Yên Bái (Nguyễn Thái Học- Cô Giang)

 

Thaihoc

A great homage to the idyllic couple through my poem in Six-Eight:

He is young and talented;
Dying for his Father Land, he deserves being a valorous man.
She does not worry about her own life;
Dying for her love and duty, she is unforgettable forever.

Version française

Version vietnamienne

Contrary to other Vietnamese towns, Yên Bái has no tourist attractions. It is only the provincial capital, a riverside town located in the valley of the Red river half way on the road going from Hànội to the Chinese border Lào Cai. In spite of that, it continues to be famous in the past by its armed resistance driven by Vietnamese nationalists in the struggle for independence. It incarnates not only the hope of the Vietnamese people to regain their freedom by force but also the dauntlessness of the nationalists before death after the failure of their revolt in 1930. It should be looked at in the political context of that time to understand not only the causes of that revolt but also the Vietnamese people’s profound aspiration for independence after Phan Chu Trinh ‘s failure in advocating priority of overall progress of society over political independence followed by his death, and the house arrest of Phan Bội Châu, another important figure, by the colonial authorities at the capital of Huế.

Despite the warning of colonel Parfait-Louis Monteil in 1924, few reforms were made in favor of the native people. On the contrary, the exploitation of cheap labor in rubber tree plantations was at the top of its efficiency and horror. Writer Roland Dorgelès talked about it in his work « The Mandarin Road« . This virgin land, when it opens on impact, releases a mortal breath. As many as traced paths, as many as open tombs. The rubber trees coming out of the ground, spindly, and well in lines, look like the rows of cross. The dead numbered in the tens of thousand because of diseases and malnutrition. That is why through the following poem, this complaint is heard:

Kiếp phu đỗ lắm máu đào
Máu loang mặt đất máu trào mủ cây
Trần gian địa ngục là đây
Ðồn điền đất đỏ nơi Tây giết người

The coolies’ blood has much shed,
It shed on the ground, it shed through the sap.
This is the hell on earth,
The rubber tree plantation is where the French colonists commit murder.

For half of a century, the colonists harvested latex they converted into gold. It was in the plantations that sprouted the revolt. Someone like Nguyễn Văn Viên arrived at getting out of this hell and joining the Vietnamese nationalist party ( Việt Nam Quốc Dân Ðảng ) led by Nguyễn Thái Học. To show this fervor and find a favorable echo among the deprived, especially the plantation coolies, Nguyễn Văn Viên took the initiative, in spite of Nguyễn Thái Học’s reluctance, to assassinate Bazin known for his opulence in recruiting coolies and shipping them to rubber tree plantations in South Vietnam. The death of this man gave the colonial authorities an opportunity to launch the policy of repression all over the place.

Thus the nationalist party became the favored target in this crusade. It could no longer move easily. If it did not react, it would be a slow death because its members would be captured sooner or later by the colonial authorities. If it did react by the revolt, it knew that it would be a collective, hazardous, and exemplary suicide. That is why Nguyễn Thái Học had the habit of saying to his party companions:

Ðại hà chi thanh, nhân thọ kỷ hà?
Ðợi sông Hoàng Hà trong trở lại, đời người thọ là bao?

Waiting for the Yellow River water to be clear, how many live spans can we count?

The real photo of Nguyễn Thái Học

According to the Chinese, the Yellow River water only regains its clearness every three hundred years. Nguyen Thai Hoc knew for sure he was going to lead his party companions to a definite death. He could not wait any longer. But this death seemed useful because it recalled to the Vietnamese people that there was no other choice but the struggle. It also marked the beginning of   an   awareness and awakening of the whole people facing its destiny that was, up until then, led by the unworthy heirs of the Nguyễn dynasty (Khải Ðịnh, Bảo Ðại). The revolt of  Yên Bái was an indisputable failure because most of the nationalists leaders were captured.

On the other hand, it threw in a sound and long lasting basis upon which the communist party laid its authority and popularity among the people in the following years in the conquest of independence. It also tolled the death knell for a colonial empire that had vainly lost so many opportunities to reestablish the dialogue and cooperation with the native people. This was translated by the death sentence imposed on all the nationalist leaders. Nguyễn Thái Học was the last one to be guillotined. Before his execution, he was impassible. In spite of his weakness, he tried to shout out loud in French:

Dying for one’s country
Is the most beautiful fate
The most envied lot….

Then he lay down on his back facing the blade of the guillotine. « Long live Vietnam » was the last words heard before the fall of the guillotine’s blade. His blood spurted everywhere under a covered sky. His head fell in a bucket containing saw dust (June 17 1930). He was only 27. Faithful to her Vietnamese tradition, his wife Nguyễn Thị Giang did not take long to follow him to commit suicide on June 18, 1930 at the inn where they had met often before their marriage. She left a letter whose sentences illustrated well the indefectible love she had for her husband and her country:

Sống nhục sao bằng sự thoát vinh
Nước non vẹn kiếp chung tình
………
Cuộc đời xá kể chi thành bại
Trai trung thì gái phải trinh

Dying in pride rather than living in humiliation
I make it whole the love for you and the nation
……..
Success and failure do not matter in life
As long as man is faithful and woman has fidelity.

The remains of the thirteen Vietnamese nationalists were buried the following day on a hill near the Yên Bái railway station.

If this town is not as well known as most of Vietnamese cities, it incarnates on the contrary something the other towns cannot have. It is the symbol of maturity and dignity rediscovered in a people facing its own fate. It grew valiantly in the past along with the Vietnamese people in its struggle for independence.

(Việt Nam Quốc Dân Ðảng)

Voyage 2017: Vatican (Ý Đại Lợi)

Toà thánh Vatican

Version française
Version anglaise
Galerie des photos

Đây là một  quốc gia nhỏ nhất thế giới với tổng diện tích 0,44km2 và  nằm giữa thủ đô Rome của Ý Đại Lợi. Tuy vậy, Vatican có tầm ảnh hưởng quan trọng trên thế giới vì đây là trung tâm công giáo đã có thời kỳ hoàng đế Constantin (thế kỷ thứ tư) với hàng tỷ tín đồ trên thế giới hiện nay. Đến đây mà không xem được nhà nguyện Sistina thì rất uổng vì nơi nầy có những kiệt tác của các nhà họa sĩ trứ danh của thời phục hưng  như Michel Ange,  Sandro Botticelli vân vân và cũng không nên quên lên chót vòm của thánh đường  Saint Pierre để nhìn xuống xem quảng trường nhưng mất ít nhất hai ngày mới xem hết vì rất mất thì giờ  trong việc  nối  đuôi và chờ đợi.


C’est l’un des plus petits états d’Europe avec une superficie de 0,44km2 au cœur de la ville de Rome en Italie. Pourtant, Vatican a une influence notable dans le monde car c’est le centre spirituel des catholiques existant à l’époque de l’empereur Constantin (4ème siècle)  avec des milliards de fidèles dans le monde entier. C’est très décevant pour ceux qui ont l’occasion de venir à Vatican sans avoir le temps nécessaire pour  visiter le dôme de  la basilique de Saint Pierre et la chapelle  Sixtine car c’est ici qu’on peut voir les fresques,  les chefs d’œuvre des peintres célèbres à l’époque de la Renaissance comme Michel-Ange,  Sandro Botticelli etc. mais pour  cette visite, il faut compter deux jours car il faut faire l’interminable attente  pendant des heures.


It is one of the smallest states in Europe with an area of 0.44 km² in the heart of the city of Rome, Italy. However, the Vatican has a notable influence in the world because it is the spiritual center of Catholics existing since the time of Emperor Constantine (4th century) with billions of followers worldwide. It is very disappointing for those who have the chance to come to the Vatican without having enough time to visit the dome of St. Peter’s Basilica and the Sistine Chapel because it is here that you can see the frescoes, masterpieces by famous painters from the Renaissance era such as Michelangelo, Sandro Botticelli etc. But for this visit, you need to allow two days because you have to endure the endless waiting for hours.

Click vào hình để xem kích thước to hơn 

Cliquez sur la photo pour voir plus grande la photo
Click on the photo to see the larger photo

Place Saint Pierre 

Quảng trường thánh Phê Rô

Galerie des photos

 

[Return ITALIE] 

Voyage 2017: Pise (Ý Đại Lợi)

Version anglaise
Version française
Galerie des photos

Place des miracles

cliquez pour voir les photos correspondantes

 Cánh đồng của những  kỳ công

Khi nhắc đến Pise thì ai cũng nghĩ đến ngay  tháp nghiêng.  Nhưng chúng ta  quên đi  thành phố nầy là một hải cảng quan trọng  ở thời  kỳ đế quốc La Mã và có một thời phát triển hàng hải đáng kể. Chính nhờ đó mà Pise được xem là một trong bốn  nước cộng hoà hàng hải của Ý Đại Lợi (Amalfi, Pise, Gênes và  Venise)  trong quá khứ. Pise đến tột đỉnh quyền lực vào thế kỷ  11 nhờ các cuộc chinh phục liên tiếp và đáng kể:  sự cuớp phá  Reggio de Calabre  vào năm 1005, kiểm soát hoàn toàn biển  Tyrrhénienne  vào năm  1017 sau khi thôn tính Sardaigne, xâm chiếm  Carthage ( rồi  Mahdia vào năm  1088), cướp bóc hủy phá Palerme vân vân… Nhờ vậy, Pise có tiền để khởi đầu công việc xây cất nhà thờ và các toà nhà khác ở cánh đồng của những  kỳ công  (Piazza dei Miracoli ) mà sau nầy được gọi là  Piazza del Duomo.

 Đây là trung tâm  Bảo tồn Di sản Văn hóa Tôn giáo và nghệ thuật của thành phố cổ kính  Pise  gồm có 4 công trình mà nhà văn hào Ý, ông Gabriele d’Annunzio  xem như là những kỳ công trong một quyển sách của ông: Campanile (tháp chuông nhà thờ)(hay tháp nghiêng), nhà thờ Notre-Dame de l’Assomption, Nhà rửa tội Saint-Jean  và nghĩa trang Simone


Quand on parle de Pise, on pense tout de suite à sa célèbre  tour penchée.  Mais on oublie que  la ville fut un port important à l’époque de l’empire romain et  connut une expansion maritime considérable, ce qui fait de Pise l’une des quatre républiques maritimes d’Italie (Amalfi, Pise,  Gênes  et Venise) dans le passé. Elle atteignit son apogée au  XIe siècle par une succession de conquêtes notables:  pillage de  Reggio de Calabre  en 1005,  contrôle total de   la mer Tyrrhénienne en 1017 par la capture de Sardaigne,  occupation de  Carthage (puis Mahdia en 1088), mise à sac de Palerme etc. Cela lui  permet avec les rentrées d’argent,   le début de la construction de la cathédrale et les autres monuments du fameux champ des miracles (Piazza dei Miracoli ) qui deviendra ensuite la Piazza del Duomo.

——C’est le centre religieux et artistique de Pise constitué de quatre monuments que l’écrivain italien  Gabriele d’Annunzio considère comme les miracles dans un de ses romans:  la célèbre tour penchée,  la cathédrale Notre-Dame de l’Assomption, le baptistère de Saint-Jean et le cloître gothique de Simone——


Version anglaise

When we talk about Pisa, we immediately think of its famous leaning tower. But we forget that the city was an important port during the Roman Empire and experienced considerable maritime expansion, making Pisa one of the four maritime republics of Italy (Amalfi, Pisa, Genoa, and Venice) in the past. It reached its peak in the 11th century through a series of notable conquests: the sacking of Reggio Calabria in 1005, total control of the Tyrrhenian Sea in 1017 with the capture of Sardinia, occupation of Carthage (then Mahdia in 1088), the sacking of Palermo, etc. This allowed, with the income generated, the beginning of the construction of the cathedral and other monuments of the famous Field of Miracles (Piazza dei Miracoli), which later became the Piazza del Duomo.

—–It is the religious and artistic center of Pisa consisting of four monuments that the Italian writer Gabriele d’Annunzio considers miracles in one of his novels: the famous leaning tower, the Cathedral of Our Lady of the Assumption, the Baptistery of Saint John, and the Gothic cloister of Simone——-


Galerie des photos

No Images found.

 

Style gothique et pisan (Phong cách gô tích và pi-da)

Vue panoramique à partir du baptistère de Saint-Jean

[Return ITALIE]

 

 

Voyage d’été 2017: Florence (Ý Đại Lơi)

Version française
Version anglaise
Galerie des photos

Đây là  một thành phố có khoảng chừng 500 ngàn dân và nằm bên bờ  sông hiền hoà  Arno giữa  hai biển Tyrrhenus (Tyrrhenian Sea) và Adriatique.  Florence toạ lạc hầu như ở trung tâm của bán đảo Ý Đại Lợi. Vào thế kỷ 15, Florence  được cai trị bởi một gia tộc nổi tiếng Médicis  mà sau nầy họ được gọi là các đại  công tước của xứ Toscane.

Cũng vào thời đó  là thời điểm   rực rỡ của Florence trong các hoạt động nghệ thuật và văn học  cũng như chính trị  và kinh tế.  Florence còn có một di sản đặc biệt nói lên tính cách huy hoàng có cả hàng trăm năm của nó. Chính ở nơi nầy là quê quán của Cimabue và  Giotto, hai người cha đẻ hội họa của Ý Đại Lợi, Arnolfo  và  Andrea Pisano hai nhà canh tân về ngành  kiến trúc và điêu khắc và Michel-Ange, Léonard de Vinci,  Brunelleschi, Donalto và  Massacio những tên tuổi lừng danh  khởi xướng  ở thời kỳ Phục hưng (thế kỷ XV và XVI).

Tuy nhỏ hơn so sánh với các thủ đô văn hóa khác, Florence nghênh đón  mỗi năm có hơn 7 triệu người du khách ngoại quốc.  Florence còn  cất giữ  riêng tư phân nửa số lượng kiệt tác mà Ý Đại Lợi có. Cũng là thành phố đầu tiên làm ra các đồng xu bằng  vàng mà thường được gọi là florins vào năm 1252.  Vài quốc gia như Hà Lan vẫn  giữ thói quen gọi đồng tiền của họ với cái tên nầy.


C’est une ville d’environ un demi-million d’habitants se trouvant  sur les rives du fleuve Arno entre les mers Tyrrhénienne et Adriatique. Elle est presque au centre de la péninsule italienne.  Au XVème siècle Florence passa sous la Seigneurie des Médicis qui devinrent  ensuite les Grands Ducs de Toscane.

Fleuve Arno avec les ponts  Vecchio  et Santa Trinita
Arno River with the Vecchio and Santa Trinita bridges.

Ce fut un moment de grandeur de Florence dans les arts et  la culture mais aussi dans la politique et  la puissance économique. Florence renferme un exceptionnel patrimoine d’art qui témoigne de sa splendeur séculaire.  C’est ici que vécurent Cimabue et Giotto, pères de la peinture italienne,  Arnolfo et Andrea Pisano, rénovateurs de l’architecture et de la sculpture et Michel-Ange, Léonard de Vinci, Brunelleschi, Donalto et Massacio,   initiateurs célèbres  de la Renaissance (du XVème au XVIème siècle).

Plus petite que d’autres capitales culturelles, Florence accueille aujourd’hui  plus de sept millions de touristes par an.  Elle abrite en plus, à elle seule, la moitié des œuvres d’art conservées en Italie. C’est aussi la première cité à frapper ses propres pièces d’or, les florins de Florence en 1252.  Certains pays comme les Pays-Bas ont conservé jusqu’à une date récente cette appellation pour désigner leur monnaie. 

Portes du paradis de Lorenzo Ghiberti

un des plus grands maîtres de la première moitié du Quattrocento

Gates of Paradise by Lorenzo Ghiberti, one of the greatest masters of the first half of the Quattrocento.

Cửa lên thiên đường của Lorenzo Ghiberti

Version anglaise

It is a city of about half a million inhabitants located on the banks of the Arno River between the Tyrrhenian and Adriatic seas. It is almost at the center of the Italian peninsula. In the 15th century, Florence came under the rule of the Medicis family, who later became the Grand Dukes of Tuscany.

This was a moment of greatness for Florence in the arts and culture, but also in politics and economic power. Florence holds an exceptional artistic heritage that testifies to its centuries-old splendor. It is here that Cimabue and Giotto, fathers of Italian painting, Arnolfo and Andrea Pisano, renovators of architecture and sculpture, and Michelangelo, Leonardo da Vinci, Brunelleschi, Donatello, and Masaccio, famous initiators of the Renaissance (from the 15th to the 16th century), lived.

Smaller than other cultural capitals, Florence today welcomes more than seven million tourists per year. It also houses, by itself, half of the artworks preserved in Italy. It is also the first city to mint its own gold coins, the florins of Florence in 1252. Some countries, like the Netherlands, have retained this name until recently to designate their currency.

Galerie des photos

[Return ITALIE]

Voyage d’été 2017: Rome (Ý Đại Lơi)

 

No Images found.

[Retour ITALIE]

 

Tử Cấm Thành Bắc Kinh: phần 3

Version française

English version

[Tử Cấm Thành Bắc Kinh: phần 3]

Đóng đinh trên các cửa, truyền thống nầy đã có từ lâu có từ thời nhà Tùy Đường (581-907). Riêng về cố cung thì trên bốn cửa chính  thì  đều có đóng đinh nhưng ngoài việc nầy,  chỉ có ngọ môn thì có thêm năm cổng còn các cửa khác thì chỉ có ba cổng.

Trừ cửa Đông Hoa Môn có 8 hàng ngang 9 hàng dọc đinh màu vàng ( 8*9=72)  với con số chẵn (số Dương tức là con số nguyên chia cho 2 và bội số của 3), tất cả cửa khác  đều có  9 hàng ngang và 9 hàng dọc  tức là 9*9=81, nghĩa là với con số Âm (số lẻ). Người Hoa hay dùng số Dương còn người Việt thì đối lại thì trọng con số lẻ (số Âm). Qua việc dùng đinh đống cửa, ngoài chức năng cấu tạo và  trang trí, người ta còn nhận thấy  nó còn  thể hiện khía cạnh trang nghiêm và uy nghi của một chế độ phong kiến của thời đó.

Đinh cửa

Có rất nhiều câu hỏi về sự chọn lựa số Dương trên cửa phía Đông (hay là Đông Hoa Môn). Đây là một nghi vấn mà các sử gia chưa tìm được câu trả lời. Có người nghĩ rằng lúc an táng Gia Khánh ĐếĐạo Quang Đế thì phải  mượn cửa nầy để đem đi chôn. Vì thế cửa nầy thường được gọi là Qủi Môn. Có thể đây là sự giải thích hợp tình hợp lý vì với số Âm người qua đời mới về được với Âm Phủ. Số lượng đinh đóng trên các cửa được cố định tùy theo chức vụ giai cấp của chủ nhân trong chế độ phong kiến.

Vì thiên tử là con của Thiên Đế (Trời) nên   số lượng phòng  trong cố cung  phải ít hơn số gian nhà mà Trời có trên thiên đình (10.000).  Con số nầy là con số Dương và là con số mang tính cách vô tận ở Trung Hoa.  Theo cuộc điều tra vào năm 1973 thì  có ở cố cung tất cả 8704 phòng (con số Dương).

Riêng về màu vàng, trong Âm Dương Ngũ Hành, thì màu nầy thường được gán với hành  Thổ (hay đất)  được tọa lạc ở trung tâm  trong việc quản lý vạn vật và giám sát  bốn phương. Vì là màu của mặt trời ở giữa trưa, màu nầy rực rỡ chỉ thuộc về hoàng đế vì nó biểu hiệu  sự kính trọng và che chở của thiên đế. Có tục lệ không được dùng một số màu ở thời kỳ phong kiến: màu đỏ, màu vàng, màu xanh da trời.

img_3307

Lư hương

Ngược lại dân chúng được dùng: màu đen, màu trắng và màu xám. Bởi vậy không có chi ngạc nhiên khi thấy lại sự trọng dụng hai màu nổi bật nầy: màu đỏ tía và màu vàng  trong việc xây cất cung đình ở cố cung. Các vách tường thì màu đỏ tím còn các ngói  lưu ly  của cung đình thì màu vàng. Nhưng cũng có ngọai lệ đều có liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ Hành.  Đó là cung Wenyuan, nơi  có  thư viện Hoàng gia. Nơi nầy có mái nhà màu đen. Lửa là một vấn đề lo ngại ở cố cung. Đã bao lần lửa đựợc phát giác ở cố cung. Lần chót có lửa là lúc hoàng đế Quang Tự sắp thành hôn  còn một tháng với cô em họ Long Dụ. Đây là điềm báo không tốt cho cuộc hôn nhân. Dựa lấy cớ nầy, thái hậu Từ Hy hành quyết lập tức hai thái giám phụ trách trong việc bố trí các lồng đèn.  Bởi vậy màu đen tượng trưng nước,  được dùng ở cung Wenyuan trong việc phòng tránh hỏa họan và để bảo vệ các bộ sách ở thư viện. Có những gian nhà ở gần Đông Hoa Môn thì có mái nhà sơn màu xanh vì đây là nơi  ở của các hoàng tử.  Đấy cũng là màu xanh mà được gán cho phương đông trong ngũ hành.

[Trở về trang Tử Cấm Thành ( Bắc Kinh)]

[Trở về trang Trung Quốc]

Tử Cấm Thành Bắc Kinh: phần 2 (Cité interdite Pékin)

Version française

English version

[Tử Cấm Thành: Phần 2]

Cung Càn Thanh  đã bao lần là nơi  chứng kiến các âm mưu, các cuộc ám sát hay phản trắc dưới hai triều đại Minh Thanh. Hơn nữa, sau ngai vàng,  trên tấm bình phong, luôn luôn có treo một bức hoành   mà   hoàng đế Thuận Trị đề tự như sau: Quang minh chính đại. Còn thấy luôn cả lời bình luận  tôn vinh của người kế vị của ông , đó là hoàng đế Khang Hi. Đây là một kết cấu   tuyệt  vời , vượt qua cổ kim, còn  rạng rỡ và vĩnh cửu đáng làm tấm  gương học tập  cho hậu thế. Nhưng khốn  nổi sau  bức hoành nầy có bao nhiêu chuyện xung đột tiềm tàng,   tranh dành quyền hành ở trong  cung.

Trong thời gian 500 năm ngự trị của hai triều đại Minh  Thanh,  có nhiều biến cố đã xảy ra ở trong cung nầy. Trước hết là chuyện của hoàng đế Gia Tĩnh nhà Minh (1507-1567)  nổi tiếng hoang dâm và tàn ác không tả xiết được , súyt nửa bị chết ngạt bởi các cung nữ trong cung.  Lợi dụng ông ngủ say và rửa hận bởi cử chỉ hoang tưởng của ông, các cung nữ toa rập dùng dây  thừng thắt cổ ông trên long sàng.  Nhưng vì bị tố giác bởi một cung nữ trong nhóm với hoàng hậu nên hoàng đế được cứu sống. Các cung nữ đều bị hành quyết  tức khắc  luôn cả bà vương phi sùng ái của hoàng đế.

Rồi sau đó hoàng đế Thái Xương của nhà Minh (1582-1620) được biết dưới tên Chu Thường Lạc  chết đột ngột sau một tháng đăng cơ.  Người ta nghi ông  lạm dụng tình dục hay  bị  đầu độc.   Khiến làm triều đình lâm vào cuộc tranh giành quyền lực .   Vụ nầy được biết duới tên là Án Hồng Hoàn vì trước khi chết đột ngột,  hoàng đế có uống thuốc. Sau cùng hoàng đế áp chót của nhà Minh, con của Minh Quang Tông, Chu Do Hiệu  (1605-1628)  được biết với  niên hiệu  Thiên Hỷ (Tianqi) để  vuớng víu vào vụ Án Di Cung. Lợi dùng tuổ i nhỏ của hoàng đế, một vương phi của cha ông (vua Vạn Lịch),  Lý Tuyên Thi cố tình  thống chế Chu Do Hiệu . Bà cố  tình  ở lại Cung Càn Thanh và yêu cầu hoàng đế phong bà làm thái hậu để bà  có thể  điều hành triều chính.  Trước đòi hỏi và phản đối  mạnh mẽ của các quần thần, vua Thiên Hỷ ( Chu Do Hiệu) hạ chiếu bắt bà rời khỏi cung  và sống ở cung khác bị cháy vài tuần sau. Cuối cùng bà không bị chết  cùng cô con gái. Qua việc nầy , ai cũng nhận thấy có sự nhúng tay của hoàng đế tuy rằng có sự phản đối ở nơi ông.  Các sử gia thường tập hộp lại ba án trên đây dưới cái tên là  Vãn Minh Tam Án.

Dưới triều nhà Thanh,  có hai biến cố quan trọng. Mặc dầu Khang Hi được xem là một ông vua vĩ đại trong lịch sử Trung Hoa nhưng ông cũng gặp khó khăn trong việc lập thái tử nối ngôi vì có cuộc đấu tranh giành hoàng vị giữa các con của ông. Lúc đầu , ông phong cho Yinreng làm thái tử lúc mới hai tuổi sau đó Khang Hy đổi ý và chọn hoàng tử thứ 14 Dẫn Trinh làm ngưởi thừa kế.  Ông thầm kín  cất giấu  sau lưng bức hoành có bốn chữ  Quang minh chính đại môt cái hộp trong đó có di chiếu  « Truyền vị thập tứ tử  »  có nghĩa nhường ngôi lại cho thế tử thứ 14 vì Dẫn Trinh là hoàng tử được ông yêu chuộng.   Theo  truyền thuyết nói rằng,  khi Khang Hy đau nặng  thì Dẫn Trinh lúc đó đang viễn chinh ở vùng Tân Cương (Xinjiang) thì hoàng tử  Dẫn Chân ( Yingzheng ) lợi dụng thời cơ để lấy cái hộp và sửa chữa « Truyền vị thập tứ tử »  thành  » Truyền vị dư tứ tử  » bằng cách bỏ chữ « thập ». Nhờ vậy Ung Chính trở thành hoàng đế. Theo  bàn luận của người đời, Dẫn Chân còn chạy trốn ra vườn xem bệnh tình của Khang Hy mà trước đó ông có cho Khang Hy uống một bát  canh sâm. Theo các sử gia, Ung Chính có phần  trách nhiệm  trong cái chết đột ngột của Khang Hy  và vẫn tiếp tục là môt nghi vấn, một câu chuyện bàn tán của người đời. 

Vừa lên ngôi dưới tên là Ung Chính, ông  liền diệt trừ hay lưu đày tất cả những người  có tiềm năng chống đối .  Sau khi đăng quang, để tránh việc thừa kế mà ông là người  thông hiểu và gian nan  trong cuộc tranh giành quyền lực,  ông  mới thiết lập một phương pháp khéo léo bằng viết chiếu chỉ người thừa kế sau nầy thành hai bản, một bản niêm phong để trong hôp  cất sau bức hoành « Quang Minh chính đại » còn một bản ông mang trong người.  Khi ông lâm chung thì  có thể kiếm di chiếu ở trong hộp và  so sánh với bản ông có trong người thì sẻ nhận ra được người kế thừa hoàng vị .  Như vậy không có sự phản kháng nào cả. Phương pháp lập thái tử vẫn có tác dụng đến đời vua Hàm Phong nhưng vì Hàm Phong chỉ có một đứa con duy nhất  Đồng Trị với Từ Hy hoàng hậu nên phương pháp nầy hết còn hiệu lực. Để củng cố chức vụ nhiếp  chính, Từ Hy thái hậu ủy bỏ phương pháp nầy bằng cách tấn phong lần lượt  những  » hoàng đế con  nít » đó là Quang TựPhố Nghi.

[Tử  Cắm Thành (Bắc Kinh): Phân 3]

 

 

 

 

Chronologie des Han orientaux (Niên đại nhà Đông Hán, VF)

Niên đại nhà Đông Hán

Version vietnamienne 

Version anglaise

Dans les territoires conquis par les Han, notamment dans le Sud de la Chine, la sinisation continua à battre son plein. C’est pourquoi les révoltes se succédèrent d’abord dans le royaume de Dian (86, 83 av. J.C., de 40 à 45 apr. J.C.). Elles furent réprimées avec sévérité. Ces soulèvements étaient dus en grand partie aux exactions des fonctionnaires Han et aux comportements des colons chinois de prendre possession des sols fertiles et de refouler les populations locales dans les coins perdus de leur territoire. De plus, ces dernières devaient adopter la langue, les coutumes, les croyances religieuses des fils des Han.

La révolte des deux sœurs Trưng Trắc et Trưng Nhị


 En l’an 40, une grave rébellion éclata dans la province Jiaozhou (ou Giao Châu en vietnamien) incluant à cette époque une partie du territoire de Kouang Si (Quảng Tây) et de Kouang Tong (Quảng Đông). Elle fut menée par les filles d’un préfet local, Trưng Trắc (Zheng Cè) l’aînée et Trưng Nhị (Zheng Èr) sa cadette. Comme le mari de l’aînée Shi Suo (Thi Sách) s’opposa à la politique d’assimilation chinoise menée brutalement par le proconsul chinois Tô Định (Su Ding), ce dernier n’hésita pas à l’exécuter pour faire un exemple contre les insurgés yue, notamment les Vietnamiens. Cette exécution exemplaire révolta les sœurs Trưng et déclencha immédiatement le mouvement d’insurrection dans les territoires yue. Les deux sœurs Trưng réussirent à y enlever 65 citadelles dans un laps de temps très court. Elles se proclamèrent reines sur les territoires conquis et s’établirent à Meiling (ou Mê Linh). En l’an 41, elles furent vaincues par le général Ma Yuan (Mã Viện, Phục Ba Tướng Quân) (Dompteur des flots) et préférèrent le suicide à la reddition en se jetant dans le fleuve Hát.

Elles devinrent ainsi le symbole de la résistance des Vietnamiens. Elles continuent à être vénérées aujourd’hui non seulement au Vietnam mais aussi dans certains endroits des territoires Yue de la Chine (Kouang Si et Kouang Tong). Ma Yuan commença à appliquer une politique de terreur et de sinisation à marche forcée en plaçant à tous les échelons de l’administration, des hommes de confiance chinois et en imposant le chinois comme langue officielle dans tout le territoire des Vietnamiens. C’est la première domination chinoise durant presque 1000 avant la guerre de libération entamée par le général Ngô Quyền. Entre-temps, Guangwudi réussit à apporter la prospérité et la stabilité dans son empire en ramenant l’impôt du dixième au trentième des récoltes et des bénéfices. Après sa mort, son fils, analogue à Han Wudi, l’empereur Mingdi poursuivit la politique d’expansion en lançant une offensive contre les Xiongnu septentrionaux dans le but de libérer les états d’Asie centrale de la tutelle de ces derniers et de rétablir au profit de la Chine la sécurité de la route de la Soie. Le général Ban Chao (Ban Siêu), frère de l’historien Ban Gu de cette époque, fut chargé de cette expédition militaire. Il réussit à atteindre la mer Caspienne et à soumettre les Yuezhi grâce au concours des Kusana.

À partir de l’an 91, la Chine de Mingdi contrôla les pistes caravanières de la route de la Soie dans le bassin de Tarim. Par cette route, les envoyés de Mingdi ont ramené de Tianzu (Tây Vực) les effigies de Bouddha après que l’empereur l’aurait vu dans son rêve. Le bouddhisme commença à s’introduire ainsi en Chine avec l’établissement du temple du Cheval Blanc (Chùa Bạch Mã). La Chine était séparée seulement de l’empire romain (Da Qin) par le royaume des Parthes.(Perse antique). Malgré ses exploits territoriaux, Mingdi (Minh Đế) n’a pas laissé dans l’historiographie des Han l’image d’un brillant empereur comme son père Guangwudi ou son fils Zhandi (75-88) paré de toutes les vertus car sous son règne, une révolte paysanne eut lieu en l’an 60 à cause du poids des corvées, des travaux publics pour la consolidation des digues du fleuve jaune et de la construction du nouveau palais du Nord jugée démesurée et dispendieuse. Manquant d’envergure, les successeurs de Zhandi étaient incapables de suivre la voie de leurs prédécesseurs.

Ils devinrent les jouets des intrigues de cours menées par les eunuques et les fonctionnaires lettrés tandis que dans les provinces, les propriétaires fonciers commencèrent à accaparer les prérogatives gouvernementales et à monter des armées privées. La dislocation de l’empire des Han devint de plus en plus inévitable. En l’an 189, le massacre de 2000 eunuques ordonné par le militaire Yuan Shao (Viên Thiệu) illustra bien le désordre dans la cour des Han. Cette tuerie fut suivie ensuite par la destitution de l’empereur Shaodi (Hán Thiếu Đế) par le cruel général Dong Zhuo (Đổng Trác). Cela aboutit à une période de troubles et de désordres politiques où chacun des militaires tenta sa chance pour accaparer l’empire. Trois généraux, Cao Cao (Tào Tháo), Liu Bei (Lưu Bị) et Sun Quan (Tôn Kiên) sortis du lot de ces militaires et rendus célèbres par leurs victoires, se partagèrent désormais presque d’un siècle, l’empire des Han. C’est la fin de l’état centralisé et le début de la période des Trois Royaumes (Tam Quốc).

Chronologie des Han orientaux (Đông Hán)

  • 25-57: Règne de Guangwudi
  • 57-75: Règne de Mingdi
  • 75-88: Règne de Zhandi
  • 88-106: Règne de Heidi
  • 106: Règne de Shangdi
  • 106-125: Règne de Andi.
  • 125: Règne de Shaodi.
  • 125-144: Règne de Chongdi.
  • 145-146: Règne de Zhidi.
  • 146-168: Règne de Huandi.
  • 168-189: Règne de Lingdi
  • 184 Révolte des turbans jaunes
  • 189: Destitution de Shaodi
  • 189-220 Règne de Xiandi.
  • 190: Montée et puissance du général Cao Cao (Tào Tháo)
  • 220 Mort de Cao Cao et de Xiandi.
  • Fin de la dynastie des Han
  • 220-316: Période des Trois Royaumes (Tam Quốc)

C’est une dynastie qui au bout de quatre siècles (de 206 avant  J.C. à 220 après J.C.) de son existence, a ouvert la porte de son empire au confucianisme. Étant une doctrine philosophique, celui-ci a laissé à la Chine d’aujourd’hui un héritage spirituel et moral ne cessant pas d’avoir une influence notable sur  des millions d’Asiatiques. C’est aussi une époque riche en événements et en innovations artistiques et scientifiques dans une Chine à la fois rayonnante et conquérante. C’est pour cela que les Chinois se sentent plus que jamais, être les Fils des Han car ces derniers leur donnent un moment essentiel de la formation et du rayonnement de leur identité.

[Retour Dynastie des Han]


 

Chronologie des Han occidentaux ( Niên đại nhà Tây Hán, VF)

Chronologie des Han occidentaux

Version vietnamienne

Version anglaise


  • 202 av. J.C.: Liu Bang se proclame empereur. (Gaozu)
  • 195 av. J.C.: Mort de Gaozu.
  • 198-188 av. J.C. : règne de Huidi. (Hán Huệ Đế)
  • 188-180 av. J.C.: régence de Lu Hou (Lữ Hậu)
  • 180-157 av. J.C.: règne de Wendi. (Hán Văn Đế)
  • 157-141 av. J.C.: règne de Jindi. (Hán Cảnh Đế)
  • 154 av. J.C.: rébellion des Sept Royaumes.
  • 141-87 av. J.C. : règne de Wudi. (Hán Vũ Đế)
  • 87-74 av. J.C.: règne de Zhaodi. (Hán Chiêu Đế)
  • 80-68 av. J.C.: régence du général Huo Guang
  • 74 av. J.C.: règne de 27 jours de Liu He, empereur destitué.
  • 74-48 av. J.C.: règne de Xuandi. (Hán Tuyên  Đế) 
  • 48-33 av. J.C.: règne de Yuandi. (Hán Nguyên Đế) 
  • 33-7 av. J.C.: règne de Chengdi (Hán Thành Đế) 
  • 7-1 av. J.C.: règne de Aidi. (Hán Ai Đế)
  •  1 av.J.C.-5 après .J.C. : règne du jeune empereur Pingdi, empoisonné par Wang Mang. (Hậu Phế Đế)

 Une fois au pouvoir, Wang Mang (Vương Mãng) entama une série de réformes monétaires (3 fois en 9, 10 et 14 après .J.C.) et économiques du pays. Les classes les plus touchées étaient les nobles et les commerçants car à chaque changement de la monnaie, les pièces anciennes étaient échangées pour les neuves à un taux moins avantageux, ce qui incita les gens à fabriquer des fausses pièces au lieu de perdre leur valeur au change. Le faux-monnayage était sévèrement puni. Par contre, les paysans n’étaient pas touchés par cette réforme car ils vendaient leurs céréales en faible quantité pour l’achat des denrées nécessaires sur le marché et ils n’avaient aucun souci concernant le numéraire. Dès lors, Wang Mang s’attira la haine des nobles et des commerçants riches mais selon le sinologue suédois H. Bielenstein, au moment de la mise en place des réformes économiques, la véritable cause de sa chute était la série de calamités naturelles (sécheresse, inondation, sauterelles ) entraînant d’abord la famine, puis le banditisme, la révolte et enfin la guerre civile. L’inondation provoqua une vaste immigration des populations vivant dans les zones sinistrées.

Ce désastre amena les réfugiés affamés à se regrouper en bandes pillant les régions qu’ils traversaient et à se soulever contre les troupes gouvernementales censées de les réprimer. Connues sous le nom de Sourcils Rouges (Xích Mi) du fait qu’elles se teignaient en rouge les sourcils, ces hordes ne tardèrent à obtenir la première victoire en l’an 22 et commencèrent à envahir les autres régions de l’ouest. Entre-temps, il y avait des révoltes menées par l’aristocratie Han mais elles avaient toutes été étouffées et matées sévèrement car elles manquaient le soutien populaire. Il faut attendre treize années de guerre civile pour que le clan Liu retrouva confiance en Liu Xiu (ou Lưu Tú), un personnage talentueux et magnanime connu plus tard sous le nom Guangwu (Hán Quang Vũ Đế) pour restaurer l’empire et la dynastie des Han. 

C’est le début de la période des Han orientaux. (Đông Hán). Lors de son avènement au pouvoir, il ne cessa pas d’agir en faveur des pauvres et des esclaves. Contrairement à Wudi, il pratiqua la politique de non-intervention dans les pays vassaux. Pourtant c’est lui qui envoya plus tard Ma Yuan (Mã Viên) pour mater la révolte des sœurs Trưng Trắc Trưng Nhị dans le territoire des Yue. Il était considéré comme l’un des grands empereurs de la dynastie des Han avec Wudi par les historiens. 

Lors des fouilles archéologiques, on sait que les fils des Han furent en avance sur les Romains dans plusieurs domaines à cette époque. Ils furent les premiers à inventer un produit permettant de véhiculer leur pensée et leur savoir. Ils l’appelaient souvent sous le nom « zhi » ou (giấy ou papier en français). En 105 de notre ère, un eunuque de nom Cai Lun (Thái Luân) de la cour impériale observant la façon dont les guêpes se servaient pour mastiquer les fibres de bois dans la construction de leur nid cartonné, eût l’idée de les imiter et inventa ainsi le papier qui sera présenté plus tard à l’empereur Hedi (Hán Hòa Đế) de la dynastie des Han orientaux. (Đông Hán). L’archéologie a contredit récemment cette version car on a retrouvé des fragments de papiers issus des fibres végétales nettement antérieurs à l’époque de Cai Lun, certains datant du règne de Wudi et d’autres exhumés des tombes de la fin des Han occidentaux et du début des Han orientaux. Il est très fréquent de relever les incohérences chronologiques que les Chinois ont voulu introduire délibérément dans leur histoire traditionnelle établie jusque-là par les dynasties, en particulier celle des Qin et de Han, dans l’orthodoxie confucéenne et dans la période de conquête et d’annexion de nouveaux territoires si on continue à avoir un esprit cartésien.

Les démiurges chinois tels que Fuxi (Phục Hi) , Nuwa (Nữ Oa), Pangu (Bàn Cổ), Shennong (Thần Nông) ont été empruntés aux populations méridionales. C’est le cas du grand érudit chinois Ruey Yih-Fu qui voit en Fuxi et Nuwa un trait culturel spécifique des Nan Man (Man Di) (Barbares du Sud) ou celui de Le Blanc, le traducteur de Huainanzi (Hoài Nam Tử). Pour ce dernier, le cycle de Fuxi-Nuwa est une tradition du royaume de Chu (Sỡ Quốc). Les fils des Han introduisaient même dans leur littérature un mythe de création Pangu recueilli chez les ancêtres de Yao (Baptandier). L’archéologue chinois Yan Wenming décrit cela comme le produit unique d’une multiplicité d’origines ou il faut être comme le sinologue célèbre Chang Kwang-Chih pour parler d’un phénomène au sein d’une sphère d’interaction culturelle.  Lire la suite

Dynastie des Han: Art de vivre

Version vietnamienne

Version anglaise

Art de vivre

Sous les Han, la société chinoise était tellement structurée de manière que seuls, les lettrés et paysans fussent bien respectés par rapport aux artisans et aux commerçants selon le Hanshu de Ban Gu au 1er siècle. Pourtant il n’y a que ces derniers qui profitaient ainsi du système économique de l’empire malgré une grande quantité de restrictions imposées par le pouvoir impérial. La multiplication des entreprises privées et l’ouverture des routes commerciales (route de la soie par exemple) leur permirent de s’enrichir facilement. Ils vendaient des commodités et des luxueuses marchandises superflues très prisées par l’aristocratie Han et les propriétaires terriens. Grâce à l’art funéraire, on est amené à tirer des enseignements utiles sur l’art de vivre ainsi que celui de divertissement de cette époque. La soie est réservée pour la cour, la noblesse et les officiels tandis que le lin est pour le peuple, dans son costume traditionnel agrémenté d’accessoires illustrant ainsi son statut social. La soie connait un remarquable essor car elle fait l’objet d’un commerce de luxe mais elle est utilisée aussi dans le système de tribut pour les Xiongnu et les pays vassaux. En 1 avant J.C., les dons de soie atteignirent leur maximum avec 370 vêtements , 30.000 rouleaux de soieries et 30000 jin de bourre de soie. Les commerçants profitèrent des échanges pour lancer un commerce lucratif avec les étrangers, en particulier avec les Parthes et les Romains. Des ateliers privés firent concurrence aux ateliers impériaux.

Bannière funéraire trouvée dans le cercueil de madame Dai

Cela favorisa la production de la soie et amplifia la diversité régionale. Le tissage révèle un haut niveau de technicité car une chemise de soie longue de 1,28 m et d’une envergure de 1,90 m trouvée dans la sépulture de la marquise Dai ne pesait que 49 grammes. Outre la bannière de soie recouvrant le cercueil de la défunte et décorée de peintures illustrant la cosmogonie taoïste, on a découvert de plus les manuscrits sur soie (Yijing (Di Kinh), deux copies de Daodejing (Đạo Đức Kinh), deux traités médicaux et deux textes sur le Yin-Yang, trois cartes dans l’une des trois tombes de Mawangdui, certains étant écrits dans un mélange de lishu (écriture des scribes) et de xiaozhuan (petite écriture sigillaire) datant du règne de Gaozu (Hán Cao Tổ), d’autres rédigés complètement en lishu datant du règne de Wendi. Malgré son prix onéreux, la soie est préférée car elle est plus maniable, plus légère et plus facile à transporter par rapport aux fiches en bois. Sous les Han, la laque dont le travail est encore considéré comme un artisanat raffiné, commença à envahir les demeures des riches.

Ceux-ci, à l’imitation de l’aristocratie du royaume de Chu, se servaient pour la table, de la vaisselle en bois laqué, le plus souvent rouge à l’intérieur et noir à l’extérieur avec des motifs peints rehaussés, ces couleurs correspondant bien à celles du Yin (noir) et du Yang (rouge).

Il en est de même pour les plateaux et les boîtes destinées à ranger les vêtements pliés, les objets de toilette, les manuscrits etc.. Pour les familles princières, c’est le jade qui remplace le laque. Quant aux gens du peuple, la céramique est utilisée  avec le bois pour leur vaisselle. Semblables à des plateaux individuels circulaires ou rectangulaires, les tables basses, en général sur pieds, sont utilisées pour servir les repas. Ceux-ci sont bien garnis avec plats, baguettes (kuaizi), cuillères, coupes à oreilles erbei pour boire de l’eau et de l’alcool. En ce qui concerne la nourriture de base, le millet et le riz sont les céréales les plus appréciées.

Le millet est réservé pour les jours de fête dans le nord de la Chine tandis que le riz, produit de l’ancien royaume de Chu, est cantonné dans le Sud de la Chine car il s’agit d’un produit de luxe. Pour les pauvres, le blé et le soja restent dominants dans leur repas. L’alimentation chinoise est à peu près identique à ce qu’elle était à l’époque de Qin. Le geng, une sorte de ragoût, reste le plat traditionnel des Chinois où sont mélangés des morceaux de viande et des légumes. Mais, suite à l’expansion territoriale et à l’arrivée et l’acclimatation de nouveaux produits venant d’autres coins de l’empire, les innovations commencent à apparaître peu à peu dans la fabrication des nouilles, des plats  à la vapeur ainsi que des gâteaux à partir de la farine de blé.

Le rôti, le bouilli, le frit, la cuisson à l’étouffée et à la vapeur font partie des modes de cuisson. On se sert de la natte pour s’asseoir dans toutes les couches de la société jusqu’à la fin de la dynastie. Elle est maintenue en place aux quatre coins par des petits poids en bronze et de forme sphérique représentant des animaux lovés: tigres, léopards, cerfs, moutons etc. Pour pallier à l’inconfort provoqué par la station agenouillée sur les talons, on se sert des appui-dos ou des appui-bras en bois laqué. La natte est employée aussi dans le centre et le sud de la Chine par les gens modestes pour dormir. Par contre dans le nord de la Chine, à cause du froid, on doit recourir à un kang, une sorte de lit en terre revêtu de briques et recouvert de nattes et de couvertures. Sous ce kang, il y a un système de canalisations permettant de diffuser la chaleur entretenue à partir d’un foyer situé à l’intérieur ou à l’extérieur de la maison.

Loisirs et plaisirs ne sont pas oubliés non plus au temps des Han

Grâce aux textes, on sait que la tradition musicale de Chu a tenu une place importante dans la cour des Han qui continuait à l’apprécier. Selon le sinologue français J.P. Diény, les Han préférèrent à toute autre musique celle qui faisait pleurer. Les thèmes favoris dans les chansons tournaient autour de la séparation, de la fuite du temps et des plaisirs.

C’est dans les tombes princières qu’on découvre les figurines de danseuses (mingqi)(minh khí). Celles-ci révèlent à travers leur geste, l’habileté à tracer des arabesques dans l’air avec les longues manches de leur robe. Les danses basées sur les mouvements des vêtements provoqués par la torsion du corps et par les bras donnent à la danseuse accompagnée par le chant parfois mélancolique, un portrait vivant de l’art chorégraphique des Han. Pour ces derniers, la famille est dans la conception confucianiste, l’unité de base du système social autour de laquelle s’effectuent le culte des ancêtres, les rites, les banquets et les mariages qui donnent durant toute l’année tant d’occasions et de prétextes pour la musique de les accompagner et de rendre harmonieuse la vie. Etant symboles d’autorité et de pouvoir, les carillons de bronze ne peuvent pas être absents. Ils sont utilisés fréquemment dans les cérémonies rituelles mais aussi dans la musique de cour. Grâce aux fouilles archéologiques, on sait que la vie des cours princières Han était ponctuée de banquets, de jeux et de concerts accompagnés de danses et de l’acrobatie. Quant au divertissement, il était réservé uniquement aux hommes. Le liubo (une sorte de jeu d’échecs) était l’un des jeux les plus populaires de l’époque avec le jeu des dés pouvant compter jusqu’à 18 faces. Il vaut mieux jouer plutôt rester oisif, c’est le conseil de Confucius donné dans ses « Entretiens ».

Contrairement à l’archéologie des périodes antérieures, celle des Han nous permet d’accéder au domaine de l’intime comme le maquillage des femmes. Celles-ci recourent au fond de teint de poudre de riz ou de céruse pour maquiller leur visage. Les taches rouges sont appliquées sur les pommettes, les cernes sous les yeux, les mouches sur la joue, la touche de couleur sur les lèvres etc… L’éducation des jeunes fut prioritaire à l’époque des Han. Dès l’enfance, on inculpait l’obéissance, la politesse et le respect envers les aînés. À dix ans, le garçon commençait à recevoir les leçons d’un maître. Il devait étudier les Entretiens de Confucius (Lunyu), la Classique de la piété filiale (Xiao jing) etc. avant d’aborder entre quinze et vingt ans la lecture des Classiques. Considérée comme inférieure à l’homme, la femme était obligée d’apprendre dès son jeune âge le travail de la soie, la cuisine et posséder les qualités majeures qui lui étaient inculquées: la douceur, l’humilité, la maîtrise de soi. Elle devait être soumise aux trois obéissances (Tam Tòng): enfant à son père, mariée à son époux, veuve à son fils. Elle pouvait être mariée vers 14-15 ans dans le but d’assurer la pérennité de la lignée familiale. Malgré ces contraintes confucéennes, la femme continuait à exercer un réel pouvoir au sein de la structure familiale, notamment dans la relation entre mère et fils.

Le souci d’honorer les défunts amène les Han, en particulier ceux de l’Ouest de créer des sépultures extravagantes et de véritables trésors qu’étaient des suaires de jade pour la quête d’immortalité. C’est le cas de la sépulture du père de l’empereur Wudi, Han Jing Di. Pour le moment, les archéologues ont déjà extrait plus de 40 000 objets funéraires aux alentours du tumulus de l’empereur. Il faut s’attendre que tout ce complexe funéraire livre entre 300.000 et 500.000 objets car il reste outre le tumulus, deux fosses distinctes à explorer, celle de l’impératrice et de la concubine favorite Li de cet empereur. Selon un archéologue chinois chargé de cette exploration, ce n’est pas l’importance du nombre d’objets découverts mais c’est plutôt celle de la signification de chacune des trouvailles récupérées dans ce complexe funéraire. On est amené à croire que les Han occidentaux ont l’habitude de priser les monuments funéraires vraiment grandioses malgré leur parcimonie révélée à travers une série d’objets qui sont beaucoup plus petits que ceux des tombes Qin.

Chronologie des Han occidentaux (Suite)

[Retour Dynastie des Han]