Chuyến đi thú vị ở Hy Lạp (Voyage mémorable en Grèce)

 

Cuộc hành trình ở Hy Lạp.

Qua cuộc hành trình nầy mình mới nhận thấy cách phục vụ của người Hy Lạp ở khách sạn mình trú  cần nên nói đến, cần nên kể lại cho các bạn biết câu chuyện iphone của cháu Mi (hay Jérémy) , có thể đây  cũng gíúp mình có cái nhìn rõ về con người Hy Lạp, cũng đáng khen họ tự hào đất nước họ là cái nôi của văn hoá phương tây. Ở Paris cũng như ở Việt Nam chắc chắn là không được vậy dù ai cũng biết mình rất yêu thích Paris và Việt Nam.  Thứ hai vừa qua, tụi nầy trở về Paris sau một tuần viếng thăm xứ Hy Lạp. Nhờ khách sạn tụi nầy cư ngụ gọi giùm một taxi để đưa tụi nầy ra phi trường. Giá  taxi từ thành phố Athènes đến phi trường là 45 euros, đi một mình hay ba bốn người cũng cùng giá. Taxi đến đúng giờ phải có mặt ở phi trường 3 tiếng truớc để kiểm tra hành lý giấy tờ nên tụi nầy lấy taxi lúc 8 giờ sáng. Chưa đi  được 5 phút tài xế nói xe có vấn đề vì xe bị vỡ bánh. Anh tài xế mới hỏi tụi nầy có nên đợi hay lấy xe taxi khác mình nói nên kêu giùm một taxi khác. Anh taxi nói ok kêu cho tụi nầy một taxi khác. Bên nầy xe taxi dễ nhận ra vì xe được sơn màu vàng. Xe taxi ít lấy khách ở giữa  đường thành phố lắm. 10 phút sau có một taxi khác đến đưa tụi nầy ra phi trường, chú tài xế nầy cở  55 tuổi còn chú tài xế bị xe vỡ bánh cở chừng 35, 40  tuổi. Mình vừa cảm ơn em tài xế nầy và gữi lại cho em nầy 3 euros để uống café. Ra đến phi trường sau khi bước vào cổng phi trường cháu của mình Jérémy mà mình cứ gọi la Mi thốt lên là bõ quên trên taxi cái iphone pro max 13 của cháu thì mình ra cổng taxi đã đi rồi.  Cháu vì thức sớm quá nên lúc xem coi phim  ở trên xe taxi cháu ngủ gục khiến cái iphone nó rớt xuống  chổ để chân. Mặt cháu buồn so biết mất rồi. Mình mới bảo thôi về Paris ráng học thi cử đậu cao đi mình mua cái iphone tặng cho nó. Bao nhiêu hình ảnh manga tích trử trên icloud đều mất cả. Thấy vậy ba má của nó mới nói để tụi con phone cho khách sạnh mình ở báo mất iphone trên taxi nhưng không biết taxi nào đấy.  Lúc đó, mình cũng nghĩ đây là cách tìm kiếm cây kim trong bãi biển. Cũng hên ở phi trường có wifi nên mới liên lạc được với khách sạn. 10 phút sau thì được tin nhắn của khách sạn báo tin là họ sẽ lo chuyện và sẽ báo sau. Lúc gần lên máy bay thì họ cho hay là có tìm một iphone rớt trên taxi.  Khi về tới Orly Paris vào  lúc 15 giờ ngày thứ hai (24/7) thì có tin nhắn là iphone của Jérémy được giữ ở khách sạn. Chính mình cũng không ngờ là có thể như vậy chớ theo mình ở Paris hay ở VN thì sẽ mất rồi. Thầt là hi hữu nhất là ở khách sạn họ rất chu đáo liên lạc với DHL rồi gói lại iphone đàng hoàng để vào một hộp giày gởi về địa chỉ của nhà tụi nầy. Cuớc phí là (87 euros) nếu muốn giao tận tay và ký tên khi nhận (5 euros thêm)  nhưng rất nhanh lẹ. Tụi nầy nhận được iphone hôm qua thứ tư (26/7) lúc 3 giờ trưa. Mình muốn nói đây là cách phục vụ khách hàng, niềm tự hào của một dân tộc làm mình phải bái phục. Lúc nào rảnh mình sẽ kể lại chuyến tham quan của mình ở Lan Hạ (Vịnh Hạ Long) năm ngoái. Ngẫm nghĩ lại cách phục vụ ở VN còn kém lắm, chặt chém lắm rất tiếc họ không biết chỉ được một lần thôi khách du lịch đến nước mình chớ họ đâu biết đây là niềm tự hào của cả một dân tộc và người du khách không quay đầu trở lại nửa đấy.  

Mon voyage mémorable en Grèce.

A travers ce voyage, je me suis rendu compte qu’il faut parler du service de mon hôtel, raconter l’histoire du portable « iphone » de Mi (ou Jérémy).  Cela m’aide d’avoir une vision claire sur le  peuple grec. C’est également louable qu’ils soient fiers de leur pays en tant que berceau de la culture occidentale. A Paris comme au Vietnam, ce n’est certainement pas possible, même si tout le monde sait que j’ai un attachement profond envers le  Vietnam et la France. Lundi dernier, nous  étions rentrés à Paris après une semaine de visite en Grèce. Nous demandions  à l’hôtel où nous étions logés d’appeler un taxi pour nous emmener à l’aéroport. Le prix d’un taxi d’Athènes à l’aéroport était de 45 euros. Pour un  voyageur  tout  seul ou pour trois ou quatre personnes, le prix à payer  était le même. Le taxi devant être à l’heure, nous étions obligés  d’être à l’aéroport 3 heures à l’avance  pour enregistrer les bagages. C’était pour cela que nous avons donc pris un taxi à 8h du matin.

Après nous avoir emmenés moins de 5 minutes, le chauffeur de taxi nous signalait  que la voiture avait un problème   avec un pneu dégonflé. Le chauffeur nous a demandé si nous voulions  prendre un autre taxi.  Nous préférions prendre  un autre taxi  après son appel de contact avec un autre taxi. Le taxi était  facile à reconnaître car la voiture était toujours  peinte en jaune. Le taxi prend rarement les clients dans les rues de la ville. 10 minutes plus tard un autre taxi était venu pour nous emmener à l’aéroport.  Le  nouveau chauffeur a environ 55 ans tandis que celui dont la voiture a un  pneu dégonflé, a à peu près  35 ou 40 ans. J’ai remercié ce dernier en lui donnant 3 euros pour un café. Une fois arrivé à l’aéroport, après avoir franchi la porte de l’aéroport, mon neveu Jérémy s’aperçut qu’il avait oublié dans le taxi son iphone pro max 13 mais le taxi était déjà parti.  A cause du réveil matinal, Jérémy s’était endormi en  regardant un film  et en faisant tomber mon iphone sur l’emplacement  inférieur de la voiture. Son visage est tellement triste car il savait que c’était parti son téléphone. Pour le soulager, je lui disais qu’il devait réussir cette année le baccalauréat avec mention pour pouvoir avoir un autre iphone.  Toutes les images de manga stockées sur icloud sont perdues.  Ses parents tentaient  d’appeler l’hôtel où nous étions et lui signalaient que le portable  iPhone s’était égaré dans l’un de ces deux taxis, mais nous ne savions pas de quel taxi il s’agit.  Pour moi, je trouve qu’on  est en train chercher une aiguille au fond de la mer. Heureusement, comme il y avait  le wifi à l’aéroport, ils pouvaient contacter l’hôtel. 10 minutes plus tard, ils recevaient un SMS de l’hôtel indiquant qu’ils s’en occuperaient et le leur signaleraient plus tard. Juste au moment nous étions sur le point d’être embarqués dans l’avion, nous recevions le SMS de l’hôtel signalant la présence de cet iphone dans le dernier taxi.

Une fois arrivés à Paris-Orly  à 15h00 le lundi (24 juillet), nous avions un message disant que le portable  de Jérémy était remis et gardé  à l’hôtel. Moi-même, je ne m’attends pas à cela car au Vietnam ou à Paris, ce sera perdu. C’est rare de  trouver le gars de l’hôtel tellement serviable en faisant le nécessaire pour l’envoi et en contactant le DHL. Le coût d’envoi  est de (87 euros) si on souhaite  une remise en main propre et une  signature à la réception (5 euros en plus) mais il faut reconnaître que le service DHL est très rapide. Le 26 Juillet à trois heures de l’après-midi (hier), Jérémy retrouve son téléphone. Je suis impressionné par la gentillesse et le service que l’hôtel grec nous a donnés. Cela me donne non seulement la satisfaction mais aussi l’accueil mémorable des Grecs. Quand j’ai du temps libre, je vais vous raconter notre voyage à Lan Hạ (Baie d’Along).  En replongeant dans ce voyage de l’année dernière, le service nous est fourni  par un opérateur et une agence vietnamienne  n’est pas à la hauteur de  notre attente. Ces derniers peuvent abuser de la publicité mensongère en  une seule fois mais ils ne savent pas qu’ils représentent la fierté d’un peuple et la manière de servir les touristes étrangers qui ne sont plus de retour au Vietnam. C’est dommage pour mon pays natal.

Premier jour d’Athènes , vieux quartier Plaka (Ngày đầu ở thủ đô Athènes, phố cổ Plaka)

Version française

Đến Athènes vào buổi trưa, sau khi ăn cơm, tụi nầy có dịp tham quan khu phố cổ Plaka nằm dưới ngòn đồi Acropolis. Nơi nầy  rất nhộn nhip và có rất nhiều đường phố đi bộ mua sắm và ăn uống. Khu Plaka được giới hạn một cách đại khái với khu vực Makrigianni ở phía nam, đền thờ thần Zeus Olympic (đang sùng tu lại) và vòng cung Hadrian ở phía đông, khu vực Syntagma và Ermou ở phía bắc và Monastiraki ở phía tây. Nơi nầy có nhà  thờ chính thống công giáo của Athènes rất trang nghiêm và xinh đẹp.

Công trình xây dựng nhà thờ được  bắt đầu vào ngày 25 tháng 12 năm 1842 và chính Vua Otho I và Nữ hoàng Amélie của nước Hy Lạp đã đặt viên đá đầu tiên. Trong quá trình xây dựng, đá cẩm thạch của bảy mươi hai nhà thờ bị phá hủy đã được sử dụng để xây dựng những bức tường hoành tráng của nhà thờ. Cần đến ba kiến ​​trúc sư và hai mươi năm để hoàn thành nó. Cuối cùng, vào ngày 21 tháng 5 năm 1862, nhà thờ được Vua Othon và hoàng hậu cung hiến cho Lễ Truyền tin.

Version française

PREMIER  JOUR D’ATHÈNES.

En arrivant à la capitale Athènes dans l’après-midi, nous avons l’occasion de visiter l’ancien quartier Plaka situé au pied de la colline d’Acropolis.  Ce lieu est très animé et a beaucoup de rues piétonnes remplies de boutiques et de restaurants. Le quartier Plaka est délimité d’une manière générale par la zone  Makrigianni au sud, le temple Zeus  (en cours de rénovation)  et l’arc d’Hadrien à l’est, la zone Syntagma et  Ermou au nord et Monastiraki à l’ouest . C’est ici qu’on trouve  l’église orthodoxe cathédrale d’Athènes

La construction de la cathédrale commence le 25 décembre 1842 et ce sont le roi Othon Ier et la reine Amélie de Grèce qui en posent la première pierre. Lors des travaux, on utilise le marbre de soixante-douze églises démolies pour édifier les murs immenses du bâtiment. Trois architectes et vingt années sont nécessaires pour l’achever. Enfin, le 21 mai 1862, la cathédrale est dédiée à l’Annonciation par le roi Othon et son épouse.

Grèce, voyage mémorable

 

Chuyến đi thật thú vị

              Bảo tàng khảo cổ quốc gia Athènes. (Musée national archéologique d’Athènes)                                    

              Thành phố Théra (Capitale Théra de l’île  Santorin)
          Làng Oia  (Village Oia)
             Làng biển Perissa (Village balnéaire Périssa)

 

Mon voyage mémorable en Grèce

À savoir.
Hôtel recommandéAthens Psiri Hotel
32 Sofokleous str., Athens, Greece
+30 210 52 34 329
info@athenspsirihotel.com
www. athenspsirihotel.com

 

Anh Cả anh Hai

 

Tại sao ở trong Nam thay vì gọi anh Cả như ở miền Bắc  lại gọi anh Hai?

Version française

Có lần mình đi tham quan theo tour ở miền nam, có dịp nghe anh hướng dẫn kể cho tụi nầy về việc nầy. Theo chú nầy thì trong cuộc  hành trình Nam tiến của dân tộc ta thì người con cả phải ở lại cùng mẹ lo cho gia đình còn cha thì đi vào Nam một mình. Khi vào Nam một mình xa quê nhà hay thường lấy vợ thứ nên thường có con. Thì đứa con nầy thường được gọi là chị HAI hay anh HAI theo cấp bậc trong gia đình đông con  vì con đầu lòng đã có rồi ở ngoài Bắc.  Còn có một giả thuyết khác như sau: dưới triều nhà Nguyễn hay có thói quen kiêng gọi tên cúng cơm c ủa vua nên chẳng hạn ĐẢM  trở thành ĐỞM vì là Đảm là tên của  Nguyễn Phúc Đảm (vua Minh Mạng) (can Đảm trở  thành can đởm). Vua Minh Mạng có vợ tên là Hồ Thị Hoa, mẹ của vua Thiệu Trị nên cái cầu mà Tả quân Lê văn Duyệt xây cất ở gần một vườn hoa xinh đẹp ở Bến Nghé (Quận 1 ngày nay) được gọi lúc đầu là cầu HOA sau phải lấy tên là BÔNG. Vậy chữ Cả thì sao? Theo dã  sử có người cho rằng Cả bị kiêng cữ  vì  chỉ người con cả của vua Gia Long (hoàng tử  Cảnh) nên phải dùng chữ khác. Thật là vô lý vì  Hương  Cả  là chức đứng đầu trong làng ở Nam Bộ mà  vẫn thường  nghe dân gọi và vẫn dùng dưới thời Pháp thuộc. Như  vậy là không đúng. Chúng ta nên nhớ  lại người Việt ta thuộc ngữ Nam Á. Ngoài người Việt  còn  có rất nhiều dân tộc khác mà nay ta gọi là đồng bào thiểu số như Tai-Kadai, Nam Đảo, Mường, Hmông, Chàm  vân vân). Vì thế có sự vay mượn các  từ ở  trong ng ôn ngữ  của các bộ tộc thuộc về ngữ hệ Nam Á hay Nam Đảo. Ở Nam Bộ trước đây là lãnh thổ của nước Phù Nam mà người nước nầy giờ đây biết rõ không phải là người Cao Miên mà là người Nam Đảo cũng như người Chàm, người Mạ dù biết rằng nước Phù Nam bị nước Chân Lạp (Cao Miên)  thôn tính. Nhưng vì đất quá rộng nên chổ nào mà người Khơ Me chiếm ở thì người Phù Nam trở thành người Khơ Me vì  bị  đồng hóa còn chổ nào không bị chiếm như  ở Nam Bộ  thì họ vẫn là người Phù Nam thuộc về chủng Nam Đảo.  Từ sự gần gũi của chủng Nam Á  với  chủng Nam Đảo đã có cả nghìn năm theo các tài liệu nghiên cứu di truyền từ 20 năm g ần đây nên chuyện mượn từ HAK của người Phù Nam của chủng Nam Đảo ở  Nam Bộ  rất bình thường để chỉ con cái. Theo nhà văn Bình Nguyên Lộc, con CẢ mà người Phù Nam gọi là con HAK.  Như vây anh HAI, chị HAI là từ anh HAK, chị HAK của người  Phù Nam. Bởi vậy ở miền nam hay thường thấy người Việt nào có tóc dợn sóng đó là người có gốc Phù Nam còn người Việt không bao giờ  có tóc  dợn sóng cả  vì chúng  ta có  lai Mông Cổ  thuộc chủng Mông Cổ Phương Nam nên tóc rất thẳng.  

Version française

Pourquoi dans le Sud Vietnam au lieu d’appeler « Frère aîné  (Cả)» comme au Nord, on l’appelle « Frère Hai » ?

Une fois, alors que je  faisais une visite dans le Sud Vietnam, j’avais l’occasion d’écouter le guide  du car nous en parler. Selon lui,  lors de la marche de notre peuple vers le Sud, le fils aîné doit rester auprès de sa mère pour subvenir aux besoins de la famille tandis que son père engagé dans l’armée se rend tout seul dans le Sud. Loin de sa famille et de sa terre natale, il a l’habitude de prendre une seconde épouse et d’avoir un autre enfant. Celui-ci  sera appelé « sœur Hai » ou « frère Hai » car cela correspond au rang « DEUX » dans la famille composée de plusieurs enfants. Il existe une autre hypothèse comme suit:

Sous la dynastie des  Nguyễn, il y a une tradition de s’abstenir de toute action faisant référence au prénom du roi ou de ses proches. C’est pour cela que le mot ĐẢM est remplacé par le mot ĐỞM car ĐẢM est le prénom de Nguyễn Phúc Đảm (Roi Minh Mang) (can đảm signifiant courage est transformé en can đỏm). Le roi Minh Mang avait une épouse nommée Hồ Thị Hoa, mère du roi Thiệu Trị.  Le vice-roi Lê Văn Duyệt a construit près d’un magnifique jardin à Bến Nghé (premier arrondissement de Hồ Chí Minh Ville d’aujourd’hui) un pont portant à son début  le nom « pont fleuri  (cầu  HOA)» devenu plus tard « cầu BÔNG ». Selon l’on dit, le mot Cả n’est pas employé car il fait allusion au fils aîné du roi Gia Long (Prince Cảnh). C’est absurde car « Hương Cả » est le titre octroyé au premier personnage du village dans le Sud Vietnam, souvent entendu par la population et utilisé encore à l’époque coloniale française. C’est absurde car on ne fait jamais attention au rang ou au titre accordé.

On doit rappeler  que les Vietnamiens font partie du groupe austro-asiatique. Outre les Vietnamiens, il y a de nombreuses autres ethnies que l’on appelle désormais  des minorités ethniques telles que les Tai-Kadai, les Austronésiens, les Mường, les Hmong, les Cham etc.). Par conséquent, il y a toujours l’emprunt réciproque des mots dans le vocabulaire employé par ces ethnies. Au Sud Vietnam, jadis c’était le  territoire du royaume de Founan dont les habitants n’étaient pas les Khmers mais les Austronésiens comme les Cham et les Mạ dans la région Đồng Nai malgré l’annexion de ce royaume plus tard par le Chenla devenu plus tard l’empire angkorien  des Khmers. Comme leur  territoire était trop vaste, les Khmers n’arrivaient pas à  assumer leur présence partout. C’est pour cela que les Founanais  ne devenaient que les Khmers dans les endroits où le contact était possible grâce à la politique d’assimilation. Par contre dans d’autres endroits les Founanais continuaient à vivre comme avant.  

Étant donnée la proximité incontestable des groupes austro-asiatiques et austronésiens prouvée depuis des milliers d’années par les documents des travaux de  recherche génétique il y a  récemment une vingtaine d’années, l’emprunt du mot  HAK des Founanais appartenant au groupe austronésien  dans le Sud Vietnam par les Vietnamiens est très normal pour désigner les enfants.

Selon l’écrivain vietnamien Bình Nguyên Lộc, le fils aîné est appelé toujours sous le nom « Fils HAK »par les Founanais. Alors « sœur HAI » ou « frère HAI » employés par les Vietnamiens dans le Sud Vietnam  proviennent évidemment des  Founanais. C’est pourquoi dans le Sud Vietnam lorsqu’on rencontre un Vietnamien ayant des cheveux ondulés, on peut déduire qu’il est d’origine founanaise comme les Mạ dans la région Đồng Nai. Un pur Vietnamien n’a jamais les cheveux ondulés mais il a par contre les cheveux droits  car il  fait partie du groupe mongoloïde du Sud.

 

Jardin des plantes ( Vườn bách thảo Paris)

Jardin des plantes (Vườn bách thảo Paris)

Créé au 17ème  siècle par le roi  Louis XIII à la sollicitation de Jean Herouard, son premier médecin et de Guy de La Brosse, son médecin ordinaire, le Jardin des Plantes,  est d’abord le jardin du roi. Il devient aujourd’hui un endroit magnifique au cœur de Paris.  Il se  démarque des autres jardins de la capitale par la grande  variété de plantes et d’arbres du monde entier proposés gratuitement aux visiteurs. On y trouve   différents musées à thèmes ayant pour but de diffuser la culture scientifique naturaliste comme la Grande Galerie de l’Évolution, le musée de la Paléontologie, la Galerie de minéralogie etc. De plus il y a la roseraie et le jardin zoologique réservé aux enfants.

Được thành lập vào thế kỷ 17 bởi vua Louis XIII theo sự yêu cầu của Jean Herouard, bác sĩ đầu tiên của ngài và Guy de La Brosse, bác sĩ  thường xuyên, vườn bách thảo trước hết là vườn của nhà vua. Giờ đây nó trở thành một địa điểm tráng lệ ở giữa lòng thủ đô Paris. Nó được nổi bật so với các khu vườn khác ở thủ đô nhờ  có nhiều loại thực vật và cây cối  đến từ khắp nơi trên thế giới và được cung cấp miễn phí cho du khách. Có nhiều bảo tàng theo chủ đề khác nhau nhằm phổ biến văn hóa khoa học tự nhiên như phòng trưng bày về sự tiến hóa, bảo tàng cổ sinh vật học, phòng trưng bày Khoáng vật học vân vân… Còn có luôn  vườn hồng và sở thú  dành cho trẻ em.

Galerie des photos

JARDIN DES PLANTES

Petite Andalousie au cœur de Paris

 

 

Tiểu Andalusia ở giữa lòng Paris

Bà Triệu (225 – 248 SCN)

Triệu Ẩu

Version française

Sau khi đế chế nhà Hán bị sụp đổ thì sau đó là thời kỳ Tam Quốc với ba nhân vật ai cũng được biết đó là Tào tháo, Lưu bị và Tôn Quyền. Trong thời kỳ nầy nước ta vẫn bị đô hộ bởi nước Ngô của Tôn Quyền. Đây cũng thời kỳ cũng có các vụ nổi loạn chống Tàu dành độc lập trong đó có một nữ anh hùng không thua chi hai bà Trưng thường được gọi bà Triệu (hay là Triệu thị Trinh). Từ thưở nhỏ, bà có chí khí hơn người và  giỏi võ nghệ.  Mùa xuân năm Mậu Thìn (248), thấy quan lại nhà Đông Ngô  tàn ác, dân khổ sở, bà  chiêu mộ được hơn một ngàn tráng sĩ cùng anh khởi binh chống lại quân Đông Ngô. Vua Ngô Tôn Quyền liền phái tướng Lục Dận, cháu của Lục Tốn sang làm thứ sử Giao Châu cùng 8000 quân đàn áp cuộc khởi nghĩa. Sau 6 tháng chống chọi, bà vì quân ít thế cô đành chạy về xã Bồ Điền vùng Thanh Hóa và tự tử lúc mới có 23 tuổi. Vua Nam đế  nhà Tiền Lý khen bà là người trung dũng lập miếu thờ bà. Đến nay chuyện Bà Triệu từ thế kỷ thứ II vẫn còn hằng in trong tâm thức mỗi người dân Việt với lòng ngưỡng mộ và niềm tự hào.

Đất Giao Châu đời bấy giờ cứ bị loạn lạc mãi, một phần do bị các quan lại từ nhà Ngô sang nhà Lương của thời kỳ Nam Bắc triều ở Trung Quốc  tham tàn vơ vét của dân một phần bị nước Lâm Ấp quấy nhiễu đánh phá không ngừng. Nước nầy được thành lập vào cuối đời nhà Hán  nhờ một cuộc nổi dậy ở huyện Tượng  Lâm vào năm 190 SCN do một người tự xưng là Khu Liên. Ông nầy giết thứ sử  Tàu Chu Phủ và nắm quyền tự trị trên một phần lãnh thổ cực nam của quận Nhật Nam. Nước Lâm Ấp được gọi sau nầy là Chiêm Thành bao gồm từ Quảng Bình cho đến lãnh thổ miền nam của núi Bạch Mã.

Người Lâm Ấp thuộc nòi giống Mã Lai và chịu nhiều ảnh hưởng Ấn Độ hơn Trung Quốc khiến về sau văn hóa nước nầy là văn hóa Ấn Độ, chữ Phạn là chữ họ dùng để trao đổi quốc thư với Trung Quốc.  Chính nhờ các thương nhân và các tu sĩ Ấn Độ mà người Lâm Ấp giao tiếp khiến các tôn giáo như Ấn Độ giáo và Phật giáo mới được truyền bá qua xứ nầy. Cũng nhờ đó mà Phật giáo mới du nhập vào Chiêm Thành qua đường biển rồi sau đó mới đến Giao Châu (Việtnam) qua đường bộ từ Lâm Ấp, chớ không phải đến từ Trung Hoa như c ác văn bản Trung Hoa thường  khẳng định. Bởi vậy mẹ của Tôn Quyền lúc còn sống thường mời các tu sĩ ở Luy Lâu (Bắc Ninh, Vietnam) đến thủ đô Kiến Nghiệp (Jiany) của nước Ngô, thuộc về thành phố Nam Kinh (Nankin) hiện nay, để nghe giảng kinh và bình luận về các sách kinh lễ Ấn Độ (sutra) của Phật giáo. Nước Giao Châu phải đợi cho đến cuối năm 541 mới có cuộc nổi dậy của  Lý Bí. Ông dành lại độc lập cho nước ta được 60 năm và đặt tên nước là Vạn xuân sau khi đánh bại nhà Lương  đang đô hộ nước ta.  Ông tự xưng là Nam Đế và đóng đô  ở Long Biên.

Dame  Triệu (225 – 248 après J.C.)

Après la chute de l’empire des Han, c’est la période des Trois Royaumes avec trois personnages bien connus  Cao Cao, Liu Be et Sun Quan. Durant cette période, notre pays était sous la domination du royaume Wu de Sun Quan. C’est aussi la période où il y avait des rébellions anti- chinoises réclamant l’indépendance parmi lesquelles  figurait une héroïne analogue aux sœurs Trưng et connue souvent sous le nom  Triệu Thi Trinh ou Dame Triệu. Dès son plus jeune âge, elle  ne manquait pas de caractère et était très douée en arts martiaux. Au printemps de l’année du dragon (248 après J.C.), en voyant la cruauté des  fonctionnaires de l’état Wu et la misère de ses compatriotes, elle n’hésita pas à recruter plus d’un millier de braves gens avec son frère pour déclencher une guerre  de libération contre l’armée des Wu. Le roi Wu Sun Quan  fut obligé d’envoyer immédiatement à Giao Châu le général Lu Dan, un neveu de  Lu Xun (Lục Tốn) pour réprimer le soulèvement  avec 8 000 soldats. Après 6 mois de combats, elle ne put plus tenir la résistance contre les agresseurs. Elle dut se réfugier à la commune Bồ Điền de la province Thanh Hóa à cause du manque d’appui et de partisans. Elle se suicida  à l’âge de 23 ans. Le roi  Lý Nam Đế  de la dynastie des Lý antérieurs l’a félicitée pour son courage et sa fidélité en construisant un temple dédié à sa mémoire. Jusqu’à présent, l’histoire de  Dame Triệu du IIème siècle est toujours imprégnée d’admiration et de fierté dans l’esprit de tous les Vietnamiens.

Giao Châu (l’ancien pays des Vietnamiens)  ne cessa pas  de connaître non seulement à cette époque la misère et la corruption des fonctionnaires nommés d’abord par le royaume des Wu (nhà Ngô) puis celui des Leang (nhà Lương) durant la période  dynasties du Nord et du Sud (420-580 après J.C.) en Chine mais aussi les troubles frontaliers provoqués incessamment par le royaume Lin Yi.  Ce pays limitrophe  prit naissance à la fin de la dynastie des Han grâce à un soulèvement mené dans le district de Tượng Lâm en 190 après J.C. par un brave nommé Khu Liên. Celui-ci a tué le gouverneur chinois Chu Phu et s’est  autoproclamé roi  sur une partie du territoire située le plus au sud du district de Nhật Nam. Le pays Linyi connu plus tard sous le nom de Chămpa  est constitué en fait  de la région Quảng Bình jusqu’au territoire sud de la montagne Bạch Mã.

Les habitants de Linyi étaient de la race malaise et se laissaient influencer par la culture indienne plus que   celle de la Chine. Ils adoptaient dès lors  la culture indienne comme la leur et se servaient plus tard  du sanskrit dans l’échange des lettres avec la Chine. C’est par l’intermédiaire des commerçants  et des moines indiens avec lesquels le peuple du Linyi  était en contact que l’hindouisme et le bouddhisme pouvaient s’implanter dans ce pays. Le bouddhisme a été introduit au Chămpa  par la voie maritime, puis il s’est  implanté ensuite à Giao Châu (Vietnam) par la voie terrestre prise à partir du Chămpa.

 En aucun cas, le bouddhisme vietnamien ne s’est pas  passé  par la Chine comme certains documents chinois l’ont prétendu. C’est pourquoi la mère de Sun Quan, une disciple fervente du bouddhisme eut l’occasion de  faire venir à cette époque les moines de Luy Lâu (Bắc Ninh)  à la capitale Jianye (Kiến Nghiệp) du royaume de Wu,  proche de la ville actuelle de Nankin pour leur demander de prêcher et commenter les sûtras du bouddhisme. Giao Châu dut attendre à la fin de l’année  541 pour  que l’insurrection menée par Lý Bí eût lieu. Il réussît à battre les Leang pour obtenir l’indépendance durant une soixantaine d’années,  donna à son royaume un nom prometteur de pérennité « Vạn Xuân » (ou  Dix Mille printemps).  Il se proclama  Nam Đế (Empereur du Sud) et  s’installa à Long Biên.  

 

Rùa (Qui)

Rùa (Qui)

Version française

Trong kho tàng thần thoại Việt Nam, chúng ta thường thấy thần hay biến hoá thành rùa. Loại vật sống nầy rất hiếm  ở đất nước ta nhất là rùa có mai mềm ở sông Hồng và được xem coi là một linh vật trong tứ linh (Long, Li, Qui, Phụng). So với ba con vật kia, rùa là con vật duy nhất có thật  trong tự nhiên. Vã lại, nó có tuổi thọ rất  cao và có thể sống trong một thời gian dài không cần thức ăn nên được tượng trưng cho cuộc sống thanh tao thoát tục và thể hiện được sự trường thọ vĩnh cửu. Trong lĩnh vực tâm linh thì rùa được xem là một loại động vật hội tụ trời và đất hay là Âm và Dương. Bụng thì bằng phẳng  nên tượng trưng cho mặt đất (Âm)  còn phần gù (hay mai) của nó thì cho vòm trời (Dương). Nó thường được dân ta xem là một loại vật thiêng biết tiên tri và được thần thánh hóa trong tâm trí của người dân Việt. Dân tộc ta là một trong những dân tộc sống gần sông biển ở vùng Đông Nam Á và phiá nam sông Dương Tử. Bởi vậy  theo sự nhận xét của nhà khảo cứu Pháp Jean Przyluski thì trong các truyền thuyết của các dân tộc nầy thì thường thấy được các loại vật hiển linh của miền sông nước giúp đỡ các vua chúa chống giặc ngọai xâm hay dựng nước mà trong đó có rùa, rồng, rắn hay cá. Ngược lại không có ở trong các truyền thuyết của các dân tộc sống ở lục đia như Trung Hoa và Ấn Độ những loại vật hiển linh nầy.  Bởi vậy rùa thần đã hai ba lần xuất hiện trong truyền thuyết của dân tộc ta. Lần đầu rùa được ghi chép lại trong sách Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp, một tập sách viết bằng chữ Hán thu thập lại những chuyện kỳ lạ ở nước ta, có lẽ có từ đời nhà Trần.

 Sau khi Thục Phán diệt được nước Văn Lang của Hùng Vương, Thục Phán lấy tên là  An Dương Vương và đổi tên nước thành Âu Lạc và xây thành ở đất Việt Thường. Nhưng vua  không thành công trong dự án vì thành nầy đã nhiều lần bị băng lở. Một hôm trên mặt biển hiện lên một  con rùa vàng tự xưng sứ Thanh Giang , nói sõi tiếng người  và biết về tương lai. Nhờ sự giúp đỡ của rùa nên vua xây  thành xong  trong nửa tháng sau khi  Thanh Giang bày kế giết được con yêu quái Bạch Kê Tinh (một con gà trống  tu luyện được nghìn năm thành tinh). Thành nầy rộng hơn ngàn trượng xoán như hình trôn ốc nên được gọi là Loa Thành. Trước khi từ biệt vua thì rùa thần có dặn vua rằng xã tắc an nguy đều do mệnh trời nhưng nếu vua có thể tu đức thì kéo dài được thời vận. Sau đó còn tặng cho vua một cái vuốt để làm lẫy nỏ và để giử thành rồi trở về sông. Nhờ có nỏ thần nầy mà An Dương Vương giử được thành lúc tướng Triệu Đà cử binh sang đánh. Nhưng sau đó bị trúng kế của Triệu Đà mà An Dương Vương mới mất nước về sau khi gả nàng công chúa Mỵ Châu cho Trọng Thủy, con của Triệu Đà.

Rùa vàng còn giúp vua Lý Thái Tông khôi phục lại ngai vàng sau khi Lý Thái Tổ qua đời. Lý Thái Tông lên ngôi nhưng  chưa được bao lâu phải bỏ kinh thành phải ẩn trốn trong một hang động ở Tuyên Quang vì các em của ngài làm phản và tranh giành cướp ngôi (loạn Tam Vương). Rùa vàng hiện lên trong giấc mơ cho ngài biết sẽ giúp ngài lấy lại được ngôi vua. Bởi vậy  sau khi  dẹp loạn và nhớ đến công ơn của rùa nên vua phong cho rùa tước hiệu là Minh Phúc Đại Vương. Cho đến ngày nay còn thấy có miếu thờ rùa vàng tại làng Nghiêm Sơn ở tỉnh Tuyên Quang.

Rùa vàng còn được nhắc đến thời giặc Minh xâm chiếm nước ta ở đầu thế kỷ 15. Một người tên là Lê Thận có một hôm chài được một thanh gươm và rồi đem tặng thanh gươm nầy cho Lê Lợi sau khi ông theo Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa chống giặc Minh cùng Nguyễn Trãi. Sau khi đuổi được giặc Minh, một hôm vua Lê Lợi cưỡi thuyền rồng đi dạo quanh hồ Tả Vọng (nay là Hồ gươm ở Hà Nội) thì tự nhiên giữa hồ nhô lên khỏi mặt nước một con rùa to lớn. Vua thấy lạ nên truyền lệnh cho thuyền đi chậm lại. Rùa không chút chi sợ sệt cả  mà ngóng cổ nói: Bê hạ hoàn gươm lại cho ta để ta đem về cho Long quân.  Chính Long quân giúp ngài  ổn định lấy lại được đất nước. Vua vừa rút thanh gươm ra thì nhanh như chớp rùa hé miệng đớp lấy ngang lưỡi gươm. Rồi rùa lặn xuống nước biến mất. Rùa được xem là cận thần của Lạc Long Quân, người cha của dân tộc Việt trong các truyền thuyết và có nhiệm vụ giúp đỡ luôn luôn các  con cháu Việt tộc.  Từ đó hồ nầy được lấy tên là Hồ Hoàn Kiếm.  

Trong tín ngưỡng dân gian, thường thấy có cặp hạc hay cặp phụng  đứng trên lưng mai rùa ở hai bên cạnh án hương trong các chùa và các đình. Đây là  một cặp biểu tượng cho sự điều hoà Âm Dương. Còn ở Văn Miếu thì có 82  tượng rùa đội bia tiến sĩ trên lưng. Đây là  thể hiện sự trường tồn vì các tên của tiến sĩ được ghi danh từ đời nầy qua đời khác  theo thời gian  mà  còn biểu tựợng cho sức mạnh mà họ có vì họ là hiền tài,  là nguyên khí của quốc gia. Không vua nào không xây dựng chăm lo hiền tài vì khi nguyên khí mạnh thì quốc gia mới được  thịnh vượng. Còn nguyên khí suy thì nước sẽ yếu.

Rùa được xem là loại động vật rất linh ứng nên người Việt cho rằng rùa thường  mang lại sự may mắn cho ai gặp được. Họ hay thường gọi rùa bằng “cụ” và thương hại bản thân của cụ qua câu ca dao như sau:

Thương thay cái kiếp con rùa
Lên đình đội hạc, xuống đình đội bia.

Hiện nay giống rùa khổng lồ nầy được  liệt kê như  cấp cực kỳ nguy cấp trong sách đỏ IUCN từ năm2006 và được biết với cái tên khoa học là Rafetus swinhoei. Đây là loại rùa mai mềm sống ở sông Dương Tử hay ở sông Hồng. Sau khi cụ rùa ở Hồ Gươm qua đời thì trên thế giới hiện nay còn lại ba cá thể, một con đực già sống ở Trung Quốc và ở Việt Nam  một cá thể cái của loài này ở hồ Đồng Mô (Ba Vì) và một cá thể nữa ở hồ Xuân Khanh (Sơn Tây) gần đó. Hy vọng có  cơ hội ghép đôi sinh sản theo cơ quan chức năng bảo tồn nếu cá thể ở hồ Xuân Khanh là con đực còn không thì loại nầy sẽ bị tuyệt chủng trong tương lai.

Galerie des photos

TORTUE

La tortue géante à carapace molle

 Dans le trésor de la mythologie vietnamienne, on voit souvent le dieu de la mer se transformer en tortue marine. Cette espèce aquatique géante  est rare dans notre pays, en particulier la tortue à carapace molle du fleuve Rouge (sông Hồng) et elle  fait partie des quatre animaux au pouvoir surnaturel (dragon, licorne, tortue, phénix). Par rapport aux trois autres animaux, la tortue est le véritable animal existant dans la nature. En outre, elle a une durée de vie plus longue  et peut vivre longtemps sans nourriture. C’est pour cela elle est synonyme de l’évasion de la vie trépidante et de la longévité éternelle.

Dans le domaine spirituel, la tortue est considérée comme  l’animal symbolique de l’union du ciel et de la terre ou du Yin et du Yang. Son abdomen est tellement plat qu’il représente la terre (Yin) et sa carapace représente le dôme du ciel (Yang). Elle est souvent considérée par les Vietnamiens  comme un quadrupède sacré sachant faire des prophéties et elle est sanctifiée dans leur esprit. Celui-ci est l’un des peuples vivant tout près des fleuves et des mers de l’Asie du Sud-est et dans le sud du fleuve Yangzi. C’est pourquoi le chercheur français  Jean Przyluski est amené à conclure dans ses études qu’on voit souvent dans leurs légendes, des héros ou  des forces sacrées (ou esprits sous la forme des poissons, tortues, reptiles, tortues etc…) issus des eaux, aider les rois à consolider leur nation ou à résister aux envahisseurs. Par contre on ne trouve pas ces animaux sacrés dans les légendes venant des peuples vivant sur le continent comme la Chine ou l’Inde.

C’est pourquoi  on constate l’apparition de la tortue deux ou trois fois dans les légendes vietnamiennes. Pour la première fois, la tortue est  rapportée dans le livre intitulé « Histoires extraordinaires de Lĩnh Nam » de Trần Thế Pháp écrit en caractères Han et paru probablement à l’époque des Trần. Après avoir conquis le royaume Văn Lang des rois Hùng, Thục Phán décida de prendre le titre An Dương Vương et décida de construire la citadelle dans le territoire Việt Thường. Mais il ne réussit pas à achever son projet car la citadelle continua à s’éroder à plusieurs reprises. Un jour, à la surface de la mer, apparût une tortue d’or prétendant être l’ambassadeur Thanh Giang. Celui-ci savait  parler couramment  le langage humain et prédire l’avenir. Le roi réussit à construire la citadelle après que la tortue d’or lui avait suggéré un stratagème pour tuer le monstre Bạch Kê Tinh (un coq blanc réussissant à se métamorphoser en un être humain après mille ans). Cette citadelle était assez large et portait le nom « la citadelle en colimaçon » à cause de la présence de neuf spirales de terre. Avant de dire au revoir au roi, la Tortue d’Or recommanda  au roi de gouverner avec sagesse et vertu car cela permit de prolonger son règne. Puis elle lui remit une griffe dont le roi se servait pour faire la gâchette de son arbalète et retourna à la mer. Grâce à cette arme magique, le roi réussit à garder la citadelle et résister à l’armée d’invasion de Zhao Tuo (ou Triệu Đà). Mais An Dương Vương fut plus tard victime de la ruse de Zhao Tuo et perdit son royaume en acceptant de laisser sa fille Mỵ Nương épouser Trọng Thủy, le fils de son adversaire. La Tortue d’Or aida également le roi Lý Thái Tông à reprendre son trône après la mort de son père, le roi Lý Thái Tổ. Monté sur le trône, Lý Thái Tông dut abandonner bientôt la capitale et se réfugier dans une grotte à Tuyên Quang parce que ses jeunes frères s’étaient révoltés pour lui disputer le trône. La Tortue d’Or fut apparue dans son rêve pour lui faire savoir qu’elle l’aidera à reprendre le trône. Après avoir maté la révolte, le roi se souvint du mérite de la tortue, il n’hésita pas à accorder à  cette dernière le titre de « Minh Phúc Đai Vương ». À ce jour, il existe encore le sanctuaire dédié à cette Tortue d’Or dans le village de Nghiêm Sơn de la province de Tuyên Quang.

 La tortue d’Or  fut mentionnée également lors de l’invasion des Ming (ou Chinois) au début du XVe siècle. Un pêcheur  nom de Lê Thân repêcha un jour une épée et la donna à Lê Lợi, le futur roi de la dynastie des Lê postérieurs  lors de son soulèvement contre les envahisseurs chinois. Après avoir chassé les Ming, le roi Lê Lợi entama un jour une promenade sur un bateau-dragon autour du lac Tã Vọng (connu aujourd’hui sous le nom « Lac de l’épée restituée »). Au milieu du lac, une énorme tortue émergea subitement de la surface de l’eau. Le roi  trouva étrange cette apparition. Il ordonna à ses subordonnés de ralentir la barque royale.  La tortue s’en approcha et lui dit avec sa voix humaine: Seigneur, vous devez me rendre l’épée pour que je puisse la ramener au roi Dragon (*). C’est lui qui vous a donné cette épée pour pacifier le pays. Juste au moment où le roi sortit son épée,  la tortue d’or ouvrit sa bouche, la happa d’une rapidité effarante et disparut immédiatement sous l’eau. La tortue d’or est considérée toujours dans les légendes vietnamiennes comme le prétorien du roi Dragon, le père du peuple vietnamien et elle est chargée de veiller à la protection des Vietnamiens.  De ce jour, le lac Tã Vọng devient le lac Hồ Hoàn Kiếm (ou le lac de l’épée restituée). 

Dans les croyances populaires, on est habitué à trouver une paire de grues ou phénix debout sur le carapace des  tortues rangées de chaque côté du brûleur d’encens dans les temples et les maisons communales. C’est un couple d’animaux reflétant le rôle du fonctionnement de l’harmonie du Yin et du Yang. Dans le temple de la littérature (Văn Miếu) à Hànội, il y a 82 statues de tortues portant les stèles des lauréats sur leur carapace. C’est une façon d’immortaliser les noms des gens ayant obtenu le titre tiến sĩ (degré de docteur)  ainsi que ceux de leurs villages où ils étaient nés  car ceux-ci continuent à rester honorés au fil des générations et des années et ils symbolisent la force qu’ils ont  car ils sont les hommes de talent et la source de vie de la nation.  Aucun roi ne pense à négliger le recrutement de ces  hommes de talent car la source jaillissante fait la force d’un pays. Une source tarissant l’affaiblit.

On est habitué à considérer la tortue comme un quadrupède sacré. C’est pourquoi quand quelqu’un a l’occasion de la rencontrer sur le chemin, on dit qu’il est chanceux. On l’appelle sous le nom « Cụ (Oncle) » pour marquer le respect. On prend pitié de son sort à travers l’adage suivant:

Thương thay cái kiếp con rùa
Lên đình đội hạc, xuống đình đội bia.

On ne cesse pas de se lamenter sur le sort de la tortue
Obligée de porter les grues dans les maisons communales et les stèles ailleurs.

Actuellement, cette espèce aquatique géante est classée en danger critique d’extinction sur la liste rouge de l’UICN depuis 2006 et connue sous le nom scientifique « Rafetus swinhoei ». C’est une espèce de tortue à carapace molle vivant dans le fleuve Yanzi (Chine) ou le fleuve Rouge du Vietnam. Après le décès de la tortue du lac de l’épée restituée, il existe actuellement 4 individus dont l’un est très vieux et mâle vivant en Chine, le deuxième (une femelle confirmée grâce à l’analyse du gène) et le troisième (en cours de récupération)  sont au lac Đồng Mô (Ba Vì) et le dernier vit dans le lac Xuân Khanh tout proche (Sơn Tây). L’organisme vietnamien chargé de protéger les espèces entretient l’espoir de réaliser la fécondation avec succès si l’individu récupéré au lac Đồng  Mô ou Xuân Khanh est un mâle sinon cette espèce sera éteinte dans l’avenir.

Thục Phán (Royaume de An Dương Vương)

Le Royaume de An Dương Vương

Version française

Sự tham gia của người Thái cổ (hay người Tày) trong việc thành lập vương quốc Âu Lạc của Thục Phán (hay An Dương Vương) không thể chối cải được sau khi Thục Phán đã thành công đánh bại vua Hùng cuối cùng của nhà nước Văn Lang. Cái tên Âu Lạc phản ánh hiển nhiên sự liên kết chặt chẽ của hai dân tộc Việt, một nhánh Âu (Thái cổ) và một nhánh Lạc (Việt cổ). Hơn nửa, Thục Phán là một người Việt chi Thái, điều nầy cho thấy rỏ ràng sự đoàn kết và sứ mệnh lich sử chung của hai dân tộc Việt và Thái trước sự bành trướng của người Hoa.

Theo giáo sư Đào Duy Anh, Thục Phán thuộc gia đình qúi tộc nước Thục. Tất cả đều được mách lại trong các thư tịch Tàu (Kiao -tcheou wan-yu ki hay Kouang-tcheou ki) nhưng bị bác bỏ bởi một số sử gia Việt vì vương quốc Shu (Thục) ở quá xa vương quốc Văn Lang nhất là bị thôn tính quá sớm bởi Tần quốc từ 316 trước công nguyên (hơn nửa thế kỷ trước khi lập vương quốc Âu Lạc).

Nhưng theo nhà văn Bình Nguyên Lôc, Thục Phán bị mất nước , buộc lòng phải dung thân lúc còn trẻ với các bộ hạ ở môt nước nào mà thời đó phải có quan hệ sắc tộc (ngôn ngữ và văn hóa) cũng như họ có nghĩa là nước Tây Âu ở bên cạnh nhà nước Văn Lang của người dân Việt. Hơn nửa người Hoa không có lợi chi viết sai sử học khẳng định đây là một hoàng thân của nước Thục cai trị nước Âu Lạc. Việc tá túc của Thục Phán và bộ hạ ở Tây Âu cần có một thời gian trong cuộc di tản vì vậy cần có 60 năm sau đó mới có sự sáng lập vương quốc Âu Lạc qua sự giải thích. Nhưng gỉả thuyết nầy không vững vì nhất là thời đó có 3000 cây số phải vượt để đến Tây Âu. Vả lại Thục Phán cầm đầu một đạo binh có 3 vạn quân lính. Không thể nào một đạo quân như vậy có thể tàn hình và di chuyển mà ngưởi Hoa không biết được vì không những cần sự tiếp tế lương thực mà còn vượt qua bao nhiêu khu núi rừng quản trị bởi các bộ lạc thù địch hay thân Trung Hoa. Chắc chắn Thục Phán phải tìm được ở Tây Âu tất cả những gì cần thiết (quân bị, lương thực) trước khi thôn tính nước Văn Lang.

Theo giả thuyết gần đây đựơc xem có lý và nhất quán , Thục Phán là thổ lĩnh của một bộ lạc liên minh Tây Âu và con của Thục Chế, vua của nước Nam Cương thuộc về vùng Cao Bằng và nam Quảng Tây Trung Quốc ngày nay. Có sự trùng khớp thống nhất giữa những linh vật được mách đến trong truyền thuyết nỏ thần của người dân Việt và những tập tục trong truyền thống của người Tày (Thái cổ). Rùa vàng, gà trắng là những linh vật có ý nghĩa biểu tượng quan trọng.

An Dương Vương (Thục Phán)(Ngan-yang wang) là một nhân vật lịch sử có thật. Với sự khám phá các di tích ở Cổ Loa huyện Đông An, Hànội chúng ta có thể khẳng định là vương quốc Âu Lạc có thật và được dựng bởi Thục Phán khoảng chừng 3 thế kỷ trước Công Nguyên. Âu Lạc bị thôn tín về sau bởi Triệu Đà, một tướng lãnh của nhà Tần và người sáng lập ra nước Nam Việt. Hơn nửa được tìm thấy ở thành phố Quảng Châu thuộc nước Nam Việt một thẻ ngọc có hình dáng chữ nhật với bốn gốc thẻ có khắc bốn chữ An Dương hành bảo mà nhà nghiên cứu người Trung Hoa Dư Duy Cương ở thành phố Trường Sa, tỉnh Hồ Nam Trung Quốc cho rằng: ngọc bảo nầy là An Dương cổ đại của Việt Nam.

Le royaume de An Dương Vương (ou Thục Phán)

La contribution des Proto-Thaïs (người Tày) dans la fondation du royaume Âu Lạc des Proto-Vietnamiens de Thục Phán (An Dương Vương) n’est plus mise en doute après que ce dernier a réussi à éliminer le dernier roi Hùng du royaume Văn Lang car le nom « Âu Lạc » (ou Ngeou Lo) évoque évidemment l’union de deux ethnies Yue de branche Âu (Proto-Thaï) et de branche Lạc (Proto-Vietnamien). De plus, Thục Phán était un Yue de branche Âu, ce qui montre à tel point l’union et la mission historique commune de ces deux ethnies face à l’expansion chinoise.

Selon Đào Duy Anh, Thục Phán était un prince du royaume Shu. C’est ce qui a été rapporté dans les écrits historiques chinois (Kiao -tcheou wai-yu ki ou Kouang-tcheou ki) , mais il a été réfuté catégoriquement par certains historiens vietnamiens car le royaume Shu était, à cette époque, trop loin du royaume Văn Lang . Il fut annexé très tôt (plus d’un demi siècle avant la fondation du royaume Âu Lạc) par les Tsin. (nhà Tần)

Mais pour l’écrivain vietnamien Bình Nguyên Lôc, Thục Phán ayant perdu sa patrie, dut se réfugier très jeune en compagnie de ses fidèles à cette époque dans un pays ayant la même affinité ethnique (culture, langue) que lui càd le royaume Si Ngeou (Tây Âu) situé à côté du royaume de Văn Lang des Vietnamiens. De plus, les Chinois n’ont aucun intérêt de falsifier l’histoire en rapportant que c’était un prince de Shu dirigeant le royaume de Âu Lạc. L’asile de ce dernier et de ses fidèles dans le royaume de Si Ngeou dut prendre un certain temps, ce qui explique au moins un demi-siècle dans cet exode avant la fondation de son royaume Âu Lạc. Cette hypothèse ne semble pas très convaincante car il y avait 3000 km à marcher. De plus, il était à la tête d’une armée de 30.000 soldats. C’est impossible pour lui d’assurer la logistique et de rendre son armée invisible durant l’exode en traversant des zones montagneuses de Yunnan administrées par d’autres ethnies ennemies ou pro-chinoises. Il est probable qu’il dut trouver auprès des Si Ngeou (ou des Proto-Thaïs) tout (armement et effectif militaire, provisions) ce qu’il fallait avant sa conquête.

Il y a récemment une autre hypothèse qui paraît plus cohérente et plus plausible. Thục Phán était le leader d’une tribu alliée de la confédération Si Ngeou et le fils de Thục Chế, roi d’un royaume Nam Cương localisé dans la région de Cao Bằng et non loin de Kouang Si de la Chine d’aujourd’hui. Il y a une concordance totale entre tout ce qui est rapporté dans la légende de l’arbalète magique des Vietnamiens et les rites trouvés dans la tradition des Tày (Proto-Thaïs). C’est le cas de la tortue d’or ou du coq blanc ayant chacun une signification symbolique importante. An Dương Vương (Ngan-yang wang) était un personnage historique. La découverte des vestiges de sa capitale (Cổ Loa, district Đông An, Hànội ) ne met plus en doute l’existence de ce royaume établi à peu près trois siècles avant J.C. Celui-ci fut annexé plus tard par Zhao Tuo (Triệu Đà), un général chinois de la dynastie des Tsin et fondateur du royaume de Nan Yue.

De plus, on a découvert à Canton une tablette de jade ayant la forme rectangulaire et dont les quatre coins portant les quatre mots suivants « An Dương hành bảo ». Le chercheur chinois Dư Duy Cương à Chang Sa (Province Hunan, Chine) a été amené à donner les conclusions suivantes: cette tablette de jade (ngọc giản) appartenait au royaume antique An Dương du Vietnam.

 

 

Paris au crépuscule (Paris lúc chiều tàn)

Các tia nắng ở cuối ngày cùng dòng nước óng ánh lên sắc cam rực rỡ của sông Seine  tạo ra một quan cảnh tuyệt vời khi thành phố bắt đầu lên đèn. Bạn sẽ ngẩn ngơ và cảm nhận thích thú rạo rực trong lòng ít nhiều  khi có được những khoảnh khắc kỳ diệu nầy. Đây cũng là những kỷ niệm khó quên khi bạn có dịp đến với kinh đô ánh sáng Ba Lê. 

Les derniers rayons du soleil couchant et les eaux  irisées de la Seine vous offrent un spectacle merveilleux lorsque la ville commence à s’illuminer. Vous serez abasourdi et vous sentirez une légère excitation dans votre cœur lorsque vous aurez des moments magiques. Ce sont des souvenirs inoubliables lors que vous avez l’opportunité de visiter la ville lumière qu’est Paris.

The last rays of the setting sun and the iridescent waters of the Seine offer you a marvelous spectacle when the city starts to light up. You will be stunned and feel a slight excitement in your heart when you have these magical moments. These are unforgettable memories when you have the opportunity to visit the city of light that is Paris.