans la vase des profondeurs de la terre. Selon le mythe japonais, cet animal aquatique a la tête au Japon et la queue en Inde et la partie dorsale se trouve à l’endroit où s’érige le pont. Chaque fois qu’il retourne son dos, cela provoque des séismes au Japon et Hội An ne peut pas se tenir dans la paix pour permettre à ses habitants d’avoir la prospérité dans le commerce. C’est pour cela qu’on érige une pagode considérée comme  une épée transperçant  son dos  afin de l’immobiliser et  de l’empêcher de faire grands ravages. De toute façon, grâce au talent des architectes de cette époque,  on constate que ce pont-pagode peut résister aux crues capricieuses de l’arroyo au fil du temps. Ce pont-pagode devient le symbole représentatif de la vieille ville de Hội An.

Chuyện chùa cầu

[Return HOI AN]

Version vietnamienne
Một số  sử gia cho rằng việc xây dựng chùa cầu này đến từ người Nhật Bản. Họ tự xây dựng nó hay người Hoa thuê họ làm việc nầy ? Đó là một bí ẩn lịch sử cần được làm sáng tỏ. Các chuyên gia khác bác bỏ hoàn toàn giả thuyết này. Họ tin rằng cầu này được người Nhật dựng lên vì nó nhằm đánh dấu lối vào khu phố Nhật Bản. Trong mọi trường hợp, chiếc cầu này rất cần thiết vì nó được xây dựng trên một con sông lớn, nơi thường xảy ra lũ lụt vào mùa mưa nhằm tạo  ra điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển xe cộ, ngựa và người đi bộ  ở  hai khu phố của Hội An và kết nối hai đường phố Trần Phú Nguyễn Thị Minh Khai ngày nay. 

Cầu này gồm hai phần: một phần là cầu và một phần là chùa. Ở  lối vào và lối ra của chùa cầu nầy, người ta nhận thấy có sự hiện diện của bốn tượng chó và khỉ. Một số người cho rằng việc xây dựng khởi đầu vào năm Thân và hoàn thành vào năm Tuất. Những người khác cho rằng sự hiện diện này là một tập tục của người Nhật mà cần phải nghiên cứu và tìm hiểu. Về phần chùa, nó nằm sát cạnh cầu này và được làm bằng gỗ. Trên cửa chính cũa chùa có một tấm biển đề « Lai Viễn Kiều » là ngự bút của chúa Nguyễn Phước Châu trong cuộc  viếng thăm Hội An vào năm 1719.

Ngôi chùa này được thờ phụng trước kia Huyền Thiên Đại Đế (hay Bắc Đế Trần Vũ), một nhân vật nổi tiếng của Lão giáo, có nhiệm vụ cai trị phần phía bắc của trời và có tài năng  kiểm soát được con cá trê khổng lồ  sống ở đất bùn từ sâu của lòng đất. Theo truyền thuyết của người Nhật, loài vật sống dưới nước này có đầu ở Nhật Bản, đuôi nằm ở Ấn Độ và phần lưng của nó thì là nơi dựng chùa cầu. Mỗi lần nó quay lưng lại thì gây ra sự động đất ở Nhật Bản và Hội An cũng không thể yên ổn để cho người dân có được sự thịnh vượng trong mậu dịch. Đây là lý do tại sao một ngôi chùa được dựng lên và  được xem coi như là một thanh gươm đâm vào lưng nó để cố giữ nó lại và ngăn nó tàn phá. Dù thế nào đi nữa, nhờ sự tài hoa của các nhà kiến ​​trúc sư thời bấy giờ mà chùa cầu này có thể chống chọi với những trận lũ kinh hoàng theo dòng  thời gian. Chùa cầu này trở thành ngày nay một biểu tượng tiêu biểu của phố cổ Hội An.

English version

Some historians attribute the construction of this bridge to the Japanese. Did they build it themselves or did they do it on the order of the Chinese? It is a historical mystery that remains to be clarified. Other experts completely refute this hypothesis. They believe that this bridge should be attributed to the Japanese insofar as it is intended to better mark the entrance to the Japanese quarter. In any case, this bridge proves necessary because it is built over a large arroyo where floods occur during the rainy season in order to facilitate the movement of vehicles, horses, and pedestrians between the two quarters of Hội An and today connects Trần Phú and Nguyễn Thị Minh Khai streets. This bridge consists of two parts: the bridge itself and the pagoda. At the entrance and exit of this bridge, there are four statuettes of a dog and a monkey. Some think that the construction work began in the year of the monkey and was completed in the year of the dog. Others attribute this presence to a Japanese custom that it is time to try to understand. As for the pagoda, it is located next to this bridge and is made of wood. On its main door, there is a sign titled « Lai Viễn Kiều, » which is a royal autograph left by Lord Nguyễn Phước Châu during his visit to Hội An in the year 1719.

Previously, this pagoda was dedicated to the worship of Huyền Thiên Đại Đế (or Bắc Đế Trần Vũ), a prominent figure in Taoism responsible for governing the northern part of the sky and having control over the giant catfish (Namazu) living in the mud of the earth’s depths. According to Japanese myth, this aquatic animal has its head in Japan, its tail in India, and its dorsal part is located where the bridge stands. Each time it turns its back, it causes earthquakes in Japan, and Hội An cannot remain peaceful, preventing its inhabitants from prospering in trade. That is why a pagoda was erected, considered as a sword piercing its back to immobilize it and prevent it from causing great destruction. In any case, thanks to the talent of the architects of that time, it is observed that this bridge-pagoda can withstand the capricious floods of the arroyo over time. This bridge-pagoda has become the representative symbol of the old town of Hội An.

 

 

Sanctuaire Po Nagar (2ème partie)

 

Tháp chính

Version anglaiseponagar1

Version française

Có chiều cao là 22 mét 8, tháp chính hay kalan này là một trong những tòa tháp cao nhất trong kiến ​​trúc Chàm. Phong cách của tháp được coi là phong cách trung gian giữa phong cách Mỹ Sơn A-1 và phong cách Bình Định (thế kỷ 11 – 12). Nó được phân biệt bởi một nền vuông và một mái ba tầng hình chóp nhọn. Nó được trang trí rất công phu và được bảo tồn cho đến ngày nay nên không thể nào  không chiêm ngưỡng được vẻ đẹp và lộng lẫy của nó mặc dù có thể nhìn thấy  thiếu cái đỉnh (kailasa),  nơi mà thần Shiva ngự trị. Một trong những đặc điểm của mái tháp  này là sự hiện diện của các con vật bằng đá (vahana) (dê ở tầng một, ngỗng (hamsa) ở tầng hai và voi ở tầng trên cùng).

Phần thân của lăng (kalan) được bao bọc bởi đôi cột  trụ  tường  hình chữ nhật không có trang trí, phần dưới của nó  thì  có đôi  vòm được trang trí bằng những cánh hoa sen. Vòm của những cánh cửa giả là một mô hình rất độc đáo. Một hình người được chạm khắc và hầu như không thể nhìn thấy rỏ  được tìm thấy ở trong mỗi cánh cửa giả.

Tiền đình vẫn còn nguyên vẹn. Ở mức độ của các chồng trụ, chúng ta tìm thấy các dòng chữ hoàng gia được  chạm khắc có niên đại từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 15 và liên quan đến danh sách các lễ vật dành cho nữ thần. Nhờ các văn bia, chúng ta được biết rằng vào năm 1064, vua Rudravarman III đã khôi phục lại tiền đình và nơi đặt nữ thần khiêu vũ Uma với bốn cánh tay của bà. Bên trong của tháp, ngoài tượng nữ thần ngồi trên đài sen được chôn trên bệ yoni, không chỉ có hai cánh cửa gỗ lim nguyên vẹn thời kỳ còn nước Chiêm Thành mà còn có hai tượng voi bằng gỗ được đặt ở cuối góc tường. Đây là những tác phẩm điêu khắc chàm duy nhất có niên đại từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 9 và vẫn còn đứng vững cho đến ngày hôm nay.

Đền phía nam

Dù đã xuống cấp theo thời gian nhưng mái đền vẫn giữ được nét duyên dáng và là một mô hình rất nguyên bản và độc đáo trong nghệ thuật Chămpa. Nó được xây dựng bởi senapati (hay tướng) Par của vua Harivarman để làm một ngôi đền của Sandhakalinga (một linga lưỡng tính) và để  giới thiệu  hai thần ShivaBhagavarti dưới dạng một mukhalinga, một nửa thần, một nửa nữ thần. Để đáp lại hình thức hợp nhất của hai vị thần nam nữ này, chúng ta thấy được  sự thích nghi trong việc xây dựng thông qua ngôi đền này. Tòa nhà này có hai phần: thân vuông gắn liền với tiền đình và mái vòm thì có bố cục gợi nhớ đến Hưng Thạnh và Bằng An.

Thân của ngôi đền này tương đối thấp và có ba cửa giả được trang trí bằng sáu mũi nhọn xếp chồng lên nhau có kích thước tăng dần về phía dưới. Có đường viền hình hoa sen ngang với bệ của nó. Toàn bộ phần đế của kalan này được trang trí bằng những cánh hoa sen khắc trong các hình vuông. Tiền đình của nó khá dài và có trán tường cao lên.

Nhờ các dòng chữ chàm, người ta biết rằng các tháp Đông Nam và Tây Bắc được xây dựng bởi thống đốc của Panduranga và tổng tư lệnh Senapati Par hay Parraun của vua Harivarman, một tháp cho vị thần Sri Maladakuthara (một dạng khác của Bhagavati) và một cái tháp khác cho Sri Vinayaka (Ganesa) (vị thần có đầu voi). Vị thần Maladakuthara được gọi là nữ thần nhỏ (yan pu aneh) được xem là con gái của nữ thần Po Nagar vĩ đại.

Đây cũng là lý do tại sao tháp Đông Nam được đặt bên cạnh Bhagavarti (kalan chính) và Shivalinga (đền phía nam)

Version française

Thánh Mẫu Thiên Y A Na

ponagar2

Le kalan principal

Avec ses 22,8 mètres de haut, ce kalan principal est l’une des plus hautes tours dans l’architecture chame. Son style est considéré comme le style intermédiaire entre le style Mỹ Sơn A-1 et celui de Bình Định (XIème-XIIème siècle). Il se distingue par une base carrée et une toiture effilée à trois étages. Celle-ci est tellement ornée et conservée jusqu’à nos jours qu’il est impossible de ne pas apprécier sa beauté et sa splendeur malgré l’absence visible de la crête (kailasa ou la résidence de Shiva). L’une des caractéristiques de cette toiture est la présence des animaux en pierre (vahana) (des chèvres au premier étage, des oies (hamsa) au deuxième étage et des éléphants au dernier étage).

Le temple du Sudponagar3

Malgré la dégradation de sa toiture au fil du temps, il continue à garder son charme et il est un modèle très original et unique dans l’art du Champa. Il fut construit par le Senapati (1) Par du roi Harivarman dans le but de faire un temple du Sandhakalinga (un linga hermaphrodite) et de présenter ensemble Siva et Bhagavarti sous la forme d’un mukhalinga, mi-dieu, mi déesse.

Afin de répondre à cette forme fusionnelle de ces deux divinités masculine et féminine, on voit apparaître une nouvelle adaptation de construction à travers ce temple. Il y a dans cet édifice deux parties: le corps carré rattaché au vestibule et la toiture bombée dont la composition rappelle celles de Hưng Thạnh et de Bằng An.

Le corps de ce temple est relativement bas et possède trois fausses portes ornées de six fers de lance superposées dont la grandeur croit vers le fond. On trouve au niveau de son piédestal des bordures en forme de fleur de lotus. Tout le socle de ce kalan est orné de pétales de lotus gravés dans des carrés.

Son vestibule est assez long et a un fronton surélevé.

Grâce aux inscriptions chames, on sait que les tours Sud-Est et Nord-Ouest ont été construites par le gouverneur de Panduranga et commandant en chef Senapati Par ou Parraun du roi Harivarman, l’une pour la divinité Sri Maladakuthara (autre forme de Bhagavati) et l’autre pour Sri Vinayaka (Ganesa)(2). La divinité Maladakuthara appelée comme la petite déesse (yan pu aneh) était présentée comme la fille de la grande déesse de Pô Nagar.

Temple du Sud-Est

C’est aussi l’une des raisons qui ponagar4explique que la tour du Sud Est était placée à côté de Bhagavarti (kalan principal) et du Sivalinga (temple du Sud).

[Return to CHAMPA]

Références bibliographiques.danseuse

Les ruines Cham. A la recherche d’une civilisation éteinte. Trần Kỳ Phương. Editeur Thế Giới 1993

Po Nagar de Nha Trang. Anne-Valérie Schweyer. Aséanie 14, Décembre 2004, p. 109-140

Pérégrinations culturelles au Champa. Nguyễn Văn Kự- Ngô Văn Doanh. Editeurs EFEO- Thế Giới Publishers 2005.

Văn Hóa Cổ Chămpa. Ngô Văn Doanh. Editeur Nhà Xuất Bản Văn Hóa Dân Tộc 2002.


(1) senapati: général (tướng)
(2) Ganesa: Nom du dieu à tête d’éléphant. Il est le fils de Pârvatî, la parèdre de Shiva.

Sanctuaire Po Nagar (1ere partie)

Thánh Địa Po Nagar

Version française

Version anglaise

Thánh địa này là điểm tham quan không thể bỏ qua được  đối với những ai có cơ hội đến Nha Trang, một khu an dưỡng độc nhất của Việt Nam. Tọa lạc trên một ngọn đồi  ở cửa sông Cái, được xây dựng liên tục từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 13 theo các bia ký được tìm thấy ở nơi nầy. Sự xuất hiện thánh địa này ở vương quốc Champa có liên quan đến những xáo trộn mà Champa đã trải qua vào thế kỷ thứ 8. Vương quốc Champa trên thực tế là một liên bang của một số bang hay đúng hơn là « các thành-bang » mà quyền lực mạnh nhất trong số đó đóng vai trò « thủ lĩnh » (vai trò chủ đạo). Với sự ra đời của một triều đại mới thì  pura của nó (hay là thành-bang) được  đứng lên hàng đầu và do đó trở thành thủ đô của vương quốc. Nhờ các tài liệu lịch sử của Trung Quốc và các bia ký của người Chăm, chúng ta biết rằng cho đến đầu thế kỷ thứ 7, pura (hay thành-bang) Singhapura (gọi là thành sư tử) ở Trà Kiệu (thuộc huyện Duy Xuyên, tỉnh hiện nay. Quảng Nam) chiếm được ưu thế.

Vào thời điểm đó, dòng dõi hoàng gia của phương Bắc vẫn được bảo vệ bởi nam thần Bhadresvara, một  tượng dương vật trưng có một hình thức nhân từ của thần Shiva, được tôn vinh trong thánh địa linh thiêng nhất Mỹ Sơn. Một dòng dõi hoàng gia không bao lâu trước đó mới được thu nhận vào giữa thế kỷ thứ 8 ở phía nam Vương quốc Champa (Kauthara) và cần có một vị thần khác để bảo vệ họ. Các vùng Trà Kiệu và Mỹ Sơn thuộc tỉnh Quảng Nam hiện nay (tỉnh chàm của Amaravâti) do đó mất tầm quan trọng so với Khánh Hòa (đồng bằng Nha Trang) và Ninh Thuận (vùng Phan Rang). Mặc dù trung tâm quyền lực chính trị của nó (Virapura) cho đến nay vẫn chưa được tìm thấy, nhưng được cho là nằm ở đâu đó trong vùng lân cận của Phan Rang. Mặt khác, chúng ta chắc chắn rằng một sự kiện chính trị lớn đã diễn ra ở phía nam của vương quốc này vì nó hoàn toàn phù hợp với năm 758 được ghi trong biên niên sử Trung Quốc để đánh dấu sự khởi đầu của thời kỳ Huanwang (hay Hoàn Vương) được tồn tại khoảng chừng 100 năm. Lin Yi (hay Lâm Ấp), tên cổ được đặt cho vương quốc này, không còn được sử dụng và được thay thế bằng Huanwang trong các văn bản Trung Quốc. Vị thần này là một tượng dương vật có một khuôn mặt và được tôn vinh trong đền thờ Po Nagar linh thiêng ơở  bên cạnh bờ biển. Vị thần nầy rõ ràng là nữ tính và được giới thiệu là shakti  của thần Shiva, tên là Bhagavati.

Bất chấp có dấu hiệu   để qua một bên dòng dõi Prathivindravarman từ phương Nam, được báo cáo trong biên niên sử Trung Quốc vào năm 859 và việc dòng họ Bhrgu ở phía bắc vương quốc, Indrapura (gần Hội An) chiếm đoạt quyền lực tối cao vào năm 875 với vị vua mới là Indravarman II.  Vị thần của Nha Trang ở Kauthara tiếp tục được tôn làm nữ thần bảo trợ của vương quốc. Điều này cho thấy ý chí của dòng dõi Bhrgu trong việc sát nhập nữ  thần vào một hệ thống tôn giáo nhất quán mà, dựa trên sự tôn kính thần Bhadresvara (thánh địa Mỹ Sơn) cho đến giờ, lại công nhận một vị trí bổ sung cho nữ thần Bhagavarti. Tính lưỡng cực tôn giáo  dựa trên thần Bhadresvara ở Mỹ Sơn và nữ thần Bhagavati ở Nha Trang giờ đây sẽ được áp đặt trên toàn vương quốc. Sự tôn kính Bhagavarti không chỉ phù hợp với tầm quan trọng đối với hệ thống mẫu hệ được người Chăm áp dụng mà còn có  sự thống nhất mà người Chăm cần vào thời điểm này khi đối mặt với các kẻ thù của họ (người Việt, người Khơ Me và người Chà Và).

Để thích nghi với một môi trường tự nhiên xa lạ mà nơi có các bảo tháp và công trình tôn giáo của người Chăm mang đậm dấu ấn văn hóa Ấn Độ hiện ra rất kỳ lạ, đáng sợ và huyền bí với những bức tượng thần Brahma, Shiva, VishnuPo Nagar, những người  dân Việt mới đến nơi này buộc lòng  phải  tạo ra một lối sống thích nghi với môi trường văn hóa mới của họ. Họ đã không ngần ngại sử dụng những nơi có dấu tích văn hóa Chàm để  biến chuyển vào thế giới tâm linh  và làm nơi thờ tự của họ. Họ đang cố gắng thiết lập sự hài hòa giữa sức mạnh siêu nhiên và thời gian ở  các lãnh thổ mà họ đã chinh phục được. Vì sợ quấy rầy  những thần linh  địa phương có khả năng mang lại cho họ một cuộc sống tồi tệ, họ chiếm đoạt đôi khi những nơi thờ cúng của những người đã chết hoặc của những người dân địa phương. Đó là trường hợp thánh địa Pô Nagar nơi mà nữ thần Chăm Uma được người dân Việt giành lại sở hữu và không ngần ngại biến chuyển  truyền thuyết Po Nagar thành truyền thuyết của mình và  được dàn xếp  lại theo cách riêng tư nhưng dù sao họ cũng không xóa bỏ được hết nền tảng của truyền thuyết Chàm. Nữ thần của Chiêm Thành do đó trở thành Thiên Y A Na (hay Thiên Y Thánh Mẫu) của người dân Việt. Sự chiếm đoạt sở hữu  này còn được thấy ở những địa danh khác của Việt Nam trong cuộc Nam Tiến: Bà Đen ở Tây Ninh hay nữ thần Chúa Xứ ở núi Sam (Châu Đốc).

Trong bản kiểm kê các tháp chàm nằm ở  thánh địa Pô Nagar, nhà khảo cổ học người Pháp Henri Parmentier có xác định được hàng chục tòa nhà thờ cúng tập hợp chung lại với nhau trên một diện tích năm trăm mét vuông  trên đỉnh một ngọn đồi. Do thời tiết khắc nghiệt và chiến tranh, chỉ còn lại hiện nay năm tòa nhà được  phân phối ở hai cấp. Trên đỉnh có hai dãy tháp, dãy thứ nhất gồm ba ngọn tháp từ bắc xuống nam: tháp chính thờ nữ thần Yan Pu Nagara (hay Thiên Y A Na), một đền ở phía nam và một tháp phía  ở đông nam.

Về dãy thứ hai, chỉ còn lại một tháp có mái cong hình yên ngựa thờ các con của Thiên Y A Na. Trước tháp chính ở hàng thứ nhất, ở tầng thấp hơn, lại có một mandapa không có tường,  được tạo ra thành hai hàng gồm mười cột gạch hình bát giác mỗi hàng, cao ba mét và đường kính hơn một mét và được bao quanh bởi mười bốn cột tương tự với kích thước nhỏ hơn. Những chiếc cột này nhằm mục đích nâng đỡ một mái nhà dưới dạng một chiếc vỏ thuyền bị lật, cấu trúc của nó được làm bằng gỗ. Mandapa này được xây dựng bởi Senapati Par và được nhắc đến trong tấm bia do vị tướng của vua Harivarman này dựng vào năm 817. Nó được nối với tháp chính bằng một cầu thang bằng gạch. Loại công trình này được tìm thấy ở các di chỉ Chăm khác: Mỹ Sơn (Đã Nẵng), Po Kloong Garai (Phan Rang) hay Bánh Ít (Bình Định). Theo Henri Parmentier, bên cạnh những tòa nhà bằng gạch này, có  một ngôi đền bằng gỗ (hay bimong trong tiếng Chàm) được coi là một kho chứa đồ cúng.

Nhờ các văn khắc Chàm, chúng ta biết rằng vào năm 774, thánh địa tôn giáo Pô Nagar, được xây dựng bằng gỗ, bị cướp phá và phá hủy bởi người Chà Và (Java). Những người  này được đề cập đến  đ ể  chỉ tất cả các dân cư của biển nam, tức là các quốc gia ở quần đảo và bán đảo Mã Lai. Thánh địa nầy được xây dựng lại vào năm 784 bằng gạch và đá bởi vua Satyavarman. Sau đó vào khoảng giữa thế kỷ thứ 10, địa danh Nha Trang bị cướp phá bởi người Khơ Me với một bia ký nói về chiến lợi phẩm (tượng vàng) lấy được của  nữ thần Bhagavati. Tượng này được đặt lại vào năm 965  và thay thế bằng một bức tượng đá bởi vua Indravarman. Bức tượng thế kỷ thứ 10 dưới thời trị vì của Vua Jaya Paramesvaravarman có thể là bức tượng vẫn còn được nhìn thấy ngày nay trong tháp chính, nhưng đầu của tượng đã được phục chế lại theo phong cách Việt Nam.

Version française

Ce sanctuaire est un passage obligé pour ceux qui ont l’occasion de visiter Nha Trang, la station balnéaire la plus huppée du Vietnam. Situé sur une colline à l’embouchure de la rivière Cái, il fut construit sans interruption du VIIIème au XIIIème siècle selon les inscriptions trouvées sur place. L’apparition de ce sanctuaire dans le royaume du Champa est liée aux tumultes qu’a connus le Champa au VIIIème siècle. Le royaume du Champa est en fait une fédération de plusieurs états ou plutôt « cité-états » dont la plus puissante joue le rôle de « leader » (vai trò chủ đạo). À l’avènement d’une nouvelle dynastie, son pura accède au premier rang et devient ainsi la capitale du royaume. Grâce aux documents historiques chinois et aux inscriptions chames, on sait que jusqu’au début du VIIème siècle, le pura (ou cité-état) de Singhapura (citadelle du lion) à Trà Kiệu (dans le district actuel de Duy Xuyên, province de Quảng Nam) prédomina.

A cette époque, la lignée royale du Nord était toujours protégée par la divinité masculine Bhadresvara, un linga représentant une forme bienveillante de Shiva honorée dans le sanctuaire le plus sacré de Mỹ Sơn. Une nouvelle lignée royale ne tarda pas à se faire reconnaître au milieu du VIIIème siècle dans le sud du royaume du Champa (Kauthara) et eut besoin d’une autre divinité pour la protéger.

La région de Trà Kiệu et de Mỹ Sơn appartenant à la province actuelle Quảng Nam (province chame d’Amaravâti) perdit ainsi son importance au profit de Khánh Hòa (plaine de Nha Trang) et de Ninh Thuận (région de Phan Rang). Bien qu’on n’arrive pas à localiser jusqu’à aujourd’hui son centre politique du pouvoir (Virapura), on prétend qu’il est quelque part dans les environs de Phan Rang. Par contre, on est certain qu’un événement politique majeur a eu lieu dans le sud de ce royaume car cela est en parfait accord avec la date de 758 fournie dans les annales chinoises pour marquer le début de la période Huanwang (ou Hoàn Vương en vietnamien) durant à peu près 100 ans. Lin Yi (ou Lâm Ấp en vietnamien), l’ancien nom donné à ce royaume, n’est plus utilisé et il est remplacé par Huanwang dans les textes chinois. Cette divinité est un linga à un visage et est honorée dans le sanctuaire sacré Pô Nagar situé au bord de la mer. Elle est clairement féminine et présentée comme la shakti de Shiva, Bhagavati.

Malgré la mise en parenthèse de la lignée de Prathivindravarman du Sud rapportée dans les annales chinoises en 859 et la prise du pouvoir suprême par la lignée de Bhrgu dans le nord du royaume à Indrapura (près de Hội An) en 875 avec le nouveau roi Indravarman II, la divinité de Nha Trang dans le Kauthara continua à être honorée comme la déesse protectrice du royaume.

Cela montre la volonté de la lignée de Bhrgu d’intégrer celle-ci dans un système religieux cohérent qui, basé jusqu’alors sur la vénération de Bhadresvara (sanctuaire de Mỹ Sơn) reconnaît une position de complémentarité à Bhagavarti. La bipolarité religieuse autour du dieu Bhadresvara à Mỹ Sơn et de la déesse Bhagavati à Nha Trang va s’imposer désormais sur l’ensemble du royaume. La vénération de Bhagavarti est conforme non seulement à l’importance accordée au système matrilinéaire adopté par les Chams mais aussi à l’unité dont les Chams avaient besoin à cette époque face à leurs ennemis (Vietnamiens, Khmers et Javanais).

Afin de s’acclimater à un milieu naturel peu familier où les stupas et les constructions religieuses des Chams portant la marque profonde de la culture indienne étaient visiblement étranges, effrayantes et mystérieuses avec les statues de Brahma, Shiva, Vishnu et Pô Nagar, ces nouveaux venus vietnamiens étaient obligés d’élaborer un mode de vie adapté à leur nouvel environnement culturel. Ils n’hésitaient pas à faire usage des vestiges de la culture Cham pour les transposer dans leur propre univers religieux et leurs propres lieux de culte.

Ils tentaient d’établir une harmonie entre les puissances surnaturelles et temporelles des territoires qu’ils avaient réussi à conquérir. Craignant d’importuner des génies locaux capables de leur rendre une vie néfaste, ils s’étaient approprié parfois les lieux de culte des vaincus ou des gens locaux.

C’est le cas du sanctuaire de Pô Nagar où la déesse du Champa Uma a été appropriée  par les Vietnamiens . Ceux-ci n’hésitaient pas à assimiler la légende de Po Nagar dans une mythologie arrangée à leur manière sans réussir à effacer le substrat cham du mythe. La déesse du Champa devenait ainsi Thiên Y A Na (Thiên Y Thánh Mẫu) des Vietnamiens. Cette appropriation se renouvelle à d’autres endroits du Vietnam lors de la marche vers le Sud: la Dame Noire à Tây Ninh ou la déesse Chúa Xứ au mont Sam (Châu Đốc).

Dans son inventaire des tours chames situées sur le site Pô Nagar, l’archéologue français Henri Parmentier a recensé une douzaine d’édifices de culte groupés dans une aire de 500 m2 au sommet d’une colline. À cause des intempéries et de la guerre, il ne reste que 5 édifices répartis sur deux niveaux de construction. On trouve au sommet deux rangées de tours dont la première est composée de trois tours du nord au sud: la tour principale dédiée à la déesse Yan Pu Nagara (ou Thiên Y A Na en vietnamien), le temple du sud et le kalan du sud-est. Quant à la deuxième rangée, il reste seulement une tour à toiture recourbée en forme de selle et dédiée aux enfants de Thiên Y A Na.

En face de la tour principale de la première rangée, au niveau inférieur, se dresse un mandapa non muré et constitué de deux rangées de dix colonnes octogonales en brique, mesurant chacune trois mètres de hauteur et plus d’un mètre de diamètre et entourées par quatorze colonnes similaires de taille moins importante. Ces colonnes étaient destinées à supporter un toit en forme de coque de bateau renversée dont la structure était en bois.

Ce mandapa a été construit par Senapati Par et mentionné dans les stèles élevées par ce général du roi Harivarman en 817. Il était relié à la tour principale par un escalier en briques. Ce type d’édifice se retrouve sur d’autres sites chams: Mỹ Sơn (Đã Nẵng), Po Kloong Garai (Phan Rang) ou Bánh Ít (Bình Định). Selon Henri Parmentier, il existait à côté de ces édifices en briques, un temple en bois (ou bimong en cham) qui était en quelque sorte un reposoir pour les offrandes.

Grâce aux inscriptions chames, on apprend qu’en 774, le sanctuaire religieux de Pô Nagar construit en bois fut pillé et détruit par les Javanais (Chà Và en vietnamien). Ceux-ci désignent l’ensemble des populations des mers du Sud càd le pays de l’archipel et de la péninsule Malaise. Il fut reconstruit en 784 en briques et en pierre par le roi SatyavarmanPuis vers le milieu du Xème siècle, le site de Nha Trang fut mis à sac par les Khmers dont les inscriptions parlaient du butin (statue en or) pris à la déesse Bhagavati.

Celle-ci fut réinstallée en 965 par le remplacement d’une statue en pierre par le roi Indravarman. La statue du Xème siècle sous le règne du roi Jaya Paramesvaravarman pourrait être celle que l’on peut voir encore aujourd’hui dans la tour principale mais sa tête fut restaurée à la façon vietnamienne.

Lire la suite

 

Ta Prohm (Temple-Monastère)

                                                                                                  Le grand roi Jayavarman VII

taprohm

Version anglaise

Version  française

Không giống như  các ngôi đền của Angkor, Ta Prohm bị bỏ lại trong tình trạng đổ nát. Trường phái Viễn Đông Pháp đã cố tình chọn ngôi đền này làm ví dụ về diện mạo của các ngôi đền Angkor vào thời điểm chúng được phát hiện vào thế kỷ 19. Để xây dựng ngôi đền này, vua Jayavarman VII đã dựa vào thu nhập từ việc trồng lúa. Vào thời điểm đó, tiền chưa tồn tại. Tiền tệ vẫn là gạo, lương thực chính của những người lao động được tuyển dụng để xây dựng ngôi đền. Một dòng chữ khắc tại di tích Ta Prohm cho biết chỉ riêng ngôi đền này đã có 12.640 người phục vụ.

Người ta cũng ghi lại rằng hơn 66.000 nông dân đã sản xuất hơn 2.500 tấn gạo mỗi năm để nuôi sống vô số các nhà sư, vũ công và người làm việc trong đền. Nhờ vẻ đẹp lãng mạn của nó, đền Ta Prohm đã được đưa vào bộ phim Mỹ « Bí Mật Ngôi Mộ Cổ » với sự tham gia của Lara Croft (Angela Joli).

Đây chính là nơi thiên nhiên đòi lại quyền lợi của mình. Một số bức tường của khu di tích Ta Prohm chỉ có thể đứng vững nhờ bộ rễ cây sung và cây gạo bao quanh chúng như những con bạch tuộc khổng lồ. Ta Prohm được coi là một trong những ngôi đền quý giá nhất của Angkor. Nó được xây dựng bởi vị vua vĩ đại Jaravarman VII vào cuối thế kỷ 12. Ngôi đền được dành tặng cho mẹ củangài bởi vì hình ảnh bà được thể hiện rõ nét qua bức tượng của vị thần chính của ngôi đền, Prajnaparamita (Trí tuệ viên mãn). Cha của ông cũng không bị lãng quên bởi Lokeçvara, vị thần chính của Preah Khan, trông rất giống ông.

A la différence de la plupart des temples d’Angkor, Ta Prohm a été laissé dans un état de ruine. Il a été choisi délibérément par l’École française d’Extrême-Orient comme un exemple de ce à quoi les temples d’Angkor ressemblaient au moment de leur découverte au XIXème siècle. Pour construire ce temple, le souverain Jayavarman VII comptait sur les revenus que lui procurait la culture du riz. L’argent n’existait pas à cette époque. La monnaie d’échange restait le riz, aliment de base des ouvriers enrôlés pour bâtir le temple. On trouve sur le site Ta Prohm une inscription indiquant que 12 640 personnes servaient dans ce seul temple.

Elle rapporte aussi que plus de 66 000 fermiers produisaient plus de 2 500 tonnes de riz par an pour nourrir la multitude de prêtres, de danseuses et d’ouvriers du temple. A cause de son attrait romantique, le temple Ta Prohm a été sélectionné dans le film américain Tomb Raider avec Lara Croft (Angela Joli).

C’est ici que la nature reprend ses droits. Certains murs du site Ta Prohm ne peuvent tenir debout que grâce aux racines des figuiers et des fromagers qui les enserrent comme des poulpes géants. Ta Prohm est considéré comme l’un des temples les plus prisés d’Angkor. Il fut construit par le grand roi bâtisseur Jaravarman VII à la fin du XIIème siècle. Il fut dédié à sa mère car on trouve la ressemblance étonnante de celle-ci dans la statue de la divinité principale de ce temple, Prajnaparamita (Perfection de la sagesse). Son père n’était pas oublié non plus car Lokeçvara, le dieu principal de Preah Khan lui ressemble énormément.

Unlike most of the temples of Angkor, Ta Prohm has been left in a state of ruin. It was deliberately chosen by the French School of the Far East as an example of what the Angkor temples looked like at the time of their discovery in the 19th century. To build this temple, the sovereign Jayavarman VII relied on the income generated by rice cultivation. Money did not exist at that time. The currency of exchange remained rice, the staple food of the workers enlisted to build the temple. On the Ta Prohm site, there is an inscription indicating that 12,640 people served in this single temple.

It also reports that more than 66,000 farmers produced over 2,500 tons of rice per year to feed the multitude of priests, dancers, and workers of the temple. Because of its romantic appeal, the Ta Prohm temple was selected for the American film Tomb Raider featuring Lara Croft (Angelina Jolie).

This is where nature takes back its rights. Some walls of the Ta Prohm site can only stand thanks to the roots of fig and kapok trees that wrap around them like giant octopuses. Ta Prohm is considered one of the most popular temples in Angkor. It was built by the great builder king Jayavarman VII at the end of the 12th century. It was dedicated to his mother because her striking resemblance can be seen in the statue of the main deity of this temple, Prajnaparamita (Perfection of Wisdom). His father was not forgotten either, as Lokeçvara, the main god of Preah Khan, resembles him greatly.

 Ta Prohm (Đền tu viện)

Angkor Vat (Đế Thiên Đế Thích)

Angkor Vat: joyau de l’architecture khmère

angkor_vat

English version

French version
picture-591

 

Angkor Wat là ngọn núi đền thờ Khơ Me lớn và hùng vĩ nhất. Nó được xây dựng dưới triều đại của vua Suryavarman II vào nửa đầu thế kỷ 12. Nơi đây được coi là kinh đô của Đế chế Khmer, với đền thờ quốc gia dành riêng cho thần Vishnu ở trung tâm.

Chính tại đây, các tòa tháp  được dựng lên theo cách ngũ hợp. Hai đặc điểm chính của kiến ​​trúc Khmer được ghi nhận ở đây: các kim tự tháp hay núi đền thờ tượng trưng cho Núi Meru (nơi ở của các vị thần) và các hành lang được xây dựng chồng lên nhau. Nhiều người coi đây là kỳ quan thứ tám của thế giới. Các ngọn núi đền thờ khác có thể tham quan: Bakeng, Takeo, Baphuon, Pre Rup, BakongAk Yum.

 

Angkor Vat est le temple-montagne le plus grand et le plus sublime de tous les temples khmers. Il fut construit durant le règne de Sûryavarman II dans la première moitié du XIIème siècle. Il a été considéré comme capitale de l’empire khmer ayant en son centre le temple d’état dédié à Vishnu. C’est ici que sont dressées les tours en quinconce. Deux caractéristiques majeures de l’architecture khmère y sont relevées: les pyramides ou temples-montagnes symbolisant le mont Méru (demeure des Dieux) et les galeries qui ont été construites l’une au dessus de l’autre. Beaucoup de gens le considèrent comme la huitième merveille du monde. D’autres temples-montagnes peuvent êtres visités: Bakeng, Takeo, Baphuon, Prè Rup, Bakong et Ak Yum.

Cát Tiên sanctuaire (suite)

cat_tien_site_portail_1

 

Le site de Cát Tiên recèle un grand nombre de vestiges architecturaux parmi lesquels on peut citer des temples, des tours, un système hydraulique, des allées, des fours à brique. Il n’y a aucune doute que les briques étaient fabriquées et servies sur place et que les pierres étaient importées d’ailleurs. On constate aussi le respect de la tradition hindoue dans l’orientation de la plupart des monuments du site vers l’est. Les archéologues vietnamiens ont réussi à mettre en lumière un mur d’enceinte en brique qui était une clôture symbolique entre le monde sacré et le monde profane. Celui-ci part du fleuve jusqu’aux monticules de terre élevés dont l’un se trouve dans la province de Đồng Nai et les autres sont situés dans les communes Đức Phổ et Quảng Ngải. Même le portail d’un temple a vu le jour. Son fronton pesant plus d’une tonne peut être considéré comme chef-d’oeuvre de la sculpture avec des motifs de fleur de lotus en relief, des bandes de nuages finement stylisées et des scènes assez vivantes. Ce portail découvert se distingue jusqu’alors des autres portails rencontrés dans les temples du Champa.

 

Selon l’archéologue vietnamien Trần Quốc Vượng, ce sanctuaire est l’oeuvre architecturale des Cham. Pour lui, le Champa était en fait une fédération de six états situés le long de la côte du centre du Vietnam ou plutôt « cité-états » dont la plus puissante jouait le rôle de « leader » (vai trò chủ đạo).

1) Ranna (Quảng Trị)
2) Amaravati (Quảng Nam- Quảng Ngãi)
3) Vijaya (Bình Định)
4) Kanthara (Khánh Hòa)
5) Panduranga (Phan Rang- Phan Thiết)
6) Cát Tiên (Bà Rịa- Đồng Nai)

Il n’y a aucun doute que le royaume Cát Tiên faisait partie de cette fédération et était même soi-disant le royaume (ou non) des Mạ où l’influence des Cham était notable. Selon lui, les Cham avaient l’habitude de se servir du modèle culturel suivant constitué toujours de 3 parties: sanctuaire (montagne), citadelle (capitale) et port ( centre économique ) dans leur établissement. C’est ce type de modèle qu’on a vu se répéter dans chaque cité-état cham de Quảng Trị jusqu’à Phan Thiết. Pour lui, Cát Tiên était le centre religieux tandis que Biên Hoà était sa citadelle et Cần Giờ son port fluvial. Sa suggestion est proche de la proposition de Paul Mus. Ce dernier a déjà faite dans son cours en 1956-1957 pour le modèle d’implantation des Cham avec trois constituants: le noyau, l’alvéole et l’aérole.

À partir d’un point d’eau, se constitue le noyau. Celui-ci est en fait une cité portuaire, chef-lieu d’une entité politique, religieuse et économique dotée de monuments. Constituée de rizières et de vergers, l’alvéole est destinée à fournir une partie de son alimentation tandis que l’autre partie de celle-ci ( produits de la pêche) est approvisionnée par l’aérole au moyen de ses cours d’eau et des rivières. Les Cham reçoivent des produits de la chasse et de la cueillette de la part des hommes de la forêt et ils les acheminent à leur port qui les expédiera à son tour aux cités portuaires étrangères grâce à leurs bateaux ou à ceux des étrangers auxquels ils ont vendu leurs produits. De même ils font le chemin inverse pour les produits qu’ils ont acheté auprès des marchands étrangers.

cat_tien_site_portail_2

Bref, le site Cát Tiên répond exactement au schéma proposé par l’archéologue et historien vietnamien Trần Quốc Vượng ou le sociologue français Paul Mus car les Cham étaient habitués à s’installer dans des sites proches des cours d’eau accessibles à la navigation fluviale ( Đồng Nai dans notre cas). Cela leur permet d’assumer l’approvisonnement en produits forestiers (bois d’aigle (cây trầm hương) ou bois de santal, ivoire etc ..) et de faire du commerce avec le monde extérieur, en particulier avec la Chine. C’est aussi le modèle proposé par Bennet Bronson pour le monde malais des grandes îles. Il est intéressant de rappeler que les Cham sont proches des Malais au niveau linguistique.

Malgré cela, il subsiste quand même quelques zones d’ombre. D’abord Cát Tiên n’est jamais évoqué jusqu’à aujourd’hui dans l’histoire du Champa. Puis Cát Tiên dont la période d’épanouissement a été connue récemment grâce à la datation des objets au radiocarbone (du IVème – VIIIème siècle après J.C.), dut être à cette époque dans le giron du royaume de Founan. Ce dernier ne disparut qu’au milieu du VIIème siècle. Donc Cát Tiên devrait être un pays vassal du royaume de Founan. Puis à la disparition de ce dernier, il serait dans la mouvance de l’empire Chenla.

Comment le royaume de Cat Tiên arrive-t-il à survivre jusqu’au VIIIè siècle avec le changement politique régional dû à la soumission du royaume de Founan par le Chenla?

On peut émettre l’hypothèse suivante: le royaume de Cát Tiên, un pays vassal du royaume du Founan était peuplé de Môn-Khmers et d’Austronésiens (dont les Cham faisaient partie) mais le pouvoir politique et religieux revenait aux Cham. Lors de l’annexion du royaume du Founan par le Chenla d’Içanavarman, le royaume de Cát Tiên passera probablement dans le giron de ce dernier localisé dans le bassin du moyen Mékong. La capitale de Chenla se trouverait probablement à Vat Phou à l’extrême sud du Laos d’aujourd’hui.

Selon le scientifique américain Michael Vickery, les Cham issus probablement de l’île de Bornéo sont arrivés par mer au cours des derniers siècles avant notre ère. Ils ont investi le territoire occupé jusque-là par les Môn-Khmers (Mạ, Stiêng etc..). Le Champa offre un visage pluriethnique si on s’appuie sur la nouvelle approche des recherches en cours. On admet aujourd’hui que grâce à leur vocation maritime et à leur contact établi avec les autres Austronésiens de Nusantara, ils se sont imprégnés de la culture indienne avant même qu’ils quittent l’île de Bornéo. Etant considérés comme les Vikings de l’Asie, ils maîtrisaient parfaitement la technique de navigation. Selon Michael Vickery, ils auraient voyagé depuis la Préhistoire entre l’Inde et l’Asie du Sud Est. Peut-être pour cela la culture de Sa Huỳnh témoigne de leur trace sur la côte du centre du Vietnam. Ils ont débarqué en plusieurs endroits de cette côte et y ont établi des poches de pouvoir en concurrence les unes avec les autres. Probablement Cát Tiên devrait être l’un des points de leur débarquement. Ils y établirent un petit royaume ou une chefferie qui accepta la tutelle du royaume du Founan car ils étaient plus proches des Founanais. Ceux-ci étaient des navigateurs expérimentés et des constructeurs de gros bateaux d’après les mentions des historiens chinois. Ce n’est pas le cas des gens du Chenla (ancêtres des Khmers). Selon l’archéologue vietnamien Hà Văn Tấn, les Founanais n’étaient pas les Khmers (*). Les Chinois décrivaient d’ailleurs ces Founanais comme des gens ayant le teint noir et les cheveux frisés. Probablement ils seraient aussi austronésiens comme les Chams ou plutôt issus de la juxtaposition et de la fusion de deux strates austroasiatique et austronésienne. De plus, à cette époque, il faut rappeler que le royaume du Founan fut dirigé à une certaine époque par un roi conquérant remarquable Fan Shi Man (Phạm Sư Man) qui réussit à soumettre une dizaine d’états durant son règne. De manière purement hypothétique, Georges Coedès l’a identifié avec Sri Màra dans la plus ancienne inscription écrite en sankskrit (Vỏ Cạnh) et trouvée à Nha Trang (Khánh Hoà).

À la suite de l’annexion du royaume du Founan par le Chenla au milieu du VIIème siècle, le royaume de Cát Tiên passera probablement dans le giron de ce dernier. Mais il n’y serait pas pour longtemps à cause de la scission du Chenla en Chenla d’Eau (Thủy Chân Lạp) au Sud et en Chenla de Terre (Lục Chân Lạp) au Nord. Puis il fut soumis en même temps que le Chenla d’Eau dont il faisait partie, par les Javanais (Chà Và en vietnamien ) du royaume de Sailendra. Il faut rappeler aussi que le sanctuaire religieux de Po Nagar (Nha Trang) fut pillé et détruit sans merci par les Javanais en 774. La disparition du royaume de Cát Tiên ou de son site religieux doit être expliquée par l’une des raisons suivantes:

-la destruction et le pillage systématique de tous les sanctuaires Cham par les Javanais du royaume de Sailendra. Durant deux siècles (de VIIIè siècle à Xème siècle) ceux-ci attaquèrent les côtes du Champa et occupèrent le Chenla d’Eau. Ils remontèrent même le Mékong pour aller jusqu’à Kratié.

-la peste

ou la guerre

responsables de la désertification de la zone de Cát Tiên avant 1650. C’est la suggestion faite par l’ethnologue vietnamien Mạc Đường. Cette hypothèse est assez convainçante lorsqu’on sait que Georges Coedès a eu l’occasion de décrire la dangérosité de la zone du sud de Chenla:

Le Midi renferme de grands marécages, avec un climat si chaud que jamais on ne voit ni neige ni gelée blanche; le sol y engendre des exhalaisons pestilentielles et fourmille d’insectes venimeux.

dans son livre intitulé « Les états hindouisés d’Indochine ».

Il est possible que la zone de Cát Tiên se désertifie à cause de la guerre. Si on se rapporte à l’histoire de l’Indochine, on s’aperçoit que le royaume Khmer était en proie à un long conflit avec le Champa de 1145 jusqu’à 1220. La zone de Cát Tiên pourrait devenir ainsi une DMZ (zone démilitarisée) délaissée par les parties khmère et chame.


Références bibliographiques:

(*) Đi tìm vương quốc Phù Nam. Hà Văn Tấn. Báo Lao Động ngày 21/05/1996. Số 61/96

Exchange at the Upstream and Downstream Endo: Notes toward a functionam model of the coastal state in Southeast Asia. Bennet Bronson Editor K.L. Hutterer, 1977

Trésors d’art du Vietnam. La sculpture du Champa. Vè-XVè siècles. Guimet Musée national des arts asiatiques. 2005

Cát Tiên Mê Cung của Thần Linh. Đinh Thị Nga,2007, Editeur Nhà Xuất Bản Trẻ.

Việc mãi nô dưới vòm trời Đông Phố và chủ đất thật của vùng Đồng Nai. Bình Nguyên Lộc

Văn hóa Óc Eo, một nền văn hóa cổ ở Nam Bộ. Nguyễn Thị Hậu.

Ethnic Minorities in Vietnam. Đặng Nghiêm Vạn-Chu Thái Sơn-Lưu Hùng Thế Giới Publishers 2010

Thời đại của Phù Nam. Từ thế kỷ 1 đến thế kỷ thứ 6. Lynda Nora Schaffer. The time of Funan. 1996 Ngô Bắc dịch. pp 18-36

Cát Tiên sanctuaire

cat_tien_site

Première partie

Entouré par les derniers monts du sud de la cordillère annamitique (Nam Trường Sơn), ce santuaire Cát Tiên comporte un grand nombre de vestiges architecturaux éparpillés le long de la rive gauche du fleuve Đồng Nai sur une quinzaine de kilomètres dans un bassin constitué de collines et de terrains alluviaux qui le protègent des regards extérieurs. Depuis longtemps, la population locale est habituée à ramasser les petites reliques, les statues en pierre, les lingas, les morceaux de tessons et les débris des briques sans connaître leur origine. C’est par hasard lors d’une campagne effectuée par les archéologues vietnamiens du musée Lâm Đồng sur une enquête ethnologique que ce site religieux fut découvert en 1985. Cela les abasourdit devant l’ampleur de leur découverte. Outre les 256 sculptures en or évoquant les divinités du panthéon hindou ou les scènes relatant la vie spirituelle et religieuse de la communauté dans l’histoire du sud des Hauts Plateaux ( Nam Tây Nguyên ), ils trouvèrent lors de 8 fouilles archéologiques effectuées de 1994 jusqu’à 2006, un colossal lingam en quartz, symbole phallique du dieu Shiva, haut de 2,1 m et pesant d’environ 3,5kg sans compter les 1140 objets d’une valeur inestimable. Selon les archéologues vietnamiens, ce colossal lingam serait le plus important du genre trouvé en Asie du Sud Est. Parmi les objets exhumés, on peut citer les jarres, chandelles, figurines, statues etc .. Tous sont soit en métaux précieux (or, argent ou cuivre ) soit en métaux rares ( quartz, jaspe etc..). Même un objet jusque-là introuvable ailleurs fait partie du lot de trouvailles archéologiques. C’est une boîte en argent de forme ovale dont le couvercle est orné d’un lion couché et entouré de motifs décoratifs. On s’intérroge sur son origine. Selon certains experts, il pourrait provenir de l’Asie centrale ( Trung Á) à l’époque de l’empire des Kusana. ( Đế Quốc Qúy Sương)

Le nombre élevé de lingams exhumés conduit les archéologues vietnamiens à avoir une idée précise sur le caractère religieux de ce site évoquant sans aucun doute le culte de la fertilité. Une structure métallique en acier (kosa) haute de 0,52m et de diamètre 0,25m a été découverte. Elle est en forme ovale et destinée à couvrir une colonne cylindrique de forme phallique en galet qui a été cachée profondément dans le piedestal en grès avec les trois autres kosas (étuis) en terre cuite. Cela ne met plus en doute le caractère sacré d’union du Yin et du Yang dans l’univers. On trouve dans cette représentation la totalité de l’être humain ainsi que le symbole de la vie, de la fertilité et de la procréation. C’est aussi pour la première fois qu’on découvre dans les vestiges archéologiques du Vietnam plusieurs objets originaux représentés par des boîtes en céramique sous la forme de linga et des petits lingas en or, en acier et en fer protégés par des étuis munis chacun d’un couvercle. L’abondance et la variété de ces lingas exhumés du site attestent certainement l’échange culturel et l’influence notable de l’art du Champa. Mais cela ne nous empêche pas de trouver néanmoins ses particularités propres et visibles à travers la finesse de ses traits ciselés dans la gravure et la rareté de ses modèles de linga.

Depuis l’aube des temps, à l’arrivée du printemps de chaque année où les plantes commençaient à renaître, les populations adeptes du brahmanisme avaient l’habitude d’aller en pèlerinage à des sites religieux durant un, deux ou trois mois pour demander à leurs dieux d’accorder non seulement une bonne saison de récolte mais aussi une meilleure année de reproduction pour leurs animaux. C’est aussi l’occasion pour elles de formuler auprès de ces divinités leurs désirs d’avoir plusieurs enfants. Durant la période des festivités religieuses, elles étaient autorisées à oublier les aléas de la vie durant les années précédentes et s’adonner aux cérémonies rituelles afin que leurs voeux fussent exaucés.

C’est aussi ce qu’on a vu dans la démarche empruntée habituellement par les peuples autochtones de la région Cát Tiên car on a découvert un chemin de pèlerinage dont ils se servaient durant la période des festivités pour rejoindre leur site religieux. Ils prenaient comme point de départ l’une des débarcadères du fleuve Đồng Nai située dans le tronçon de la commune Phú Mỹ.

Labyrinthe des divinités brahmaniques

Etant construit avec des briques anciennes très légères et moins solides que celles d’aujourd’hui (gạch cổ), ce chemin forestier raboteux ressemblant à une série d’escaliers longeant la pente, était aménagé et agrandi visiblement en plusieurs endroits servant d’aires de repos pour les pélerins. Selon l’archéologue vietnamien Lương Nguyên Minh, les pélerins devaient naviguer jusqu’à la débarcadère du fleuve Đồng Nai avant d’entamer la marche à pied pour atteindre le site Cát Tiên. De plus, on a découvert un somasutra (máng nước thiêng) d’une longueur de 5,76m et d’une largeur de 40cm. C’est l’un des conduits les plus importants trouvés jusqu’alors dans les régions d’influence indienne de l’Asie du Sud Est. Son rôle servait à évacuer vers l’extérieur les liquides sacrés provenant de l’arrosage effectué sur le linga lors des cérémonies rituelles. Ces liquides de libation récupérés sur la cuve à ablution étaient répandus ensuite sur les corps des adeptes dans le but de les bénir et exaucer leurs voeux.

Lire la suite (Tiếp theo)

 

Parc national Cát Tiên (Vườn quốc gia Cát Tiên)

English version
French version

Mặc dù vườn quốc gia Cát Tiên được  công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế  giới vào tháng mười một  năm 2001 bởi cơ  quan UNESCO và con  tê giác Java được chọn  làm biểu tượng  cho vườn, các cơ quan chức năng Việt Nam không  cứu được  con tê giác cuối cùng bị một kẻ săn trộm bắn chết vào năm 2010.  Điều này cho thấy việc bảo vệ công viên này rất  khẩn cấp. Đây là khu rừng đất thấp cuối cùng ở Việt Nam có được  sự đa dạng sinh học đáng chú ý. Sự mong manh của khu vườn nầy  phần lớn là do nạn phá rừng kịch liệt có liên quan đến việc sử dụng chất làm rụng lá hóa học (chất da cam) trong những năm chiến tranh và sự phát triển kinh tế mà Việt Nam cần có sau khi thống nhất đất nước. Được  tăng trưởng từ 48 triệu dân năm 1975 lên đến 96 triệu năm 2020, Việt Nam trở thành một trong những quốc gia đông dân nhất ở  Đông Nam Á.

Mặc dù  chính phủ cố gắng phục hồi  rừng nhưng  cũng  không đủ để cứu các rừng thiên nhiên, đặc biệt là vườn quốc gia Cát Tiên. Trước hết, lợi ích quốc gia không tạo được tiếng vang thuận lợi trong cộng đồng dân cư địa phương vì họ tiếp tục sử dụng gỗ rừng làm vật liệu xây dựng nhà cửa và làm giảm bớt  đi diện tích rừng bằng cách chuyển đổi những khu rừng nầy thành khu trồng cà phê và hạt điều, chưa kể đến sự suy thoái thông thường  thấy với việc đốt rừng làm rẫy của các đồng bào  thiểu số. Việc trồng lại rừng cũng không  ngăn chặn được  tổng diện tích rừng nguyên sinh nó giảm lần từ 3840 kilômét vuông xuống  còn 800 kilô mét vuông.

Ngoài ra, chúng ta hay thường  hủy  họai thiên nhiên vì chúng ta không biết rằng nó rất cần thiết cho cuộc sống và sức khỏe. Việc  giết một con bò tót sống gần đây ở Công viên Cát Tiên vào tháng 10 năm 2012 là một bằng chứng việc làm sai trái  của con người do sự nghèo đói và thiếu hiểu biết. Con người cần có thiên nhiên nhất là con người  chỉ là một phần nhỏ bé của thiên nhiên. Con người cần quan tâm sống hài hoà với thiên nhiên bởi vì nên biết rằng việc duy trì đa dạng sinh học là điều rất cần thiết cho loài người.

Theo nhà sinh vật học người Pháp Gilles Bœuf, 50% các phân tử hoạt động được sử dụng trong dược phẩm đến từ các sản phẩm tự nhiên hoặc thực vật. Rừng nhiệt đới Cát Tiên là một hệ sinh thái phức tạp mà sự cân bằng rất mong manh  vì có một khu định cư trong vườn này. Ngoài ra, dự án xây dựng hai đập thủy lực ở thượng nguồn hồ cá sấu trên sông Đồng Nai có thể làm phá vỡ sự cân bằng này và có ảnh hưởng đến toàn bộ hệ sinh thái vì thực vật và động vật phụ thuộc vào nhau. Sự đòi hỏi kiên định các không gian  sống và tài nguyên tạo thành một mối đe dọa ngày càng tăng và  một áp lực mạnh mẽ lên hệ thực và động vật của công viên. Rất khó để tìm ra được  sự cân bằng thích hợp cho môi trường và cho sự phát triển kinh tế.

Nhưng  rất cần có sự  quan tâm của chúng ta trong việc bảo vệ công viên Cát Tiên này vì nơi đây có hơn 1.610 loài thực vật, trong đó có 38 loài có tên trong Sách Đỏ, có  hơn 350 loài chim (làm tổ hoặc di cư), 120 loài bò sát và các động vật lưỡng cư, 105 động vật có vú. Chúng ta có thể  trích dẫn ví dụ như  con báo mây, con bò tót, con gấu đen, con công xanh, loài  rắn có con mắt hồng ngọc, vượn má vàng vân vân….

Nhãn hiệu bảo vệ mà cơ quan  UNESCO ban cấp không có xa lạ với sự  mong muốn duy trì mãi mãi công viên này và khu rừng nhiệt đới của nó  và khuyến khích chúng ta nên bảo tồn viên ngọc quý của thiên nhiên bằng mọi giá cho các thế hệ mai sau.

 

Vườn quốc gia Cát Tiên  

 

cat_tien_site2

Malgré l’effort de reconnaître le parc national Cát Tiên comme la réserve de biosphère en novembre 2001 par l’UNESCO et le choix du rhinocéros de Java comme emblème du parc, les autorités vietnamiennes ne réussissent pas à sauvegarder le rhinocéros dont le dernier spécimen a été abattu par un braconnier en 2010. Cela montre à tel point qu’il est urgent de protéger ce parc. Celui-ci est la dernière forêt de plaine du Vietnam où il y a une biodiversité remarquable. La fragilité de cette forêt est due en grande partie à la déforestation massive liée à l’emploi des défoliants chimiques (agent orange) utilisés durant les années de guerre et aux développements économiques dont le Vietnam a besoin après sa réunification. On est passé de 48 millions d’habitants en 1975 à 97 millions environ en 2020. Le Vietnam devient l’un des pays les plus peuplés en Asie du Sud Est.

Malgré l’effort gouvernemental engagé dans sa politique de reboisement, cela ne suffit pas de sauver les forêts naturelles du Vietnam, en particulier celle du parc national Cát Tiên. D’abord, l’intérêt national ne trouve pas un écho favorable dans la population locale car celle-ci continue à utiliser le bois de la forêt comme matériau de construction et à grignoter les zones forestières en les transformant en plantations de caféier et d’anacardier sans parler de la dégradation provoquée habituellement par l’agriculture itinérante sur brûlis pratiquée par les minorités ethniques. Puis le reboisement ne permet pas de stopper la superficie totale des forêts primaires qui est passée de 3840 km2 à 800km2 seulement. De plus, on est habitué à gâcher la nature car on ne sait pas que celle-ci est indispensable à la vie et à la santé.

Le fait de tuer récemment un gaur vivant dans le parc Cát Tiên en octobre de l’année 2012 témoigne de ce méfait humain dû en grande partie à la pauvreté et à l’ignorance. L’homme a besoin de cette nature dont il n’est qu’un fragment. Il a intérêt de vivre en symbiose avec elle car il faut savoir que le maintien de la biodiversité est capital pour l’espèce humaine. Selon le biologiste français Gilles Bœuf, 50% des molécules actives utilisées en pharmacie proviennent des produits naturels ou des plantes. La forêt tropicale de Cát Tiên est un écosystème complexe dont l’équilibre est très fragile du fait qu’une zone d’habitation se trouve dans ce parc. De plus, le projet de réalisation de deux barrages hydrauliques en amont du lac des crocodiles sur le fleuve de Đồng Nai pourrait rompre cet équilibre et atteindre l’écosystème tout entier car les plantes et les animaux dépendent les uns des autres.

La sollicitation constante des espaces vitaux et des ressources constitue une menace grandissante et une forte pression sur la faune et la flore du parc. Il est difficile de chercher un juste équilibre pour l’environnement et pour les développements économiques. Mais il est dans notre intérêt de protéger ce parc Cát Tiên car c’est ici qu’on recense plus de 1.610 espèces végétales dont 38 inscrites dans le Livre Rouge, plus de 350 espèces d’oiseaux (nicheuses ou migratrices), 120 de reptiles et d’amphibiens, 105 de mammifères. On peut citer par exemple la panthère nébuleuse, le gaur, l’ours à collier, le paon spicifère (ou paon vert), la vipère aux yeux de rubis, le gibbon à joues jaunes etc. Le label de protection octroyé par l’UNESCO n’est pas étranger à sa volonté de vouloir pérenniser ce parc et sa forêt tropicale et de nous inciter à préserver à tout prix le joyau de la nature pour les générations futures.

Version anglaise

In spite of the  governemental effort for recognizing the national park Cát Tiên as the Biosphere Reserve in november 2001 by UNESCO and choosing Javan rhino as emblem of the park, Vietnamese authorities are not successful  in protecting the rhino, the last specimen   of which has been slaughtered by an poacher in 2010.  It shows how urgent it is to protect this park.  The latter is the last lowland forest of Vietnam where one finds a remarkable biodiversity. The weakness of this forest is caused largely by the massive deforestation (agent orange) related to the use of chemical defoliants during the years of war and economic developments required since the reunification of Vietnam. We have gone from 48 millions inhabitants in 1975 to 90 millions in 2010. Vietnam becomes the one of the  most populous countries in Southeast Asia.

Despite the government effort used in his reforestation policy, that it is not enough to save natural forests of Vietnam, in particular that of Cát Tiên national park. Firstly,  the national interest does not receive a favourable echo with the local people because the latter continues to use wood from the  forest as a construction material and snacks forest areas by trasforming it in coffee and cashew  plantations without evoking the degradation caused usually by  the  itinerant slash and burn agriculture of ethnic minorities. The reboisement cannot be successful in stopping the reduction of  the total area of primary forests  (from 3840 km2 to 800 km2). Moreover, one is accustomed to ruine the nature because one does not known that is  essential for life and health. Recently,  killing a gaur living Cát Tiên park in October 2012 testifies to this human mischief  related largely to poverty and ignorance. Man needs this nature of which he is only a fragment.  He is interested to live in symbiosis with her because one must known that the conservation of biodiversity is crucial for the human race. According to French biologist Gilles Bœuf, 50% active molecules used in pharmacies are collected from natural products and plants.  The tropical forest Cát Tiên is a complex ecosystem, the balance of which is very fragile because one finds a living  area in this park. In addition,the proposed realization of two hydraulic dams just upstream of crocodiles lake on Đồng Nai River,  could break this balance and damage  the entire ecosystem because plants and animals   are dependent on one another. 

The constant solicitation of living spaces and resources constitutes a growing threat  and high pressure on wildlife and flora in the park. It is difficult to find a just balance for environment and economic developments. But it is in our interest to protect this park Cát Tiên because one identifies more 1610 plant species  38 of which  are registered in the Red Book,more than 350 species of birds (nesting or migratory species), 120 reptiles and amphibians, 105 mammals. One can mention for example the clouded leopard, the gaur, the black bear, the  green peacock, the viper with ruby eyes, the gibbon with yellow cheeks etc…. The label protection given by UNESCO is linked to its determination  to sustain this park and its tropical forest and encourages us to preserve at all costs the nature jewel for future generations.