Maison Loo, centre d’exposition d’art privé

Une somptueuse pagode chinoise au cœur de Paris.

Ngôi chùa Trung Hoa độc đáo giữa lòng Paris.

Vietnamese version

English version

Au début du 19ème siècle, un marchand d’art chinois de nom Ching Tai Loo racheta un hôtel particulier de style français classique  construit en 1880  au cœur du quartier chic, non loin du parc Monceau. Pour l’amour de son pays et le lien qu’il voulait garder avec son pays d’adoption, il  demanda à l’architecte Fernand Bloc de transformer ce bâtiment en une somptueuse pagode d’inspiration chinoise peinte en rouge comme la cité interdite de Pékin  dans sa totalité car à cette époque le permis de construire ne lui fut pas demandé. Malgré les protestations des gens vivant aux alentours, la maison Loo continue à exister jusqu’aujourd’hui et devient un centre d’exposition collective  d’art privé pour les collectionneurs avertis. Etant invité par la galerie d’art Hioco, j’ai l’occasion de le visiter ce matin. Je suis frappé non seulement par le caractère original de cette maison insolite mais aussi la présentation des objets d’art des galeries associées  à cette exposition. Un grand merci à tous les exposants.

Vào đầu thế kỷ 19, một thương gia nghệ thuật người Trung Quốc tên là Ching Tai Loo đã mua lại một biệt thự theo phong cách cổ điển Pháp được xây dựng vào năm 1880 tại trung tâm khu phố sang trọng, không xa công viên Monceau. Vì tình yêu dành cho đất nước Trung Hoa và mong muốn giữ mối liên kết với quê hương thứ hai của mình, ông đã nhờ kiến trúc sư Fernand Bloc biến tòa nhà này thành một ngôi chùa lộng lẫy mang cảm hứng từ Trung Hoa, được sơn đỏ như Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh, bởi vì vào thời điểm đó ông không cần xin giấy phép xây dựng. Mặc dù có sự phản đối từ những người sống xung quanh, ngôi nhà Loo vẫn tồn tại đến ngày nay và trở thành trung tâm triển lãm nghệ thuật tư nhân dành cho các nhà sưu tập tinh tường. Được mời bởi phòng tranh Hioco, tôi đã có cơ hội tham quan nơi nầy vào sáng nay. Tôi không chỉ có ấn tượng bởi tính độc đáo của ngôi nhà kỳ lạ này mà còn bởi cách trưng bày các tác phẩm nghệ thuật của các phòng tranh liên kết với cuộc triển lãm nầy. Xin gửi một lời cảm ơn chân thành đến tất cả các nhà triển lãm.

At the beginning of the 19th century, a Chinese art dealer named Ching Tai Loo bought a French classical-style townhouse built in 1880 in the heart of the upscale district, not far from Parc Monceau. For the love of his country and the connection he wanted to maintain with his adopted country, he asked architect Fernand Bloc to transform this building into a sumptuous pagoda inspired by Chinese design, painted red like the Forbidden City of Beijing in its entirety, as at that time no building permit was required. Despite protests from the local residents, the Loo house continues to exist today and has become a private collective art exhibition center for discerning collectors. Invited by the Hioco art gallery, I had the opportunity to visit it this morning. I was struck not only by the original character of this unusual house but also by the presentation of the art objects from the galleries associated with this exhibition. A big thank you to all the exhibitors.

 

 

 

Đi tìm nguồn gốc dân tộc Việt (À la recherche de l’origine du peuple vietnamien). Phần 2

 

Đi tìm nguồn gốc dân tộc Việt (Phần 2)
 

English version

Version française

Điều  nầy  được xác nhận bởi những gì được phát hiện trong các ngôi mộ ở di chỉ Guiqi thuộc Giang Tây: Các vũ khí được tìm thấy có tính chất tượng trưng vì tất cả đều được làm bằng gỗ. Chúng không có vị trí quan trọng trong cuộc sống hoặc thế giới bên kia của họ. Điều này dẫn đến kết luận rằng không giống như xã hội của người dân phương Bắc, xã hội của người Việt khá yên bình. Đây là lý do tại sao điều đó không cho phép họ chống cự lại tốt hơn mỗi lần bị xâm lược bởi những người hàng xóm ở phương Bắc, người Di không ngừng gặm nhấm lãnh thổ của họ và đẩy họ lùi về phía nam một chút sau mỗi cuộc đối đầu. Người Di nổi bật trong nghệ thuật dùng cung tên. Họ là những chiến binh đáng gờm và có năng khiếu về bắn cung và cưỡi ngựa. Được rèn luyện bởi sự khắc nghiệt của thiên nhiên, họ đã quen với việc chiến đấu với thú hoang và các bộ lạc khác. Điều này cho phép họ có trong máu mình ngay từ đầu gen của một kẻ chinh phục và một chiến binh. 

Điều này không đúng với  những người ở miền Nam, những người Bách Việt. Đức Khổng Tử  đã có cơ hội so sánh sức mạnh của người miền Bắc và người miền Nam: lòng dũng cảm và sức mạnh (Dũng) đối với người miền Bắc và lòng nhân từ và sự hào phóng (Nhân từ) đối với người miền Nam. Ngay cả chữ « Yi » , ban đầu là hình vẽ một người đàn ông cầm cung , đã cho chúng ta một ý tưởng chính xác về đặc điểm của người miền Bắc. Những người này, dưới sự lãnh đạo của Houang Di (Hoàng Đế), đã thành công trong việc đánh đuổi các bộ lạc Bách Việt đầu tiên sống trên lãnh thổ được phân định bởi sông Hoàng Hà và sông Dương Tử và do Xi Vưu (hay Đế Lai trong tiếng Việt) lãnh đạo, liên minh với vua Lôc Tục (hay Kinh Dương Vương) trị vì ở phía nam sông Dương Tử trong đất nước rộng lớn của Xích Qủi (Đất của Quỷ Đỏ). Theo truyền thuyết Trung Quốc, cuộc giao tranh này diễn ra tại Trác Lộc thuộc tỉnh Hà Bắc ngày nay, mở đường cho sự  bành trướng của người phương Bắc đến tận sông Lam. Cái chết của Xi Vưu đánh dấu chiến thắng đầu tiên của người phương Bắc trước người Bách Việt vào khoảng năm 3000 TCN. 

Ở thời kỳ nhà Thương, không có tài liệu lịch sử nào của Trung Quốc hoặc Việt Nam đề cập đến mối quan hệ giữa người  Bách Việt và nhà Thương, ngoại trừ truyền thuyết Việt Nam về « Phù Đổng Thiên Vương » (hay thánh Gióng của làng Phù Đổng)  kể về cuộc đối đầu giữa nhà Thương và vương quốc Văn Lang của người Lạc Việt. Mặt khác, mối liên hệ được thiết lập sau này giữa nhà Châu và vua Hùng Vương (Lạc Việt)  đã được ghi nhận. Một con chim trĩ bạc  thậm chí đã được biếu dâng cho vua nhà Châu  theo sách Linh Nam Chích Quái. Trong thời kỳ Xuân Thu, một nước có tên là  Ngô Việt đã được biết đến trong Sử ký của nhà sử học Tư Mã Thiên.  Đây là vương quốc của vị vua nổi tiếng  Câu Tiễn. Sau khi ông qua đời, con cháu ông không duy trì được quyền bá chủ. Ở trung lưu sông Dương Tử, một vương quốc khác cũng do một bộ tộc của Bách Việt (Bộc Lão) lập nên, gọi là nước Sở, đã lên nắm quyền  bá  chủ trong thời Chiến Quốc và trở thành một trong bảy nước đối thủ  (Hàn, Triệu, Ngụy, Yên, Tề, Tần và Sở).

Đội quân đát nung của Tần Thủy Hoàng

Trước khi bị quân Tần đánh bại, nước Sở đã gián tiếp đóng góp khó mà chối cải vào sự hình thành và thống nhất đất nước Trung Hoa sau này bằng cách tiêu diệt nước Ngô Việt của Câu Tiễn vào năm 332 và bắt đầu tạo động lực mới cho sự phát triển của một nước lớn với cuộc cải cách của Ngô Khởi (Wu Qi).

Người Đông Âu  (Tong Ngeou hay thị tộc Việt của Câu Tiễn) bắt đầu lánh nạn ở lãnh thổ phía nam của Bách Việt sau khi lãnh thổ của họ bị nước Sở sáp nhập. Theo Leonard Aurousseau, sau thất bại của họ, người Đông Âu đã tìm nơi tị nạn với số lượng lớn ở các khu vực sau: Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây và Giao Chỉ và do đó trở thành người Mân Việt, người Nam Việt (Giang Tô, Giang Tây) và người Lạc Việt (Quảng Tây, Giao Chỉ). Tất cả đều đã bị Hán hóa qua nhiều thế kỷ ngoại trừ người Lạc Viêt. Những người Lạc Việt nầy là hậu duệ chính đáng của người Đông Âu vì họ như người Đông Âu thuộc nhánh Âu (Ngeou)  và họ thường được biết đến dưới cái tên Tây Âu (Xi Ngeou, thị tộc Việt ở phía Tây).

Học giả người Pháp Leonard Aurousseau đã viết trong tác phẩm « Ghi chép nguồn gốc dân tộc An Nam » (BEFEO, T XXIII, 1923, tr. 254): « Không còn nghi ngờ gì nữa về nguồn gốc của người Lạc Việt ». Những người Việt khác, đặc biệt là những người sống ở vương quốc Sở, đã sớm đi theo họ trong quá trình thống nhất Trung Quốc của Tần Thủy Hoàng. Ông không ngần ngại trục xuất tất cả những ai dám chống lại chính sách đồng hóa của mình, đặc biệt là người Việt và người Miêu bắt họ đi lao động cưỡng bức trong việc xây dựng Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc, hủy đốt không chỉ tất cả các sách vở của các học giả Nho giáo mà còn của các dân tộc nổi loạn khác và duy trì chính sách xâm lược của mình đối với người Bách Việt cho đến tận Lĩnh Nam.

Cuộc chinh phục lãnh thổ  Tây Âu và Lạc Việt của Thục An Dương Vương, đánh dấu cuộc đối đầu thứ hai của người Trung Quốc với dân Bách Việt, được hoàn thành vào năm 207 với việc bổ nhiệm hai vị thái thú nổi tiếng của vùng lãnh thổ bị chinh phục: Nhâm Hiếu (Jen Hiao) và phụ tá của ông là Triệu Đà. Sau khi Nhâm Hiếu qua đời, lợi dụng tình hình rối ren sau sự sụp đổ của nhà Tần năm 207, Triệu Đà liên minh với các nước Việt khác để tuyên bố độc lập cho vương quốc Nam Việt, chiếm các quận cũ là Quế Lâm và Tượng Quận, rồi năm 184 TCN, ông ta tấn công vùng Trường Sa (Hồ Nam).

Vương quốc này vẫn tồn tại trong thời gian ngắn ngủi và rơi trở lại vào tay người Hán phương Bắc vào năm 111 TCN, bất chấp sự kháng cự anh dũng của Tể tướng Lục Gia. Cuộc đối đầu này, lần thứ ba với người Bách Việt, đã khiến họ không chỉ mất lãnh thổ mà còn mất cả bản sắc văn hóa. Quá trình Hán hóa bắt đầu diễn ra mạnh mẽ ở các vùng lãnh thổ bị chinh phục (Phúc Kiến, Quý Châu, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Giao Chỉ). Nhiều cuộc nổi dậy và khởi nghĩa đã nổ ra trong suốt thời kỳ đô hộ lâu dài của Trung Quốc. Nhưng cuộc nổi dậy nổi bật nhất vẫn là cuộc nổi dậy do hai chị em Trưng TrắcTrưng Nhị lãnh đạo một cách anh dũng. Theo lời kêu gọi của Trưng Nhị vào năm 39 sau Công nguyên, người Việt sống ở miền Nam Trung Quốc và phần lớn ở Bắc Kỳ đã tham gia cùng họ. Điều này cho phép họ đứng lên chống lại quân đội của nhà Hán cho đến năm 43 sau Công nguyên. Nhưng cuối cùng họ đã bị đánh bại bởi một vị thống chế vĩ đại của Trung Quốc thời bấy giờ  là Phục Ba Tướng quân (Mã Viện).

Vị quan nầy được vua Hán Quang Vũ đế ủy thác, lấy quyết định phá hủy tất cả những  trống đồng được  tìm thấy trên đất Lạc Việt vì trong cuộc giao tranh, ông nhận ra rằng những vật này có giá trị như một biểu tượng quyền lực cho người Lạc Việt. Theo truyền thuyết, để đẩy lùi biên giới đến tận ải Nam Quan, ông đã không ngần ngại cho dựng một cây cột cao vài mét, làm bằng đồng lấy từ những chiếc trống đồng này và khắc dòng chữ sau: 

Ðồng trụ triệt , Giao Chỉ diệt
Ðồng trụ ngã, Giao Chỉ bị diệt.

Nhưng điều này không làm giảm ý chí và nhiệt huyết độc lập của người Lạc Việt (người Việt). Họ quyết định củng cố nó bằng cách rải một cục đất xung quanh cột trụ khổng lồ này ở mỗi lối đi, dần dần tạo thành một gò đất, khiến cột trụ huyền thoại này biến mất. Để ngăn chặn mọi khả năng nổi loạn, thậm chí còn có một sắc lệnh của  Lữ hậu nhà Hán vào năm 179 TCN quy định rằng không chỉ cấm giao nộp cho người man di và người Việt các công cụ nông nghiệp và kim loại mà còn cả ngựa, bò và cừu. Sự việc này đã được E. Gaspardone ghi lại trong tác phẩm « Vật liệu phục vụ lịch sử An Nam » (BEFEO, 1929). Chính vì chính sách này, không có gì ngạc nhiên khi gần đây người ta phát hiện ra một số lượng lớn trống đồng được chôn  vùi cất giấu ở Việt Nam và các vùng lân cận (Vân Nam, Hồ Nam). Nền văn minh  Đồng Sơn đã kết thúc trong thời kỳ Trung Quốc đô hộ.

Việc người Việt bị ép buộc nhập ngũ vào quân đội của kẻ chinh phạt và sự tiếp xúc của họ trong nhiều năm với người Trung Quốc đã cho phép họ hiểu rõ hơn về các kỹ thuật chiến tranh (ví dụ như binh pháp của Tôn Tử) và hoàn thiện vũ khí của họ trong cuộc chiến chống lại quân xâm lược trong những năm sau đó. Mặt khác, người Trung Quốc đã chiếm đoạt mọi thứ thuộc về họ trong thời gian dài chiếm đóng. Những người Việt này tiếp tục bị đối xử như những người man rợ mặc dù họ có những đóng góp không thể phủ nhận vào ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc. Những người từ phương Bắc này giờ đây có thể tuyên bố là những người nắm giữ hợp pháp của Lạc Thư, học thuyết Âm Dương ngũ hành  mặc dù có rất nhiều mâu thuẫn trong bịa đặt thần thoại của họ.

 

Mô hình được phục dựng và tìm thấy tại di chỉ Banpo

Họ đã tạo hình lại con rồng, loài thủy sinh thần thoại yêu thích của người Bách Việt, ban đầu có đầu cá sấu và mình rắn, để phù hợp với khí chất và sở thích chiến binh của họ, tạo cho nó đôi cánh và thân ngựa. Họ chắc chắn đã lấy nó làm biểu tượng, mặc dù họ có hổ trắng trong truyền thống Thổ-Mông của mình. Ngôi nhà tròn của họ, một mô hình được phục dựng và tìm thấy tại di chỉ Banpo, đã được thay thế bằng ngôi nhà rộng rãi với mái dốc rộng và mái hiên nhô ra, ngôi nhà của người Bách Việt. Trong vòng xoáy của lịch sử, không còn chỗ cho người Bách Việt nữa.

Ngoại trừ người Lạc Việt, các dân tộc Bách Việt khác tiếp tục bị Hán hóa, đến cuối thế kỷ thứ 10, trên lãnh thổ của họ chỉ còn lại hai dân tộc đối đầu nhau: một dân tộc chinh phục (người Hán) và một dân tộc không khuất phục (người Lạc Việt hay người Việt) đang tìm kiếm độc lập. Các nước Đông Âu, Nam Việt, Mân Việt vân vân..  giờ đây là một phần đất của Nam Trung Hoa. Lợi dụng sự tan rã của nhà Đường, người Lạc Việt tuyên bố độc lập với Ngô Quyền.

Nước Việt Nam bắt đầu trỗi dậy. Tuy nhiên, điều nầy không có nghĩa là mọi thứ đều diễn ra một cách êm ái và hòa hợp. Người dân miền Bắc đã phải trải qua biết bao hy sinh mới có thể chấp nhận được cái thực tế này. Vì vậy, trang sử của Bách Việt giờ đây đã bị nhầm lẫn với trang sử của Lạc Việt.

Những khám phá khoa học gần đây đã thay đổi hoàn toàn quan điểm của chúng ta về người Bách Việt và đặc biệt là về lịch sử của họ. Chúng đã đặt ra câu hỏi về ý tưởng về sự truyền bá văn hóa có nguồn gốc từ phương Bắc. Những di tích thậm chí còn cổ hơn cả di tích của Hà Mỗ Độ mới được phát hiện gần đây ở giữa sông Lam tại Pentoushan (Hồ Nam). Liệu chúng ta có thể tiếp tục coi người Miêu, người Bách Việt là những người « man rợ » không? Tuy nhiên, chữ Miêu (hay Miêu trong tiếng Việt) ban đầu mang hình vẽ một cánh đồng lúa (Ðiền) phía trên được thêm chữ tượng hình « Thảo » (cỏ) (cỏ) cho thấy rõ cách người Trung Quốc xưng hô với những người biết trồng lúa bằng ngôn ngữ của họ. Liệu chúng ta có thể tiếp tục duy trì một phiên bản truyền thống và lỗi thời do những kẻ chinh phục viết ra, gây bất lợi cho việc tìm kiếm sự thật lịch sử? Điều cần thiết là phải đưa đoàn tàu lịch sử trở lại đúng hướng, biết rằng nền văn minh Trung Quốc không cần những bịa đặt này vì từ lâu nó đã xứng đáng nằm trong số những nền văn minh vĩ đại của nhân loại.

Chính tổ tiên của người Lạc Việt đã dạy người phương Bắc cách trồng lúa, chứ không phải ngược lại, như nhiều sử liệu Trung Quốc và Việt Nam đã ghi chép. Đã đến lúc chúng ta phải tri ân tổ tiên của người Việt, những người, vì tính tình ôn hòa, đã bị buộc phải nhường bước trước sức mạnh vũ lực trong cơn lốc lịch sử. 

 
Kế thừa một quá khứ huy hoàng, lại bị vướng vào những cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, chiến tranh thực dân, lại chìm đắm trong tham nhũng, Việt Nam của người Lạc Việt cần phải hồi phục lại, bởi vì nó không xứng đáng nằm trong số những quốc gia nghèo nhất thế giới. Đã đến lúc nó phải tiếp bước đi trên con đường mà tổ tiên đã vạch ra và cố làm tốt hơn họ.

 

Đi tìm nguồn gốc dân tộc Việt (À la recherche de l’origine du peuple vietnamien)

 

Đi tìm nguồn gốc dân tộc Việt

Version française

English version

Việc phát hiện ra di chỉ Hemudu (Chiết Giang) vào năm 1973 là một sự kiện trọng đại đối với các nhà khảo cổ học Trung Quốc vì di chỉ này, có niên đại hơn 5.000 năm, là bằng chứng cho nền văn minh lúa nước lâu đời nhất được tìm thấy cho đến nay trên thế giới. Người ta cũng tìm thấy tàn tích của một ngôi nhà sàn bằng gỗ ven hồ, một kiểu kiến ​​trúc rất khác so với nhà đất ở miền Bắc Trung Quốc. Dân số sống ở đó mang đặc điểm của cả người Mông Cổ và người Australo-Negroid. Vì Chiết Giang từ lâu đã là một trong những tỉnh đẹp nhất của miền Nam Trung Quốc, nên nền văn minh nổi tiếng này thường được cho là của người Trung Quốc, mặc dù người ta biết rằng cái nôi của nền văn minh này gắn liền với lưu vực sông Hoàng Hà, mà An Dương là trung tâm cổ xưa.

Ta không thể phủ nhận rằng nền văn minh của họ đã tìm thấy tinh hoa trong nền văn hóa thời kỳ đồ đá mới của Dương Thiệu (tỉnh Hà Nam) (5000 năm TCN) và Long Sơn (tỉnh Sơn Đông) (2500 năm TCN), lần lượt được nhà khảo cổ học người Thụy Điển Johan G. Andersson phát hiện vào năm 1921 và cha đẻ của ngành khảo cổ học Trung Quốc Li Ji phát hiện vài năm sau đó. Nhờ công trình phân tích phát sinh chủng loại của nhóm nghiên cứu Mỹ do Giáo sư J.Y. Chu thuộc Đại học Texas dẫn đầu, được công bố vào tháng 7 năm 1998 trên Tạp chí của Viện Hàn lâm Khoa học Hoa Kỳ, được tập hợp dưới tiêu đề « Mối quan hệ di truyền của dân số ở Trung Quốc » (1), chúng ta đã bắt đầu có được một ý niệm chính xác về nguồn gốc của người Trung Quốc. 

Hai điểm quan trọng đã được ghi nhận trong việc nghiên cứu này:

 1) Rõ ràng là bằng chứng di truyền không thể trợ lực sự độc lập ban đầu của người Homo sapiens ở Trung Quốc. Tổ tiên của các quần thể hiện đang sống ở miền đông Trung Quốc đến từ Đông Nam Á.

2) Giờ đây, có lẽ có thể sự kết luận một cách rõ ràng rằng người « hiện đại » gốc Phi chiếm một phần lớn trong vốn gen thường thấy ở Đông Á.

 Trong phần kết luận của mình, Giáo sư J.Y. Chu thừa nhận rằng rất có thể tổ tiên của những người nói tiếng Altaic (hay Hán) có nguồn gốc từ những người dân Đông Nam Á và những người đến từ Trung Á và Châu Âu. 

Sự  khám phá này không còn  nghi vấn câu hỏi về những gì đã được Giáo sư Nhân chủng học Wilhelm G. Solheim II của Đại học Hawaii đề xuất vài năm trước đó trong cuốn sách có tựa đề  « A New Light in a Forgotten Past ». (2) Đối với nhà nhân chủng học này, không còn nghi ngờ gì nữa rằng nền văn hóa Hòa Bình (15.000 năm trước Công nguyên) được nhà khảo cổ học người Pháp Madeleine Colani phát hiện vào năm 1922 tại một ngôi làng gần tỉnh Hòa Bình của Việt Nam chính là cơ sở cho sự ra đời và tiến hóa trong tương lai của các nền văn hóa thời kỳ đồ đá mới là Ngưỡng Thiều và Long Sơn được tìm thấy ở miền bắc Trung Quốc. Nhà vật lý người Anh Stephen Oppenheimer đã vượt ra ngoài những gì người ta từng nghĩ khi chứng minh theo cách tiếp cận khoa học và logic của ông rằng cái nôi của nền văn minh nhân loại nằm ở Đông Nam Á trong tác phẩm có tựa đề Eden in the East: The Drowned Continent of Southeast Asia (Địa đàng ở phương Đông: Lục địa chìm đắm của Đông Nam Á). 

 Ông kết luận rằng dựa trên bằng chứng địa chất tìm thấy ở đáy Biển Đông và các phương pháp xác định niên đại bằng C-14 trên thực phẩm (khoai lang, khoai môn, gạo, ngũ cốc vân vân..) được tìm thấy ở Đông Nam Á (Non Nok Tha, Sa Kai (Thái Lan), Phùng Nguyên, Đồng Ðậu (Việt Nam), Nam Dương), một trận lụt lớn đã xảy ra và buộc người dân ở khu vực này, trái ngược với những gì các nhà khảo cổ học phương Tây mô tả là những người sống bằng nghề đánh cá, săn bắn và hái lượm, là những người đầu tiên biết cách làm chủ hoàn toàn trong việc trồng lúa và nông nghiệp, phải di cư theo mọi hướng (hoặc về phía Nam ở Châu Đại Dương, hoặc về phía Đông ở Thái Bình Dương, hoặc về phía Tây ở Ấn Độ hoặc về phía Bắc ở Trung Quốc) để sinh tồn. Những người này đã trở thành những hạt giống của các nền văn minh vĩ đại và rực rỡ sau này được tìm thấy ở Ấn Độ, Lưỡng Hà, Ai Cập và Địa Trung Hải. 

Từ  sự quan sát khảo cổ học và khoa học này, chúng ta được dẫn dắt để đặt câu hỏi về mọi thứ đã được lịch sử báo cáo và làm sai lệch ở khu vực này của thế giới và cho đến nay những gì  được  dẫn dạy cho người Việt Nam. Chúng ta có thể bỏ qua những khám phá khoa học này lâu hơn nữa hay không? Chúng ta có thể tiếp tục tin vào các quyển sách của Trung Quốc (ví dụ như Hậu Hán Thư) trong đó các  nhà thái thú Tích Quang và Nhâm Diên của Trung Quốc được cho là các người đã dạy cho tổ tiên của người Việt cách ăn mặc và cách sử dụng cày, điều mà họ không hề  biết  đến vào thế kỷ đầu tiên của thời đại chúng ta? Làm thế nào mà các hậu duệ  chính đáng của vua Thần Nông (3) lại không biết trồng lúa, khi chúng ta biết rằng ngài là một chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp? Không ai dám chỉ ra việc mâu thuẫn này.

Shennong (Thần Nông)

 Chúng ta thậm chí còn không tự hỏi tại sao người phương Bắc lại đặt cho vị anh hùng thần thánh này  với biệt danh Viêm Đế (vua xứ nóng của Bạch Việt). Phải chăng đây là cách họ gọi vua phương Nam, bởi vì vào thời nà Châu, lãnh thổ của người Việt được gọi là Viêm Bang? Phải chăng người du mục phương Bắc có nguồn gốc Thổ-Mông, tổ tiên của người Hán, và người phương Nam, người Việt, có cùng tổ tiên? Đây có phải là một sự bịa đặt thuần túy được xây dựng để tôn vinh những kẻ chinh phục và nhằm mục đích hợp thức hóa chính sách đồng hóa của họ? Mọi dấu vết của các dân tộc khác, tức « người man di », đều bị xóa bỏ trong cuộc hành trình của họ. Cuộc chinh phạt lục địa Trung Hoa bắt đầu từ ranh giới của những vùng đất hoàng thổ và  đại đồng bằng, và được kéo dài có  gần bốn thiên niên kỷ.

Đây là điều mà học giả người Pháp René Grousset đã ghi nhận trong tác phẩm « Lịch sử Trung Quốc » khi nói về sự bành trướng của một chủng tộc tiên phong Trung Hoa thô bạo từ đại  đồng bằng. Trước nền văn minh rực rỡ của họ, rất ít người, kể cả người châu Âu khi đặt chân đến châu Á, dám đặt câu hỏi về những gì đã được ghi chép trong sử sách Trung Hoa và Việt Nam, và nghĩ về sự tồn tại của một nền văn minh khác mà những kẻ thống trị đã thành công trong việc độc chiếm và xóa sổ trên lãnh thổ bị chinh phục của người Bách Việt. Cái tên Đông Dương phần lớn đã phản ánh thái độ này, bởi vì đối với nhiều người, châu Á chỉ có hai nền văn minh đáng được nhắc đến: Ấn Độ và Trung Quốc. Thật đáng tiếc khi phải ghi nhận  việc sai lầm tương tự của một số sử gia Việt Nam, những người thấm nhuần văn hóa Trung Hoa, trong các tác phẩm lịch sử của họ. Do bị nhồi sọ bởi chính sách thực dân của người phương Bắc, một bộ phận người Việt Nam vẫn tiếp tục quên đi nguồn gốc của mình và ngày nay nghĩ rằng mình là hậu duệ của người Trung Quốc. Những người  nầy, họ không ngần ngại thực hiện chính sách đồng hóa và sáp nhập các vùng lãnh thổ mà họ đã chinh phục được kể từ khi họ  lập quốc. Sự thành công của sự  Hán hóa đã được thể hiện rõ qua nhiều thế kỷ trong quá trình họ tiếp xúc với các dân tộc « man di » khác. Quá trình này chắc hẳn cũng không khác gì quá trình đánh dấu sự xâm chiếm của họ vào « vùng đất cỏ Mông Cổ » ở thế kỷ 19 và vào rừng Mãn Châu ở thế kỷ 20. 

Chúng ta không phủ nhận nền văn minh rực rỡ của họ đã có tác động không thể phủ nhận đến sự phát triển của văn hóa Việt Nam trong thời gian dài họ đô hộ, nhưng chúng ta không thể quên thừa nhận rằng tổ tiên của người Việt, người Lạc Việt  đã có nền văn hóa riêng của họ, đó là  nền văn hóa Bách Việt. Họ là những người sống sót duy nhất của đại  tộc này không bị Hán hóa trong sự hỗn loạn của lịch sử. Họ là những người thừa kế chính đáng của người Bạch Việt và nền văn minh nông nghiệp của họ. Trống đồng Đồng Sơn đã chứng minh tính hợp pháp của họ bởi vì trên những đồ vật này, người ta tìm thấy các họa tiết trang trí mô phỏng các hoạt động nông nghiệp và hàng hải của họ trong thời kỳ rực rỡ này trước khi người Trung Quốc đặt chân đến lãnh thổ của họ (Giao Chỉ trong tiếng Việt). 

Ngày nay, người ta biết rằng nền văn minh nông nghiệp của Hà Mỗ Độ đã khai sinh ra nền văn hóa Bách Việt. Thuật ngữ Bách Việt, theo nghĩa đen có nghĩa là trăm  tộc Việt, được người Trung Quốc sử dụng để  ám chỉ tất cả các bộ lạc thuộc về một nhóm người Việt. Theo nhà văn xuất sắc  Bình Nguyên Lộc, công cụ thường được người Việt sử dụng là chiếc rìu được tìm thấy dưới nhiều hình dạng khác nhau và được làm bằng nhiều vật liệu khác nhau (đá, sắt hoặc đồng). Chính vì lý do này mà vào thời điểm tiếp xúc với những người du mục ở phía Bắc có nguồn gốc Thổ-Mông, tổ tiên của người Hán (hay người Trung Quốc), họ được người Trung Quốc gọi dưới cái tên « Yue », những người quen sử dụng rìu. Vào thời điểm đó, nó có hình thức  như  sau

 
và thể  hiện mô hình trong chữ viết Trung Quốc. Mô hình này tiếp tục xuất hiện đầy đủ trong từ Yue, mà bộ gốc mễ (米) hoặc gạo trong tiếng Việt cũng được thêm vào để chỉ những người trồng lúa vào thời Khổng Tử. Ngày nay, trong từ Yue, ngoài bộ gốc « Tẩu (走) trong tiếng Việt là vượt, chiếc rìu tiếp tục được biểu thị bằng tượng hình, đã liên tục sửa đổi qua nhiều năm. Từ Yue có lẽ bắt nguồn từ âm vị Yit mà người Mường dùng để chỉ chiếc rìu.Điều quan trọng cần nhớ là bộ tộc Mường có cùng nguồn gốc với bộ tộc Lạc Việt, tổ tiên của người Việt. (Các vị vua Việt Nam lừng lẫy là Lê Đại Hành, Lê Lợi  đều là người Mường). Gần đây, nhà khảo cổ học và nhà nghiên cứu của CNRS, Corinne Debaine-Francfort đã nói về việc người Trung Quốc sử dụng rìu nghi lễ của người Việt trong nghi lễ hiến tế người hoặc động vật, trong tác phẩm của bà có tựa đề « Sự khám phá lại Trung Quốc cổ đại » (NXB Gallimard, 1998). Nhà hiền triết Khổng Tử đã có cơ hội nói về người Bách Việt trong các cuộc nói chuyện với các học trò của mình như sau:

Người Bạch Việt sống ở phía nam sông Dương Tử có lối sống, ngôn ngữ, truyền thống, phong tục và ẩm thực riêng… Họ chuyên trồng lúa nước, khác với chúng ta, những người quen trồng kê và lúa mì. Họ uống nước từ một loại cây hái trong rừng gọi là « trà ». Họ thích nhảy múa, vừa làm việc vừa hát và xen kẽ các câu hát. Họ thường hóa trang thành lá cây trong điệu múa. Cần tránh bắt chước họ. (Xướng ca vô loại).

Ảnh hưởng của Nho giáo không phải không liên quan đến các thành kiến ​​mà các bậc cha mẹ Việt Nam vẫn duy trì  đến ngày nay khi con cái họ quá sa ngã vào các hoạt động âm nhạc hoặc sân khấu. Chính tinh thần Nho giáo này đã khiến họ bị nhìn một cách tiêu cực. Nhưng đó cũng chính là thái độ mà các quan lại Trung Quốc đã áp dụng khi cấm người Việt Nam biểu diễn âm nhạc trong các nghi lễ và lễ hội trong suốt thời kỳ đô hộ lâu dài của họ.

Sử gia Trung Quốc Tư Mã Thiên  đã có dịp nói về những người Việt này trong Sử Ký Tư Mã Thiên khi ông kể lại cuộc đời của vị vua lừng lẫy Câu Tiễn, một vị vua  nước Việt có lòng kiên nhẫn vô bờ bến của ngài trước kẻ thù là Phù Sai, vua nước Ngô trong thời kỳ Xuân Thu. Sau khi ngài mất, vương quốc của ngài đã bị nước Sở sáp nhập hoàn toàn vào năm 332 TCN, sau đó bị Tần Thủy Hoàng sáp nhập trong thời kỳ thống nhất Trung Hoa. Điều quan trọng cần lưu ý là địa điểm của Hemudu nằm ở vương quốc Việt của vua Câu Tiễn (Chiết Giang). 

Trong số các nhóm có chung nền văn hóa Bách Việt là có Yang Yue, Nan Yue (Nam Việt), Lu Yue, Xi Ou (Tây Âu), Ou Yue, Luo Yue (Lạc Việt), Gan Yue, Min Yue (Mân Việt), Yi Yue, Yue Shang, vân vân. Họ sống ở phía nam lưu vực sông Dương Tử, từ Chiết Giang  đến Giao Chỉ (miền bắc Việt Nam ngày nay). Khu vực phân bố này bao gồm các tỉnh miền Nam Trung Quốc ngày nay: Phúc Kiến, Hồ Nam, Quý Châu, Quảng Đông, Giang Tây, Quảng Tây  và Vân Nam.

Người Bách Việt có lẽ họ là hậu duệ của nền văn hóa Hòa Bình. Họ là những người nông dân khéo léo: họ canh tác lúa bằng phương pháp đốt nương rẫy, làm ruộng ngập nước và chăn nuôi trâu và lợn. Họ cũng sống bằng nghề săn bắn và đánh cá. Họ có tục xăm mình để bảo vệ bản thân khỏi sự tấn công của con thuồng luồng. Dựa trên Sử ký Tư Mã Thiên, học giả người Pháp Léonard Aurousseau đã đề cập đến tục lệ của tổ tiên của Câu Tiễn  là vẽ lên mình hình rồng hoặc các loài thủy thú khác giống như loài thường thấy ở những người Việt ở phía nam.

Họ búi tóc dài và được trợ lực bằng khăn xếp. Theo một số văn bản tiếng Việt, họ cắt tóc ngắn để thuận tiện cho việc đi lại trong rừng núi. Trang phục của họ được làm từ sợi thực vật. Nhà cửa của họ được xây cao để tránh thú dữ tấn công. Họ sử dụng trống đồng làm vật tế lễ trong các nghi lễ cầu mưa hoặc làm biểu tượng quyền lực, được sử dụng trong những lúc cần thiết để triệu tập chiến binh ra trận. Người Giao Chỉ sở hữu một nhạc cụ thiêng liêng: trống đồng. Nghe tiếng trống, họ rất hăng hái trong lúc ra trận », đây là những gì được tìm thấy trong tập đầu tiên của bộ sách « Hậu Hán Thư ». Các chiến binh của họ mặc khố giản dị và mang theo những cây giáo dài có gắn lông chim. Họ cũng là những nhà hàng hải táo bạo, trên những chiếc thuyền dài của mình, vượt qua cả Biển Đông và đi xa hơn một phần các vùng biển phía Nam. Mặc dù có trình độ kỹ thuật cao và thành thạo hoàn hảo trong nông nghiệp và trồng lúa, họ là một dân tộc rất ôn hòa. (Tiếp tục phần 2)

 


(1) Volume 95, issue 20, 1763-1768, 29 July , 1998
(2) National Geographic, Vol 139, no 3
(3) Kinh Dương Vương, étant le père de l’ancêtre des Vietnamiens, Lạc Long Quân et l’arrière petit-fils du roi Shen Nong.

 

Naissance de l’Indochine (Sự ra đời Đông Dương)

Naissance de l’Indochine.
Apports de l’Inde et de la Chine. 

Version française
Version anglaise

Thuật ngữ Đông Dương lần đầu tiên được nhà địa lý người Pháp-Đan Mạch Conrad Malte-Brun (1775-1826) sử dụng trong tác phẩm « Précis de la Géographie Universelle » xuất bản tại Paris năm 1810. Đây cũng là cách thức mà nhà địa lý Pháp dùng để nói đến  ảnh hưởng của hai nền văn hóa quan trọng Ấn Độ và Trung Quốc đối với các dân tộc và quốc gia ở lục địa Đông Nam Á (Miến Điện, Cao Miên, Lào, một phần Mã Lai, Tân Gia Ba, Thái lan và Vietnam). Dựa trên dữ liệu khảo cổ học, chúng ta đã thấy rằng từ thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên, người Ấn Độ đã bắt đầu dùng thuyền  đi dọc theo bờ biển Đông Nam Á đến quần đảo Sunda.

Nguyên nhân của các cuộc phiêu lưu trên biển nầy có một phần  không ít  từ việc truyền giáo của Phật giáo bởi vì  những người Ấn Độ nầy phần đông là cư dân thủy thủ ở vùng Amaravati, những người sùng bái Đức Phật Dipankara, người bảo vệ họ tránh khỏi những nguy hiểm của biển cả mà cũng có thể đến từ việc giao thương nhất là viên hoa tiêu người Hy Lạp Hippale đã phát hiện ra sự luân định kỳ của gió mùa vào khoảng giữa thế  kỹ thứ 1 sau Công Nguyên khiến có sự tăng trưởng kỳ diệu các  thương mại đường biển giữa Ấn Độ và các cảng biển thuộc Hồng Hải, cửa ngõ của phương Tây. Thời đó, hoàng đế Auguste của thành phố La Mã xa hoa muốn có  vàng  và những sản phẩm ở Ấn Độ như trầm hương, quế, hạt tiêu, đinh hương, bạch đậu khấu, sừng tê giác và ngà voi. Ấn Độ thời đó có liên hệ thương mai trực tiếp với Trung Ðông và gián tiếp với các nước vùng Ðịa Trung Hải như Ðế quốc La Mã. 

Nhưng tiếc thay những sản phẩm nầy trở thành khan hiếm ở lục địa Ấn Độ buộc  cư dân ở đây phải đi tìm những sản phẩm này từ xa và bằng mọi giá. Khi đến gần những bờ biển xa lạ của Đông Nam Á và sau đó họ phải tiến sâu trên đất liền  qua thảm thực vật ngột ngạt để họ có thể đến được gặp những cư dân đầu tiên sống trên vùng cao nguyên. Họ cần phải thuyết phục những người nầy để được có những vật phẩm mà họ cần mua với sự  thương lượng giá cả  một cách công bằng. Tất cả những điều này họ phải  mất nhiều năm.

 Họ buộc lòng phải thành lập các trạm giao dịch thực sự nhất là các chuyến đi biển về phía Đông của họ cũng cần được điều chỉnh theo gió mùa. Có những lúc họ phải chờ có đủ những sản phẩm hàng hóa hiếm có trước khi quay về Ấn Độ nên có thể mất cả năm nhất là phải đợi lúc thời tiết thuận tiện. Còn các thực phẩm mà họ cần dùng không thể vận chuyển trong những khoang tàu buộc lòng họ phải  nghĩ cách  bố trí các cánh đồng lúa ngập nước trên đất màu mỡ ở các đồng bằng châu thổ nơi họ đổ bộ để mua các sản phẩm hiếm có và nơi họ có thể dễ dàng canh tác nhất là họ rất sành sỏi trong kỹ thuật thoát nước và tưới tiêu (như ở  Phù Nam). Như vậy họ có thể quay về khi thu hoạch được thực hiện và các khoang tàu được chứa đầy.

Chính nhờ vậy mà tư tưởng Ấn Độ đã được đưa đến để bồi đắp toàn bờ biển phía nam của Đông Dương; từ đồng bằng ven biển An Nam đến đồng bằng Mã Lai và từ đồng Ménam đến đồng bằng sông Mê Kông. Cũng nhờ đó người dân miền Nam Đông Dương đã học được tất cả các yếu tố của một nền văn minh cao hơn: viết ngôn ngữ của họ bằng nhờ bảng chữ cái Ấn Độ, nó vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay ở các nước  Miến Điện, Thái Lan, Cao Miên và Ai Lao và dùng một dụng cụ vô song để suy nghĩ, đó là tiếng Phạn giống như  vai trò dùng tiếng La Tinh ở Châu Âu vào thời Trung Cổ. Các văn bản thiêng liêng, các sử thi của Ấn Độ  được đánh giá cao đến mức được du nhập vào mỗi quốc gia.

Ta còn chưa kể đến hiệu quả của các kỹ thuật khai thác đất đai và sản xuất thủ công và thiên văn học có khả năng tính toán lịch chính xác hơn bất kỳ các lịch nào mà ta biết đến, theo nhà khảo cổ Pháp Bernard Philippe Groslier. Chính Ấn Độ đã truyền bá không những hệ thống chính trị tập trung xung quanh nhà vua và tín ngưỡng tôn giáo mà luôn cả nghệ thuật.  

Các quốc gia này chưa bao giờ  tự  giam hảm mình trong một khuôn mẫu đóng kín và bất biến. Đông Nam Á sẽ được hình thành theo trường phái Bà La Môn thậm chí còn nhiều hơn theo mô hình Phật giáo. Trong những thế kỷ đầu của thời đại chúng ta, ở các quốc gia Ấn Độ Hóa, đồ đồng chỉ là những bản sao đơn giản và thuần túy của các tượng Phật Ấn Độ. Sau đó, giữa thế kỷ thứ  4 và thế kỷ thứ  5, các đồ đồng cho chúng ta thấy có sự tiến hóa và cách diễn giải riêng biệt, có thể xem đây là  các tác phẩm địa phương nhưng  vẫn còn chịu ảnh hưởng rõ ràng của Ấn Độ nhất là các trường phái phía bắc, điều này cũng rất bình thường nhất là có sự ưu việt của nền văn hóa Gupta ở thời kỳ này. Nổi tiếng nhất là bức tượng Phật bằng đồng tráng lệ được tìm thấy ở Đồng Dương,  miền trung Việt Nam và được lưu giữ tại Bảo tàng Quốc gia Sàigon ngày nay. Chúng ta cũng có thể trích dẫn những tượng được tạc giống nhau như vậy ở Thái Lan tại Korat và Nakon Pathom  (nền văn minh Môn Dvaravati).

Nhưng sau đó vào thế kỷ thứ 6 khi có những biến động chính trị và các cuộc xâm lăng man rợ cắt đứt con đường tơ lụa và gia vị khiến  người Ấn Độ không còn mạo hiểm phiêu lưu trên biển. Họ cũng không còn nhớ đến  sự tồn tại của các trạm giao dịch cũ của họ và trong các  văn bản của họ, sử thi thương mại  cũng được nhắc đến một cách qua loa. Sự xâm nhập và thẩm thấu của người Ấn Độ  hình như lúc nào cũng mang tính chất hoà bình và nhờ đó các cư dân sống ở bờ biển phía nam mới thoái khỏi sự cô lập và được hình thành dựa trên văn hóa của người Ân Độ mà tạo ra được  các  nền văn minh mới và độc đáo như nền văn minh Óc Eo, Angkor Wat hay Chămpa. Người Ấ Độ không hề đi kèm theo phương thức chinh phục và thôn tính như người Trung Hoa với Việt Nam ở Đông Dương. 

Qua truyền thuyết, nước ta khởi đầu có tên là Xích Qủy, một liên bang của người Bách Việt dưới quyền cai trị của Kinh Dương Vương Lộc Tục, cha của Lạc Long Quân ở phía nam sông Dương Tử (văn hóa Lương ChữThạch Gia Hà)  rồi sau đó có tên là Văn Lang của các vua Hùng đóng đô ở Phong Châu, có đất đai rộng lớn giáp ranh bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), đông giáp biển Nam Hải, tây nước Ba Thục (Tứ Xuyên). Nước Văn Lang bị thôn tính về sau bởi An Dương Vương, Thục Phán, người Tày ở Cao Bằng và trở thành sau đó vương quốc Âu Lạc đóng đô ở  Cổ Loa huyện Đông An, Hà Nội khoảng chừng 3 thế kỷ trước Công Nguyên. Rồi Âu Lạc bị thôn tín về sau bởi Triệu Đà, một tướng lãnh của nhà Tần (Trung Hoa) và người sáng lập ra nước Nam Việt. Mặc dầu có các cuộc nổi dậy của hai Bà Trưng năm 39-43  SCN (sau Công Nguyên), Bà Triệu  năm 225-248 SCN và Lý Bổn (Lý Nam Đế) năm 544 SCN, nước ta (Tonkin)  vẫn tiếp tục dưới ách thống trị của Trung Hoa cho đến  năm 938.

Người Hoa  cố tình hủy diệt các trống đồng của người Việt để có thể đồng hóa được người dân Việt. Sự Hán hóa do đó lan truyền bằng  cách hành động gương mẫu mà cũng bằng  cách dùng vũ lực ense et aratro: bằng kiếm và lưỡi cày giống như cách người La Mã khuất phục châu Âu. Đất nước ta (Giao Chỉ)  được tổ chức theo mẫu hình Trung Quốc: tỉnh, quận, phủ tạo thành khuôn khổ hành chính, nơi có quyền lực và thậm chí cả quyền lực cao nhất được giao phó cho người bản xứ nhưng được thực thi theo luật lệ Trung Quốc và tất cả đều tùy thuộc ở hoàng đế, người có thẩm quyền tối cao. Tiếng Hán trở thành ngôn ngữ chính thức và được sử dùng từ nay ở khắp  đất nước.

 Việt Nam tuy là một tỉnh lị của Trung Hoa vào thời đó (từ -111 đế n 938) nhưng Việt Nam vẫn còn là một trạm tiếp nối thật sự giữa Trung Hoa và Ấn Độ. Việt Nam được tiếp thu rất sớm Phật pháp từ đầu thế kỷ thứ nhất của kỷ nguyên Tây lịch vì Việt Nam nằm ở bên cạnh các nước như Phù Nam và Chiêm Thành thường thông dùng chữ Phạn của các kinh Phật và còn đươc các thương gia Ấn Độ ở lại để nghĩ, cung cấp và trao đổi hàng hóa. Chính vì vậy Phật giáo ở Giao Châu do từ Ấn Độ truyền sang trực tiếp chớ không phải đến từ Trung Hoa.

Nói tóm lại, việc Hán Hóa nhằm để mở rộng đế chế Trung Hoa chớ có bao giờ người Hoa nghĩ rằng việc Hán Hóa  Việt Nam sẽ gieo mầm cho sự tiến hóa tiếp theo của toàn cả Đông Dương. Người Hoa  muốn tạo con người Việt theo hình ảnh của họ  nhưng họ đâu ngờ  họ  biến  người dân Việt thành một dân tộc kiên trì, sẳn sàng chờ đợi thời điểm thích hơp để dành lại độc lâp nhất là họ đến từ văn hóa rực rỡ Lương Chữ và Thạch Gia Hà và thông thạo binh pháp của Tôn Tử cũng như người Hoa. 

Được xem như những người báo hiệu của nền văn hóa Trung Hoa, người dân Việt chinh phục về sau  bán đảo, đồng hóa và sau đó tiêu diệt các  nước Ấn Độ hóa (Chân Lạp, Chiêm Thành) một cách triệt để giống như cách họ đã bị  thôn tính  bởi  người Trung Hoa lúc ban đầu.

Bởi vậy ta thường nghe câu nói của các nhà khảo cổ về bán đảo Đông Dương như sau: Trung Quốc thống trị và đồng hóa, Ấn Độ gieo mầm của những bông hoa nhân văn phong phú. Đông Dương đã có thể hưởng lợi từ những bài học của những bậc thầy vô song Trung Quốc và Ấn Độ, mỗi nước để lại cho bán đảo một hệ thống chính trị và một dấu ấn riêng  biệt và khó phai mờ theo dòng lịch sử.

Từ đó bán đảo mới có tên là Đông Dương do nhà địa lý người Pháp-Đan Mạch Conrad Malte-Brun đề xướng nhưng đọc giả đừng có  nhầm lẫn với Đông Dương thuộc Pháp.(Indochine Française)

Version française

Le terme « Indochine » a été utilisé pour la première fois par le géographe franco-danois Conrad Malte-Brun (1775-1826) dans son œuvre intitulé « Précis de la Géographie Universelle », publié à Paris en 1810. C’est également ainsi que le géographe français désignait l’influence de deux cultures importantes, l’Inde et la Chine, sur les peuples et les nations de l’Asie du Sud-Est continentale (Birmanie, Cambodge, Laos, une partie de la Malaisie, Singapour,  Thaïlande et Vietnam). Les données archéologiques montrent qu’à partir du Ier siècle de notre ère, les Indiens ont commencé à utiliser des bateaux pour longer les côtes de l’Asie du Sud-Est jusqu’aux îles de la Sonde.

La cause de ces aventures maritimes n’était pas seulement due à la prédication du bouddhisme, car ces Indiens étaient pour la plupart des marins de la région d’Amaravati, dévots du Bouddha Dipankara, qui les protégeait des dangers de la mer, mais aussi au commerce, en particulier au navigateur grec Hippale, qui découvrit la rotation périodique des moussons vers le milieu du premier siècle après J.-C., ce qui conduisit à la croissance miraculeuse du commerce maritime entre l’Inde et les ports de la mer Rouge, porte d’entrée de l’Occident.

À cette époque, l’empereur Auguste de la luxueuse cité romaine, souhaitait s’approvisionner en or et en produits d’Inde, tels que le bois d’aigle, la cannelle, le poivre, le clou de girofle, la cardamome, la corne de rhinocéros et l’ivoire. L’Inde entretenait alors des relations commerciales directes avec le Moyen-Orient et indirectes avec les pays méditerranéens, comme l’Empire romain.

Malheureusement, ces produits se raréfièrent dans le sous-continent indien, obligeant ainsi les habitants de ce pays à les rechercher de loin et à tout prix. Lorsqu’ils approchèrent des rivages étranges de l’Asie du Sud-Est, ils durent s’enfoncer dans les terres à travers une végétation étouffante pour atteindre les premiers habitants des hautes terres. Il leur fallut convaincre ces derniers de leur fournir les articles dont ils avaient besoin et négocier des prix équitables. Tout cela leur prit de nombreuses années.

Ils furent contraints d’établir de véritables comptoirs commerciaux, d’autant plus que leurs voyages maritimes vers l’Est devaient être modulés en fonction des moussons. Il leur fallait parfois attendre l’arrivée de denrées rares avant de rentrer en Inde, ce qui pouvait prendre une année entière, surtout si le temps était favorable. Quant à la nourriture dont ils avaient besoin, impossible à transporter dans les cales des navires, ils furent contraints de penser à mettre en place des rizières inondées sur les terres fertiles des deltas où ils débarquaient pour acheter des denrées rares et où ils pouvaient les cultiver plus facilement, car ils maîtrisaient parfaitement les techniques de drainage et d’irrigation (comme au Funan). De cette façon, ils pouvaient rentrer lorsque la récolte était terminée et que les cales étaient bien remplies.

C’était ainsi que les idées indiennes ont été introduites et ont fertilisé toute la côte sud de l’Indochine, des plaines côtières d’Annam à celles de la Malaisie, du delta du Ménam à celui du Mékong. C’est aussi par ce biais que les peuples du sud de l’Indochine ont appris tous les éléments d’une civilisation supérieure: ils ont écrit leur langue grâce à l’alphabet indien, qui existe encore aujourd’hui en Birmanie, en Thaïlande, au Cambodge et au Laos, et ils ont utilisé un instrument incomparable à penser, le sanscrit, similaire au rôle du latin en Europe moyenâgeuse. Les textes sacrés, les épopées de l’Inde, étaient si prisés qu’ils ont été introduits dans chaque pays.

On oublie de parler de l’efficacité des techniques d’aménagement du territoire, de l’artisanat et de l’astronomie, permettant de calculer les calendriers avec une précision inégalée, selon l’archéologue français Bernard Philippe Groslier. C’est aussi l’Inde qui a propagé non seulement un système politique centré autour du roi et des croyances religieuses, mais aussi les arts.

Ces nations ne se sont jamais cantonnées à un modèle fermé et immuable. L’Asie du Sud-Est sera davantage façonnée par l’école brahmanique que par le modèle bouddhiste. Aux premiers siècles de notre ère, dans les pays indianisés, les bronzes étaient de simples et pures copies des images du Bouddha indien.

Puis, entre le IVe et le Ve siècle, les bronzes témoignent d’une évolution et d’une interprétation distinctes. On peut les considérer comme des œuvres locales, mais toujours clairement influencées par l’Inde, notamment par les écoles du Nord, ce qui est d’ailleurs tout à fait normal compte tenu de la prédominance de la culture Gupta à cette époque. Le plus célèbre est le magnifique Bouddha en bronze découvert à Đồng Dương au centre du Vietnam, et conservé aujourd’hui au Musée national de Saïgon. On peut également citer des sculptures similaires en Thaïlande, à Korat et Nakon Pathom (civilisation Môn Dvaravati).

Mais au VIe siècle, lorsque les bouleversements politiques et les invasions barbares coupèrent les routes de la soie et des épices, les Indiens cessèrent de s’aventurer en mer. Ils oublièrent également l’existence de leurs anciens comptoirs commerciaux et, dans leurs écrits, l’épopée du commerce fut également évoquée d’une manière sommaire. La pénétration et l’influence des Indiens semblèrent toujours pacifiques, ce qui permit aux habitants de la côte sud de sortir de l’isolement et de créer ainsi des civilisations nouvelles et uniques comme Oc Eo, Angkor Vat ou Champa en se formant à partir de leur culture. Ils n’ont pas suivi la méthode de conquête et d’annexion comme les Chinois avec le Vietnam en Indochine.

Selon la légende, notre pays s’appelait à l’origine Xích Qủy (Pays des démons rouges), une fédération des Bai Yue sous le règne de Kinh Dương Vương (ou Lộc Tục) , père de Lạc Long Quân au sud du fleuve Yangtze (cultures de Lianzhou et Shijiahé). Puis il fut nommé d’abord Văn Lang des rois Hùng avec la capitale se trouvant à Phong Châu et ayant un grand territoire bordé au nord par le lac Dong Dinh, au sud par le pays Hồ Tôn (Champa), à l’est par la mer de Chine méridionale et à l’ouest par le royaume Ba Thục (Sichuan). Il fut annexé ensuite par An Dương Vuong, de nom Thục Phán issu des  minorités Tày à Cao Bằng et devint plus tard le royaume Âu Lạc dont la capitale se trouvait à Cổ Loa, dans le district de Đồng An, Hanoï vers 3 siècles avant J.C.

Ce dernier fut ensuite annexé par Zhao To (Triệu Đà), un général de la dynastie des Qin (Chine) et fondateur du royaume Nan Yue. Malgré les soulèvements des deux sœurs Trưng (39-43 apr. J.-C.),  Dame Triệu (225-248 apr. J.-C.) et de Lý Bổn (ou  roi Lý Nam Đế) en 544 apr. J.-C., notre pays (le Tonkin) resta sous domination chinoise jusqu’en 938.

Les Chinois détruisirent délibérément tous les tambours de bronze vietnamiens afin d’assimiler le peuple vietnamien. La sinisation s’étendit ainsi par l’exemple autant que par la force, ense et aratro : par le glaive et le soc de charrue, exactement de la même façon que les Romains soumirent l’Europe. Notre pays (Jiaozhi) était organisé selon le modèle chinois : provinces, districts et préfectures formaient le cadre administratif, où le pouvoir, et même le plus haut, était confié aux autochtones, mais il s’exerçait selon la loi chinoise et dépendait entièrement de l’empereur représentant l’autorité suprême. Le chinois devint la langue officielle et fut désormais utilisé dans tout le pays.

Bien que le Vietnam fût le protectorat chinois (de -111 à -938), il était pourtant le véritable relais entre la Chine et l’Inde. L’implantation du bouddhisme fut très tôt dans ce pays au début de l’ère chrétienne car le Vietnam était non seulement à côté des pays se servant de sanskrit pour les textes bouddhiques comme le Founan (Phù Nam) et le Champa mais aussi le point de passage obligatoire pour les commerçants indiens. Ceux-ci avaient besoin de se reposer, approvisionner la nourriture et échanger les marchandises.

En somme, la sinisation visait à agrandir l’empire chinois, mais les Chinois n’ont jamais pensé que la sinisation du Vietnam allait semer les graines de l’évolution future de l’Indochine tout entière. Les Chinois voulaient créer le peuple vietnamien à leur image, mais ils ne s’attendaient pas à ce qu’ils transformaient, les Vietnamiens en un peuple opiniâtre, prêt à attendre le moment propice pour recouvrer son indépendance, d’autant plus qu’ils étaient issus de la brillante culture de Liangzhu et qu’ils connaissaient parfaitement l’art de guerre de Sun Tzu comme eux.

Étant considérés comme les fourriers de la culture chinoise, les Vietnamiens vont gagner la péninsule, assimiler puis détruire les pays indianisés (Chenla, Champa) aussi radicalement qu’ils avaient été eux-mêmes conquis par les Chinois en premier lieu.

C’est pourquoi les archéologues sont habitués à faire la remarque suivante à propos de la péninsule indochinoise: la Chine a dominé et assimilé, l’Inde a semé les germes des plus riches floraisons humanistes. L’Indochine a pu bénéficier des leçons des maîtres incomparables de la Chine et de l’Inde, qui ont laissé chacun, un système politique et une empreinte distincte et indélébile au fil des siècles.

 

Dès lors, la péninsule fut nommée Indochine par le géographe franco-danois Conrad Malte-Brun, mais les lecteurs ne doivent pas la confondre avec l’Indochine française.

English version

The term “Indochina” was first used by the Franco-Danish geographer Conrad Malte-Brun (1775-1826) in his work entitled “Précis de la Géographie Universelle” (Summary of Universal Geography), published in Paris in 1810. This is also how the French geographer referred to the influence of two important cultures, India and China, on the peoples and nations of mainland Southeast Asia (Burma, Cambodia, Laos, a part of Malaysia, Singapore, Thailand, and Vietnam). Archaeological data show that from the 1st century AD, Indians began to use boats to sail along the coasts of Southeast Asia to the Sunda Islands.

The cause of these maritime ventures was not only due to the preaching of Buddhism, as these Indians were mostly sailors from the Amaravati region, devotees of the Buddha Dipankara, who protected them from the dangers of the sea, but also to trade, particularly to the Greek navigator Hippalus, who discovered the periodic rotation of the monsoons around the middle of the first century AD, which led to the miraculous growth of maritime trade between India and the ports of the Red Sea, the gateway to the West.

At that time, Emperor Augustus of the luxurious Roman city wished to procure gold and products from India, such as eaglewood, cinnamon, pepper, clove, cardamom, rhinoceros horn, and ivory. India then maintained direct trade relations with the Middle East and indirect ones with Mediterranean countries, such as the Roman Empire. Unfortunately, these products became scarce in the Indian subcontinent, forcing the inhabitants of this country to seek them from afar and at any cost. When they approached the strange shores of Southeast Asia, they had to venture inland through dense vegetation to reach the first inhabitants of the highlands. They had to convince the latter to supply them with the items they needed and negotiate fair prices. All this took them many years.

They were forced to establish genuine trading posts, especially since their maritime voyages to the East had to be adjusted according to the monsoons. Sometimes they had to wait for the arrival of rare goods before returning to India, which could take an entire year, particularly if the weather was favorable. As for the food they needed, which was impossible to transport in the ship’s holds, they were compelled to consider setting up flooded rice paddies on the fertile lands of the deltas where they landed to buy rare goods and where they could cultivate them more easily, as they had mastered drainage and irrigation techniques perfectly (as in Funan). In this way, they could return when the harvest was finished and the holds were well filled.

This is how Indian ideas were introduced and fertilized the entire southern coast of Indochina, from the coastal plains of Annam to those of Malaysia, from the Menam delta to that of the Mekong. It is also through this channel that the peoples of southern Indochina learned all the elements of a superior civilization: they wrote their language using the Indian alphabet, which still exists today in Burma, Thailand, Cambodia, and Laos, and they used an incomparable instrument for thinking, Sanskrit, similar to the role of Latin used in medieval Europe. The sacred texts, the epics of India, were so prized that they were introduced into every country.

We forget to talk about the effectiveness of land management techniques, craftsmanship, and astronomy, which allowed calendars to be calculated with unparalleled precision, according to the French archaeologist Bernard Philippe Groslier. It is also India that spread not only a political system centered around the king and religious beliefs but also the arts.

These nations never confined themselves to a closed and immutable model. Southeast Asia would be shaped more by the Brahmanical school than by the Buddhist model. In the early centuries of our era, in the Indianized countries, the bronzes were simple and pure copies of Indian Buddha statues.

Then, between the 4th and 5th centuries, the bronzes show an evolution and a distinct interpretation. They can be considered local works, but still clearly influenced by India, particularly by the Northern schools, which is quite normal given the predominance of Gupta culture at that time. The most famous is the magnificent bronze Buddha discovered in Đồng Dương in central Vietnam, now preserved at the National Museum of Saigon. Similar sculptures can also be found in Thailand, in Korat and Nakon Pathom (Mon Dvaravati civilization).

But in the 6th century, when political upheavals and barbarian invasions cut off the silk and spice routes, the Indians stopped venturing out to sea. They also forgot the existence of their ancient trading posts, and in their writings, the epic of commerce was only mentioned in a summary manner. The penetration and influence of the Indians always seemed peaceful, which allowed the inhabitants of the southern coast to come out of isolation and thus create new and unique civilizations such as Oc Eo, Angkor Wat, or Champa, forming from Indian culture. The Indians did not follow the method of conquest and annexation like the Chinese did with Vietnam in Indochina.

According to legend, our country was originally called Xích Qủy (Land of the Red Demons), a federation of the Bai Yue under the reign of Kinh Dương Vương (or Lộc Tục), father of Lạc Long Quân, south of the Yangtze River (Lianzhou and Shijiahé cultures). Then it was first named Văn Lang under the Hùng kings, with the capital located at Phong Châu and a large territory bordered to the north by Dong Dinh Lake, to the south by the Hồ Tôn country (Champa), to the east by the South China Sea, and to the west by the Ba Thục kingdom (Sichuan). It was later annexed by An Dương Vương, named Thục Phán from the Tày people in Cao Bằng, and later became the Âu Lạc kingdom with its capital at Cổ Loa, in the Đồng An district, Hanoi, around the 3rd century BC.

The latter was then annexed by Zhao To (Triệu Đà), a general of the Qin dynasty (China) and founder of the Nanyue kingdom. Despite the uprisings of the Trưng sisters (39-43 AD), Dame Triệu (225-248 AD), and Lý Bổn (or Lý Nam Đế) in 544 AD, our country (Tonkin) remained under Chinese domination until 938.

The Chinese deliberately destroyed all Vietnamese bronze drums in order to assimilate the Vietnamese people. Sinicization thus spread both by example and by force, ense et aratro: by the sword and the plowshare, exactly in the same way the Romans subdued Europe. Our country (Jiaozhi) was organized according to the Chinese model: provinces, districts, and prefectures formed the administrative framework, where power, even the highest, was entrusted to the locals, but it was exercised according to Chinese law and depended entirely on the emperor representing the supreme authority. Chinese became the official language and was henceforth used throughout the country.

Although Vietnam was a Chinese protectorate (from 111 BC to 938 AD), it was nonetheless the true link between China and India. Buddhism was established very early in this country at the beginning of the Christian era because Vietnam was not only adjacent to the countries using Sanskrit for Buddhist texts such as Funan (Phù Nam) and Champa but also the mandatory passage point for Indian merchants. They needed to rest, supply food, and exchange goods.

In short, sinicization aimed to expand the Chinese empire, but the Chinese never thought that the sinicization of Vietnam would sow the seeds of the future evolution of the entire Indochina. The Chinese wanted to create the Vietnamese people in their own image, but they did not expect that they would transform the Vietnamese into a stubborn people, ready to wait for the right moment to regain their independence, especially since they came from the brilliant Liangzhu culture and were as well versed in Sun Tzu‘s art of war as they were.

Being considered as the suppliers of Chinese culture, the Vietnamese would enter the peninsula, assimilate, and then destroy the Indianized countries (Chenla, Champa) as radically as they themselves had first been conquered by the Chinese.

This is why archaeologists are accustomed to making the following observation about the Indochinese peninsula: China dominated and assimilated, India sowed the seeds of the richest humanistic flourishing. Indochina was able to benefit from the lessons of the incomparable masters of China and India, each of whom left behind a  political system and  a distinct and indelible imprint over the centuries.

From then on, the peninsula was named Indochina by the Franco-Danish geographer Conrad Malte-Brun, but readers should not confuse it with French Indochina.

 Bibiographie:

Georges Cœdès : Cổ sử các quốc gia Ấn Độ Hóa ở Viễn Đông. Nhà Xuất Bản Thế Giới 2011
Bernard Groslier : Indochine. Carrefour des Arts. Editions Albin Michel 1960.

 

La chauve-souris dans l’art de Huế ( Dơi trong mỹ thuật cung đình Huế)

La chauve-souris dans l’art de Huế

The bat in Hue art

Version française
Version anglaise
Galerie des photos

Được biết đến với tên khoa học (Chiroptera), dơi là một loài động vật có nhau thai được đặc đứng  sau các loài gặm nhấm. Đối với người phương Tây, sở thích của dơi  sống trong bóng tối và ban đêm  được xem  là một điềm xấu. Nó còn thuộc các thú vật của Satan mà  Giáo hội chỉ định. Chúng ta thường thấy nó dang rộng hai cánh với  khuôn mặt nhăn nhó trên đỉnh nhà thờ như một người bảo vệ có chức năng xua đuổi tà ma. Đôi khi nó được coi là một con chuột biết bay (thiên thử hay chuột nhà trời) hoặc một con én bay trong đêm (chim nhạn bay đêm, phi thử). Dơi là loài động vật thường được coi là loài vật có tính xảo quyệt và tinh quái trong các truyền thuyết phương Đông.

Trong  tiếng Hán Việt dơi tên là ‘bức(), được  đọc gần giống chữ ‘phúc’ (), từ đó người ta dùng hình ảnh con vật này để chỉ ‘phúc đức’. Khi minh họa bằng hình 5 con dơi thì có hàm ý chỉ ngũ phúc: (1) Phú  nghĩa là giàu, (2) khang ninh 安寧 là yên lành, mạnh khỏe (3) Thọ  là sống lâu (4) hảo đức 好德 là có đức tốt (5) khảo chung mạng 考終命 là hưởng trọn tuổi trời.

Theo  cố cả Léopold Cadière, trong nghệ thuật  Huế, chúng ta thường thấy sự kết hợp của nhiều họa tiết theo nhiều cách khác nhau. Đôi khi chỉ là một sự kết hợp đơn giản: con dơi ẩn núp trong góc sẽ lướt đôi cánh qua những đường cong uốn lượn hồi văn, hoặc những biểu tượng của sự trường thọ và hạnh phúc sẽ được áp dụng cho một cành mận, một bông hoa mẫu đơn vân vân . Những sự kết hợp này không phải do ngẫu nhiên hay ý thích của nghệ sĩ. Thậm chí đối với một số chủ đề nhất định, còn có một quy tắc rất nghiêm ngặt, những liên kết gần như không thể tách rời.

Đây là trường hợp của hình ảnh con dơi với các họa tiết thường có lối chơi chữ. Thường nhất là với chữ ‘phúc’ nhưng cũng có khi đi với chữ ‘khánh’ ( có nghĩa là ‘chúc mừng’) thay cho lời cầu chúc phúc. Khánh lại có thêm âm là ‘khương’ có nghĩa là phúc. Âm khánh lại có chữ viết là , chỉ một món nhạc khí quý trong cung đình, thế là có họa tiết con dơi ngậm chiếc khánh có hai quả tua; hình này có tên ‘phúc khánh’ với ý chúc mừng hưởng phúc an lạc và thịnh vượng.Thay cho khánh ngọc hay chữ thọ, con thấy hình con dơi ngậm một giõ hoa. Giõ hoa là một món trong ‘bát bửu’ nên hàm chỉ sự vui hưởng hạnh phúc (hình CLXXXIV).

Về mặt trang trí con dơi hay có kèm theo hai quả tua, gọi là họa tiết ‘dơi tua’, nhưng hình như hai quả tua đó chẳng mang một ý nghĩa sâu xa nào ngoài sự trang trí. (hình CLXXXI, …) Dơi có thể được biến cách từ lá, họi là lá hóa phúc, từ hoa mai gọi là mai hóa phúc, từ sen gọi là liên hóa phúc, từ quả gọi là quả hóa phúc; nhưng chủ yếu là từ hình hồi văn có tô điểm thêm hia lá gọi là hồi văn hóa phúc. Tùy theo ngẫu hứng người nghệ sĩ còn cho con dơi đi chung với rồng. Một vài chỗ thấy dơi xuất hiện ngay giữa tấm chi tiết của đồ gỗ, nhưng thường thì nằm ở các góc và giang cánh rất trang nhã.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Thông,  dơi được xem là mẫu hình được sử dụng nhiều nhất trong mỹ thuật Huế. Nhiều đến mức cảm nhận thấy có sự lạm dụng (tr. 144).

 Nhưng nhờ cấu trúc thân hình với đôi cánh rộng, điều nầy cho phép nó nêu bật vẻ đẹp cân đối mẫu mực và tạo ra nên một hình mẫu hoàn hảo về mặt thiết kế và sống động trong mỹ thuật  Huế.

Étant connu sous le nom scientifique (Chiroptera), la chauve-souris est un animal placentaire  placé derrière les rongeurs. Pour les Occidentaux,  sa préférence de vivre dans les ténèbres et  la nuit est perçue comme un mauvais présage.  Elle fait partie du bestiaire satanique  désigné par l’Eglise. On est habitué à la voir étendre ses deux ailes et son visage grimaçant  au sommet des églises comme le gardien ayant pour fonction de repousser le Mal. Parfois on la considère comme un rat volant (thiên thử hay chuột nhà trời) ou  une hirondelle volant dans la nuit (chim nhạn bay đêm, phi thử). La chauve-souris est l’animal fréquemment considéré dans les légendes orientales comme l’animal ayant le caractère rusé et espiègle.

Étant un nom sino-annamite ‘bức’ (蝠) et se prononçant de la même manière que le mot  ‘phúc’ (), on est convenu à prendre la figure de l’animal pour exprimer le bonheur. C’est pourquoi  la chauve-souris joue un grand rôle dans l’art vietnamien, surtout  dans l’art de Huế car elle est le symbole de bonheur.  On a l’habitude de grouper ensemble cinq chauve-souris (ngũ phúc) pour faire allusion à un bonheur parfait: (1) Phú 富, richesse ; (2) khang ninh 安寧 là yên lành, la paix et la santé ; (3) Thọ 壽 là sống lâu, une longue vie ; (4) hảo đức 好德 là có đức tốt, l’amour de la vertu ;  (5) khảo chung mạng 考終命 là hưởng trọn tuổi trời, une mort naturelle  à un âge avancé.

Selon le prêtre missionnaire Léopold Cadière, dans l’art de Huế, on voit souvent l’association de plusieurs motifs se produire de façons diverses. Tantôt il y a une simple association: la chauve-souris, tapie dans un angle, glissera ses ailes à travers les méandres de la grecque, ou bien les caractères de la longévité et du bonheur  seront appliqués  sur une branche de prunier, sur une fleur de pivoine etc. Ces associations ne sont pas livrées au hasard ou au caprice de l’artiste. Il y a même pour certains sujets, un code très sévère, des alliances quasi indissolubles.

C’est le cas de l’image de la chauve-souris avec un jeu de mots multiple suivant. Au mot phúc « bonheur » est souvent associé  dans le langage ou en littérature, le mot khánh qui a un sens analogue « bonheur et félicitations  résultant d’une faveur reçue » Le mot khánh, à son tour, est également la prononciation du caractère , désignant  un lithophone dans la cour royale. Il s’agit bien de la représentation d’une chauve-souris tenant dans sa gueule un lithophone agrémenté de deux glands.  Ce dessin se lira « phúc khánh », ce qui signifie « bonheur et félicité ».

Au lieu du tam-tam en pierre ou du caractère de la longévité, la chauve-souris tient parfois suspendue à sa bouche une corbeille de fleurs. C’est un des « huit joyaux » ; nous l’avons vu, symbole de jouissances et de bonheur.

Au point de vue décoratif, la chauve-souris est souvent munie de deux longs glands, dơi tua qui n’ont, semble-t-il, aucun sens figuré. Elle peut se transformer en feuille, lá hóa phúc; en fleurs de pruniers, mai hóa phúc; en nénuphar, sen hóa phúc; en fruit  quả hóa phúc; mais surtout en grecque, avec ou sans feuilles,  hồi văn hóa phúc. La fantaisie de l’artiste se donne libre carrière avec elle, autant qu’avec le dragon.  Elle coupe parfois le centre d’un panneau, mais le plus souvent, elle se tapit dans les encoignures, que ses ailes garnissent avec élégance.

Selon le chercheur Nguyễn Hữu Thông, la chauve-souris est considérée comme le modèle le plus employé dans l’art de Huế. On a l’impression d’en abuser. (p144).

Mais grâce à la structure corporelle de la chauve-souris avec de larges ailes, cela lui permet de révéler la beauté de l’équilibre  exemplaire et créer un modèle parfait dans la conception et vivace dans l’art de Huế.

 

Known by its scientific name (Chiroptera), the bat is a placental animal  ranked behind rodents. For Westerners, its preference for living in darkness and  at night is seen as a bad omen.  It is part of the satanic bestiary  designated by the Church. We are used to seeing them spread their wings and grimace at the top of churches as guardians whose job is to ward off evil. Sometimes they are considered flying rats (thiên thử hay chuột nhà trời) or swallows flying in the night (chim nhạn bay đêm, phi thử). The bat is frequently considered in Eastern legends to be an animal with a cunning and mischievous character.

Being a Sino-Annamite name ‘bức’ (蝠) and pronounced in the same way as the word ‘phúc’ (福), it was agreed to use the figure of the animal to express happiness. This is why the bat plays an important role in Vietnamese art, especially in the art of Huế, as it is a symbol of happiness. It is customary to group five bats (ngũ phúc) together to allude to perfect happiness: (1) Phú 富, wealth; (2) khang ninh 安寧 là yên lành, peace and health; (3) Thọ là sống lâu, long life; (4) hảo đức 好德 là có đức tốt, love of virtue; (5) khảo chung mạng 考終命 là hưởng trọn tuổi trời, a natural death at an advanced age.

According to missionary priest Léopold Cadière, in Huế art, we often see several motifs combined in various ways. Sometimes there is a simple combination: a bat, lurking in a corner, will slide its wings through the meanders of a Greek key pattern, or the characters for longevity and happiness will be applied to a plum branch, a peony flower, etc. These combinations are not left to chance or the whim of the artist. For certain subjects, there is even a very strict code, with almost indissoluble alliances.

This is the case with the image of the bat, which has multiple puns associated with it. The word phúc, meaning “happiness,” is often associated in language and literature with the word khánh , which has a similar meaning: “happiness and congratulations resulting from a favor received.” .“ The word khánh, in turn, is also the pronunciation of the character , referring to a lithophone in the royal court. It is indeed a representation of a bat holding a lithophone decorated with two tassels in its mouth. This drawing can be read as ”phúc khánh,“ which means ”happiness and bliss. »

Instead of the stone tam-tam or the character of longevity, the bat sometimes holds a basket of flowers in its mouth. This is one of the “eight jewels”; as we have seen, it is a symbol of pleasure and happiness.

From a decorative point of view, the bat is often depicted with two long tassels, dơi tua, which seem to have no figurative meaning. It can be transformed into a leaf, lá hóa phúc; into plum blossoms, mai hóa phúc; into a water lily, sen hóa phúc; into fruit, quả hóa phúc; but above all into a Greek key, with or without leaves, hồi văn hóa phúc. The artist’s imagination runs wild with it, as much as with the dragon. It sometimes cuts through the center of a panel, but more often than not, it lurks in the corners, which its wings elegantly adorn.

According to researcher Nguyễn Hữu Thông, the bat is considered the most commonly used motif in Huế art. It seems to be overused. (p144).

But thanks to the bat’s body structure with large wings, it allows him to reveal the beauty of exemplary balance and create a perfect model in design that is enduring in Huế art.


Galerie des photos

Bibliographie:

Léopold Cadière: L’Art à Huế. Nouvelle édition Association des Amis du Vieux Huế.

Nguyễn Hữu Thông: Mỹ Thuật Huế. Nhìn từ góc độ ý nghĩa và biểu tượng trang trí.
                               Nhà Xuất Bản Thế Giới

[Return Art de Huế]

La reine douairière Ỷ Lan (Thái Hậu Ỷ Lan)

(1073-1117) 

Version française
Version anglaise

Ỷ Lan là một phụ nữ rất nổi tiếng  trong lịch sử phong kiến dưới triều đại nhà Lý của nước ta nhất là cuộc đời của bà rất gắn bó với sự nghiệp của hai ông vua kiệt xuất là Lý Thánh Tông chồng bà và Lý Nhân Tông, con của bà. Bà còn để lại cho hậu thế ngày nay nhiều điểm cần làm  rõ nhất là vẫn gọi bà là Ỷ Lan. Qua các bộ sử như Việt Sử lược (thế kỷ 14),  Đại Việt sử ký toàn Thư (thế kỷ 15), thì tác gỉả chỉ ghi bà là Lê Thị Yến nhưng theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn trong cuốn Mông Khê bút đàm  của một tác giả người Hoa đời  nhà Tống tên là Thẩm Hoạt  thì có nói tới Lê Thị Yến tức là Ỷ Lan nhưng ông không khẳng định Lê Thị Yến là tên thật của bà trong sách viết về Lý Thường Kiệt và cho rằng chữ Yến ở đây ghi theo âm Trung Quốc. Theo truyện thơ nôm của tác giả Trương Thị Ngọc Trong, một cung tần của chúa Trịnh Cương  thì có cho biết rõ ràng tên thật của bà là Lê Thị Khiết. Quê bà ở hương Thổ Lỗi, tỉnh Hưng Yên. Bà có dáng vẻ đẹp từ lúc nhỏ. Khi được 12 tuổi thì mẹ qua đời. Vài năm sau đó thân phụ bà, người có học vấn và làm quan ở công đường, lấy vợ kế rồi cũng tạ thế. Từ đó  bà sống với  bà mẹ kế, hai mẹ con nương tựa nhau.

Trong dân gian chỉ biết đang lúc vua Lý Thánh Tông được 40 tuỗi chưa có con nên đi ngang qua hương của bà để cầu tự ở các chùa. Trai gái nô nức đổ ra xem còn nàng thì dựa vào gốc lan mà điềm nhiên  tiếp tục hái dâu. Vua  lấy làm lạ bèn cho người đòi nàng đến trước mặt  để hỏi về sự dửng dưng nầy.Trước sự đối đáp cùng  cử chỉ đoan trang dịu dàng và khuôn mặt xinh đẹp, vua động lòng yêu thương nên cho nàng theo long giá về cung và phong cho nàng  từ  nay làm Ỷ Lan phu nhân (1063), Ỷ Lan là có nghĩa là dựa gốc lan.

Vài năm sau, Ỷ Lan sinh một cậu trai tên là Lý Càn Đức. Vua Lý Thánh Tông vô cùng vui mừng  và lập Càn Đức làm hoàng thái tử  tức là Lý Nhân Tông về sau và phong Ỷ Lan làm Thần phi. Năm 1068, Ỷ Lan lại sinh thêm một người con trai tức là hoàng tử Minh Nhân Vương. Sau đó bà được gia phong Ỷ Lan  Nguyên phi  tức là bà đứng trước các phi trong cung và chỉ đứng sau hoàng hậu Thượng Dương  lúc bấy giờ. Từ nay bà trở thành một nhân vật mà được sử nước ta nhắc đến nhiều  dưới triều Lý  qua việc nhiếp chính của bà lúc vua Lý Thánh Tông xuất quân đi  đánh  Chiêm Thành. Sự kiện nầy cho thấy Ỷ Lan phải có tài năng để  thay thế vua cai trị đất nước. Khi vua không  giành được phần thắng lợi  lần đầu, buộc lòng ngài phải đem quân trở về đến châu Cư Liên nhưng  khi nghe tin Nguyên phi Ỷ Lan giúp việc nội trị, cảm hóa được lòng dân vui vẻ nên ngài mới nghĩ bụng: người đàn bà còn làm được như thế mà mình đi đánh Chiêm Thành không thành công, thế ra đàn ông hèn lắm à!.  Ngài bèn quyết định trở lại đánh phá kinh  đô Phật Thệ (Vijaya)(Bình Định)  bắt cho được Rudravarman III (Chế  Củ) mang về triều cùng 5000  tù binh Chàm khiến Chế Củ xin dân ba châu để chuộc tội.

Có một lần vua Lý Thánh Tôn hỏi bà về việc trị quốc mà sử chép lại như sau: Muốn nước giàu dân mạnh, đều quan trọng là phải biết nghe lời can của đấng trung thành.Tuy lời nói ngay thẳng khó nghe chướng tai nhưng cho việc làm có hữu ích. Thuốc đắng khó uống nhưng nó chữa được bệnh.

Qua các sự kiện nầy, chúng ta nhận thấy Nguyên phi Ỷ Lan xuất thân từ một cô thôn nữ nhà nghèo mà trở thành một người  điều hành tài ba trong lúc nhiếp chính thì  chắc chắn phải  có tầm hiểu biết  sâu rộng. Chính bà tự rèn luyện để học hỏi  và để có được một kiến thức uyên thâm. Bà còn giữ một vai trò cực kỳ quan trọng và có một ảnh hưởng không nhỏ dưới triều đại  của vua Lý Thánh Tông.

Khi vua Lý Thánh Tông qua đời ở tuổi 50 thì theo phong tục triều đình phong kiến, tân vương Lý Càn Đức mới được 7 tuổi nên cần có Thái hậu  buông rèm nhiếp chính dù người đó có phải mẹ ruột của vua hay không, chỉ là hoàng hậu của vua Lý Thánh Tông. Bởi vậy hoàng hậu Thượng Dương  được phong làm Thái Hậu còn Ỷ Lan chỉ được phong làm Thái Phi, bà đứng sau Thái Hậu dù bà là mẹ ruột của vua Lý Càn Đức. Chính vì thế mới xảy ra chuyện tranh giành quyền lực khốc liệt  ở hậu cung.

Phe Thượng-Dương thái hậu được thái sư Lý Đạo Thành ủng hộ. Nhưng 4 tháng sau khi Nhân Tông lên ngôi, phe theo thái phó Lý Thường Kiệt đắc thắng. Lý Thường-Kiệt được cất lên làm tể chấp, còn Lý Đạo Thành vì can gián bị biếm ra Nghệ An. Vua lấy quyết định  giam Thái-hậu và 72 thị nữ vào cung Thượng Dương và ép bà phải chết theo vua cùng 72 cung nữ.  Thời bấy giờ nhà Lý vẫn còn giữ tục bắt các cung nữ chết theo vua.

Theo Hoàng Xuân Hãn thì Lý Thường Kiệt có một phần trách nhiệm không nhỏ trong việc khuynh đảo Thượng Dương thái hậu vì binh quyền đều nằm trong tay ông cả. Cũng lạ sử nước ta ít nói  đến  Lý Thường Kiệt  lúc khoảng đầu đời vua Nhân Tông và sử ta  chỉ đổ lỗi  cho Thái Hậu (Ỷ Lan)  xúi con  bởi lòng ganh tị mà thôi chớ đây là vết đen trong sử xán lạn của Ỷ Lan mà luôn cả Lý Thường Kiệt. Các sử gia nho giáo nước ta như Ngô Sĩ Liên, không quá gay gắt hay như  học giả Trần Trọng Kim chỉ nói một cách qua loa về hành động đáng sợ  của bà mà còn tỏ ra thông cảm về chuyện ganh tị của bà.

Có lẽ bà đã có công đóng góp vô cùng to lớn với dân với nước nhất là bà có tài trị nước vô song để cứu nguy đất nước trước ý đồ xâm lăng của nhà Tống và biết chọn tôi hiền tướng giỏi để gíúp vua Lý Nhân Tôn. Bà bỏ qua hiềm kích cũ mà triều Lý Đạo Thành về kinh để trong lo nội chính. Sư việc nầy cho thấy bà biết nghĩ đến xã tắc sơn hà, bỏ qua cái ta và biết thay vua  lúc 10 tuổi để lãnh đao  toàn dân trong cuộc chiến chống ngọai xâm cùng Lý Thường Kiệt. Theo sự nhận xét của  nhà văn Lê Phước,  bà phải có tài năng điều khiển  khéo léo  đất nước nhất là dưới quyền của bà có hai nhân vật kiệt xuất  như Lý Thường Kiệt (quan võ) và Lý Đạo Thành (quan văn)  với sự nhiếp chính lần thứ hai của bà. Bà phải như thế nào để dân có thể đồng tâm nhất trí, vạn người như một, xem bà như Quan Âm Bồ Tát ở thời đó.

Hơn nữa bà đã đóng góp tích cực rất nhiều vào cơ nghiệp nhà Lý về phương diện xã hội. Dưới thời nhà Lý, có nhiều người nghèo khổ phải bán mình đi làm thuê hay làm mướn. Con trai không lấy nổi vợ, con gái cũng không lấy được chồng. Chính bà lấy tiền trong kho của vương triều để chuộc mua lại những cô gái nghèo đã phải bán đợ mình rồi gả họ cho những người đàn ông goá vợ hay nghèo khó không có vợ. Nước ta là nước nông nghiệp nên trâu là con vật rất cần thiết trong việc cầy cấy.  Bởi vậy dưới thời ngự trị của vua Lý Nhân Tông, việc trộm hay giết trâu bị trừng phạt rất nặng. Sự đóng góp của bà rất  lớn  trong việc giúp vua để chọn hiền tài ra giúp nước với sự thành lập Quốc Tự Giám.Thủ khoa đầu tiên là Lê Văn Thịnh được vào cung dạy học cho vua. Về sau ông đuợc làm  tới chức Thái sư (1085) nhưng  vì có sự xung đột ý thức hệ giữa Phật giáo và Nho giáo mà ông là người đứng đầu bên Nho giáo nên bị sa thảy và chịu hàm oan với  vụ án  hồ Dâm Đàm (nay là Hồ Tây)  vào năm Ất Hợi (1095).

Ngoài ra, bà không chỉ là người hâm mộ Phật Giáo mà còn là người hiểu biết sâu sắc về Phật học nhất là ở bên cạnh vua Lý Thánh Tông, lúc còn sống, ngài là bậc tu hành thuộc thế hệ thứ nhất cuả phái Thảo Đường. Thời gian bà bỏ rèm nhiếp chính cũng là thời gian  nước ta phải giải quyết những cuộc chiến tranh với nhà Tống ở phương bắc  (1075-1077) và Chiêm Thành ở phương nam nên bà chưa thể có  làm những công trình to tát để chứng minh sự thành tâm sám hối của mình về việc bức tử hoàng hậu Thượng Dương và 72 cung nữ. Bà là người hiểu rõ luật nhân quả, sự báo ân trả oán trong kinh Phật nên lại càng muốn chuộc lỗi.  Nhờ  Phật tánh có trong người, bà lập được nhiều chùa chiền thờ Phật (150 ngôi chùa)  và việc chuộc bần gia nữ theo lời ghi chép của  Đại Việt Sử Lược nhưng đối Việt Sử Tiêu Án thì việc sám hối làm phúc ấy là quá muộn. (trang 53 – bản điện tử).

Hai thiền sư có công dẫn dắt  bà  và làm bà lưu tâm đến thiền học đó là Đại sư Mãn Giác và Quốc Sư Thông Biện. Sư Mãn Giác là người đầu tiên dẫn dắt con đường tu hành cho thái hậu và hướng dẫn cách giải oan các vong hồn. Mãn Giác là người được vô sư trí (trí tuệ không do thầy dạy) nên rất được vua và thái hậu trân trọng gọi là Trưởng lão. Sư  Mãn Giác đã từng tháp tùng cuộc tuần du cuả thái hậu năm Ất Sửu (1085) và  được Thái Hậu để sư chọn lựa những vị trí thích hợp cho viêc xây chùa dựng tháp. Còn sư Thông Biện là sư  giải thích tường tận từng câu bà hỏi khiến bà hài lòng và đặt tên hiệu cho ông là Thông Biện đại sư trong một buổi tiệc chay ở chùa. Chính cuộc tọa đàm nầy đuợc tả lại trong truyện Sư Thông Biện ở sách Thiền Uyễn Tập Anh. Từ đó sư Thông Biện được triều vào cung làm quốc sư.

Chính là nhờ ảnh hưởng của đạo Phật, bà thấu  hiểu rõ nguồn gốc mọi tội lỗi là từ vô minh, gốc của mọi bất thiện trong thế gian, đời người vô thường, vinh hoa phú quý chỉ phù vân, cái tâm an lạc mới đáng quý. Năm 1117, Thái hậu thư thản ra đi, thọ được 73 tuổi, thụy hiệu là Linh Nhân Phù Thánh Hoàng thái hậu. Bà có để lại cho chúng ta một bài kệ vô đề mà các nhà nghiên cứu văn học xếp bà vào hàng tác giả văn học thời Lý-Trần.

Sắc là không, không tức  sắc
Không là sắc, sắc tức không.
Sắc không đều chẳng quản,
Mới  được hợp chân tông.

Làm người ai chẳng có lỗi lầm nhưng mà giác ngộ như bà có mấy nhiêu người nhất là  bà có công đào tạo một minh quân như Lý Nhân Tông cho đất nước được phồn thịnh về mọi mặt khiến cho hậu thế ngày nay không ngớt nguỡng mộ.

 

Y Lan est une femme très célèbre dans l’histoire féodale de notre pays sous la dynastie des Lý. Sa vie était liée étroitement à la carrière de deux rois remarquables: son mari Lý Thánh Tông et son fils Lý Nhân Tông. Elle a laissé certains points qui méritent d’être éclaircis du fait qu’elle porte  encore le nom de Ỷ Lan. Des ouvrages historiques tels que Việt Sử Lược (XIVème siècle) et Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (XVème siècle) ne la mentionnent que sous le nom de Lê Thị Yến. Mais selon le professeur Hoàng Xuân Hãn dans le livre Mộng Khê Bút Đàm d’un auteur chinois de la dynastie des Song nommé Thẩm Hoạt, il y avait mention de Lê Thị Yến, c’est-à-dire Ỷ Lan, mais il n’a pas confirmé que Lê Thị Yến était son vrai nom dans le livre sur Lý Thưng Kiệt et pensait que le mot Yến ici était écrit en prononciation chinoise. D’après le poème nôm de Trương Thị Ngọc Trong, concubine du seigneur Trịnh Cương, son vrai nom est Lê Thị Khiết. 

Sa terre natale était située dans le village de Thổ Lỗi de la province Hưng Yên. Elle était grâcieuse depuis son jeune âge. Sa mère décéda lorsqu’elle avait 12 ans. Quelques années plus tard, son père qui avait fait des études et qui avait  travaillé en tant que  mandarin à la cour, se remaria et décéda à son tour. Dès lors, elle vécut avec sa belle-mère et tous deux s’entraidèrent en complète harmonie.

Dans le folklore populaire, on raconte qu’au moment où le roi Lý Thánh Tông avait 40 ans et il  n’avait pas encore d’héritier, il était de passage dans son village. Il  était allé  implorer de l’avoir auprès de Bouddha dans les pagodes. Tous les jeunes, garçons ou  filles accoururent pour aller voir le roi. Par contre,  en s’adossant impassiblement  à un arbre à orchidées, elle  continuait  à cueillir des mûres. Surpris par son attitude, le  roi, envoya quelqu’un la chercher pour s’enquérir de cette indifférence. En la voyant de près avec son beau visage et sa manière de lui répondre avec douceur, le roi fut ému et tombé amoureux. Il lui demanda de suivre le carrosse royal jusqu’au palais et la nomma désormais Dame Ỷ Lan (1063), Ỷ Lan signifiant « s’adosser à un arbre à orchidées ».

Quelques années plus tard, Ỷ Lan donna naissance à un premier garçon nommé Lý Càn Đức. Ravi par cette nouvelle, le roi Lý Thánh Tông, fit de ce dernier son prince héritier,  devenu plus tard Lý Nhân Tông, et nomma Ỷ Lan en tant que concubine. En 1068, Ỷ Lan donna naissance à un deuxième garçon devenu plus tard  le prince Minh Nhân Vương. Elle reçut ensuite le titre de Ỷ Lan Nguyên phi, ce qui signifie qu’elle devenait  alors la première concubine du palais à se placer derrière la reine Thượng Dương. Dès lors, elle devint un personnage souvent mentionné dans l’histoire de notre pays sous la dynastie des Lý, notamment pour la performance de sa régence, lors  de l’expédition militaire menée par le roi  Lý Thánh Tông contre le Champa.

Cet événement démontre qu’Ỷ Lan devait posséder le talent nécessaire pour remplacer le roi et diriger le pays.  Ayant échoué à remporter la première victoire, le roi fut contraint de ramener son armée au district Cư Liên. Mais lorsqu’il apprit que sa concubine régente Nguyên phi Ỷ Lan avait réussi à mieux gérer durant son absence les affaires courantes de l’état, à conquérir le cœur de son peuple et à rendre ce dernier heureux, il se dit alors: « Une femme peut faire ça, mais j’ai échoué à attaquer le Champa, alors les hommes sont vraiment des lâches ! » Il décida  de retourner   à la capitale Vijaya (Binh Dinh) du Champa pour capturer Rudravarman III (Chế Cũ) et le ramener à la cour royale  avec 5 000 prisonniers chams, ce qui  obligea  ce dernier de lui demander sa libération en échange  des trois districts du Champa.

Un jour, le roi Lý Thánh Tông  demanda à Ỷ Lan  la manière de  gouverner le pays. C’est ce qu’a rapporté l’histoire: « Si l’on veut que le pays soit riche et le peuple fort, il est important de savoir écouter les conseils des personnes loyales. Bien que les paroles directes soient désagréables à entendre, elles sont utiles. Les remèdes amers sont difficiles à avaler, mais ils guérissent les maladies. »

Par le biais de ces événements, on s’aperçoit  que la concubine Ỷ Lan, issue d’une famille villageoise pauvre, devint une dirigeante talentueuse durant la régence. Elle dut donc posséder une plus large compréhension.  Elle s’entraîna à apprendre et à acquérir des connaissances approfondies. Elle joua également un rôle extrêmement important et exerça une grande influence auprès du roi Lý Thánh Tông.

À la mort de ce dernier à l’âge de 50 ans, selon les traditions de la cour féodale, le nouveau roi Lý Càn Đức n’avait que 7 ans. Il lui fallait donc une reine mère pour exercer la régence. Qu’elle fût sa mère biologique ou non, cette reine mère devait être la reine du roi Lý Thánh Tông. Par conséquent, la reine Thượng Dương fut déclarée la reine douairière, tandis qu’ Ỷ Lan ne fut nommée que Thái Phi, la seconde personne  placée derrière la reine mère, bien qu’elle fût la mère biologique du roi Lý Càn Đức.  Cela amena désormais  une lutte acharnée de pouvoir au sein de la cour royale.

La faction de l’impératrice douairière Thượng  Dương était soutenue par le premier dignitaire Lý Đạo Thành. Mais quatre mois après l’accession au trône de Lý Nhân Tông, la faction du généralissime  Lý Thường Kiệt emporta la confrontation. Lý Thường Kiệt fut promu Premier ministre, tandis que Lý Đạo Thanh fut rétrogradé à Nghệ An pour son soutien à  Thượng  Dương. Le roi décida d’emprisonner l’impératrice douairière  au palais Thượng Dương et de la forcer à se suicider avec le roi Lý Thánh Tông  et ses 72 servantes. À cette époque, la dynastie des Lý gardait encore la coutume de forcer les servantes à mourir avec le roi décédé.

Selon Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt était largement responsable du renversement  du rôle qu’a joué la reine mère Thượng Dương, car il détenait toute la puissance militaire entre ses mains. Il est tellement étrange que l’histoire de notre pays évoque rarement Lý Thường Kiệt au début du règne du roi Trần Nhân Tông et attribue à Ỷ Lan la faute d’inciter le roi à faire mourir  Thượng Dương  à cause de sa jalousie. C’est une tache noire dans la brillante carrière de Ỷ Lan et de Lý Thượng Kiệt. Les historiens confucéens de notre pays, comme Ngỗ Sĩ Liên  ou l’érudit Trần Trọng Kim, ont évoqué  brièvement ces punitions effroyables en quelques mots, tout en manifestant leur compréhension à propos de la jalousie de Ỷ Lan.

Probablement grâce à son talent incomparable, elle  sut apporter  sa contribution notable au peuple et au pays, notamment  dans sa gouvernance et dans le salut  de la nation  lors de l’invasion de la dynastie des Song. Elle eut  aussi sa capacité de nommer des fonctionnaires compétents et talentueux pour seconder le roi Lý Nhân Tông. Elle mit de côté ses vieilles rancunes pour s’occuper des affaires intérieures. Ce fait  démontre qu’elle savait penser au pays, mettre de côté son ego et prendre la relève pour aider le roi âgé de 10 ans et pour emmener le peuple tout entier dans la guerre contre les envahisseurs étrangers, sous la direction de Lý Thường Kiệt. Selon l’écrivain Lê Phước, elle devait posséder le talent nécessaire pour diriger le pays avec habileté car  sous son autorité il y avait deux personnalités éminentes telles que Lý Thường Kiêt (officier militaire) et Lý Đạo Thành ( mandarin civil) lors de sa seconde régence. Elle devait avoir un comportement assez remarquable  permettant  d’avoir l’adhésion populaire. Tout le peuple était uni comme un seul homme et  la considérait  comme le Bodhisattva de l’époque.

En outre,  elle apporta une contribution importante à la vie sociale de la dynastie des Lý. Sous cette dernière, de nombreux pauvres devaient se vendre pour pouvoir travailler à la solde de leurs parents ou de leurs tuteurs. Les fils et les filles ne pouvaient pas se marier. Elle utilisait elle-même l’argent de la caisse d’état pour racheter les filles pauvres qui devaient se vendre, puis elle les mariait à des veufs ou à des hommes pauvres sans épouse. Notre pays est un pays agricole, le buffle est donc un animal indispensable au labourage du champ. C’est pourquoi, sous le règne du roi Lý Nhân Tông, le vol ou la mise à mort de buffles était sévèrement puni.  Ỷ Lan contribuait à aider aussi  le roi à recruter les gens de talent issus du milieu populaire  pour le pays en lui suggérant d’établir au sein du temple de la littérature une école d’administration des hauts fonctionnaires  « Quốc Tự Giám« .  Le premier major de la promotion était  Lê Văn Thịnh. Celui-ci était  autorisé à entrer au palais pour enseigner au roi. Plus tard, il  était promu au rang de Grand Précepteur (1085), mais en raison du conflit idéologique entre le bouddhisme et le confucianisme, et comme il était à la tête du camp confucéen, il fut destitué et accusé à tort dans  l’affaire du lac Dâm Đàm (devenu aujourd’hui lac de l’Ouest) en l’an 1095.  

De plus, elle était non seulement une fervente adepte du bouddhisme, mais aussi une personne dotée d’une profonde connaissance du bouddhisme, notamment auprès du roi Lý Thánh Tông, disciple de la première génération de la secte Thảo Đường de son vivant. L’époque où elle mit fin à sa régence coïncida avec la guerre contre la dynastie des Song au nord (1075-1077) et le Champa au sud. Elle ne put  pas accomplir de grandes œuvres pour prouver son repentir sincère d’avoir contraint la reine Thượng Dương et 72 servantes du palais au suicide. Elle comprit bien la loi de cause à effet, la rétribution de la bonté et la vengeance dans les écritures bouddhistes, et elle désira donc ardemment se racheter. Grâce à la présence de Bouddha dans son esprit, elle put construire de nombreux temples pour vénérer Bouddha (150 temples) et racheter des femmes pauvres, selon les annales de Đại Việt Sử Lược. Mais pour Việt Sử Tiêu Án, cet acte de repentance et de charité arriva trop tard. (page 53 – version électronique).

Les deux maîtres qui la guidèrent et la firent s’intéresser au zen furent le Grand Maître Mãn Giác et le Maître National Thông Biện. Le moine  Mãn Giác fut le premier à guider la Reine Mère sur le chemin de la pratique et à lui montrer comment réconforter les âmes errantes. Mãn Giác reçut la sagesse qui n’était jamais enseignée  par aucun maître. Il était donc très respecté par le Roi et la Reine Mère et on l’appelait l’Ancien. Le moine Mãn Giác accompagna la Reine Mère lors de sa tournée en l’an Ất Sửu (1085) et fut autorisé par elle à choisir les emplacements appropriés pour la construction de pagodes et de tours. Le moine Thông Biện était celui qui réussit à lui expliquer en détail chacune de ses questions,  ce qui apportait la satisfaction à la reine mère  et lui permettait d’avoir le titre de Grand Maître « Thông Biện » lors d’une fête religieuse à la pagode. Cette discussion fut relatée dans l’histoire du moine Thông Biện, dans le livre « Thiên Uyển Tập Anh (le jardin recueille toute l’essence du Zen) ». Dès lors, le moine Thông Biện fut convoqué au palais pour devenir le « Maître de la nation».

C’était grâce à l’influence du bouddhisme qu’elle comprit clairement que l’origine de tous les péchés était  l’ignorance, la racine de tous les maux en ce monde, que la vie humaine était très  courte, que la gloire et la richesse étaient éphémères et qu’un esprit paisible était précieux. En 1117, la reine mère s’éteignit paisiblement, à l’âge de 73 ans, sous le nom posthume de Linh Nhân Phù Thánh Hoàng thái hậu. Elle nous a laissé un poème sans titre qui, selon les chercheurs littéraires, la classait parmi les auteurs littéraires de la période des Lý-Trần.

Être est non-être, non être est être
Non être est être , être est non être
L’être qui ne s’attache à rien
Est seul capable de s’unir à l’Absolu. (*)

Tout le monde peut commettre des erreurs, mais combien de gens sont-ils aussi éclairés qu’elle ? Elle a eu le mérite de former un roi sage comme Lý Nhân Tông, qui a fait prospérer le pays à tous égards, ce qui continue à susciter l’admiration sans bornes   des générations futures.

Y Lan is a very famous woman in the feudal history of our country under the Lý dynasty. Her life was closely tied to the careers of two notable kings: her husband Lý Thánh Tông and her son Lý Nhân Tông. She left some points that deserve clarification because she is still called Ỷ Lan. Historical works such as Việt Sử Lược (14th century) and Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (15th century) mention her only under the name Lê Thị Yến.  However, according to Professor Hoàng Xuân Hãn in the book Mộng Khê Bút Đàm by a Chinese author of the Song dynasty named Thẩm Hoạt, there was mention of Lê Thị Yến, i.e., Ỷ Lan, but he did not confirm that Lê Thị Yến was her real name in the book on Lý Thường Kiệt and thought that the word Yến here was written in Chinese pronunciation. According to the Nôm poem by Trương Thị Ngọc Trong, concubine of Lord Trịnh Cương, her real name is Lê Thị Khiết.

Her native land was located in the village of Thổ Lỗi in Hưng Yên province. She was graceful from a young age. Her mother died when she was 12. A few years later, her father, who had studied and served as a mandarin at court, remarried and later died. From then on, she lived with her stepmother and the two helped each other in complete harmony.

In popular folklore, it is said that when King Lý Thánh Tông was 40 years old and had no heir, he passed through his village. He had gone to beg Buddha for one in the pagodas. All the young people, boys and girls, rushed to see the king. However, leaning impassively against an orchid tree, she continued picking mulberries. Surprised by her demeanor, the king sent someone to fetch her to inquire about this indifference. Seeing her up close, with her beautiful face and the way she answered him gently, the king was moved and fell in love. He asked her to follow the royal carriage to the palace and henceforth named her Lady Ỷ Lan (1063); Ỷ Lan means « leaning against an orchid tree. » 

A few years later, Ỷ Lan gave birth to a first son named Lý Càn Đức. Delighted by the news, King Lý Thánh Tông made him his crown prince, who later became Lý Nhân Tông, and appointed Ỷ Lan as a concubine. In 1068, Ỷ Lan gave birth to a second son who later became Prince Minh Nhân Vương. She then received the title Ỷ Lan Nguyên phi, meaning she became the first concubine of the palace positioned directly below Queen Thượng Dương. From then on, she became a figure frequently mentioned in the history of our country under the Lý dynasty, notably for her performance as regent during the military expedition led by King Lý Thánh Tông against Champa. 

This event shows that Ỷ Lan must have had the talent necessary to replace the king and govern the country. Having failed to win the first victory, the king was forced to bring his army back to the Cư Liên district. But when he learned that his concubine regent Nguyên phi Ỷ Lan had managed the state’s daily affairs better in his absence, won the people’s hearts and made them happy, he said to himself: « A woman can do that, but I failed to attack Champa, so men are truly cowards! » He decided to return to the Champa capital Vijaya (Bình Định) to capture Rudravarman III (Chế Cũ) and bring him back to the royal court with 5,000 Cham prisoners, which forced the latter to ask for his release in exchange for the three districts of Champa.
One day, King Lý Thánh Tông asked Ỷ Lan how to govern the country. History records: « If one wants the country to be prosperous and the people strong, it is important to know how to listen to the advice of loyal people. Although blunt words are unpleasant to hear, they are useful. Bitter medicines are hard to swallow, but they cure illnesses. »

Through these events, one sees that concubine Ỷ Lan, from a poor village family, became a talented leader during the regency. She must therefore have possessed a broader understanding. She trained herself to learn and acquire deep knowledge. She also played an extremely important role and exercised great influence over King Lý Thánh Tông.

At his death at the age of 50, according to feudal court traditions, the new king Lý Càn Đức was only seven years old. He therefore needed a queen mother to act as regent. Whether she was his biological mother or not, this queen mother had to be the queen of King Lý Thánh Tông. Consequently, Queen Thượng Dương was declared the dowager queen, while Ỷ Lan was named only Thái Phi, the second person placed after the queen mother, even though she was the biological mother of King Lý Càn Đức. This thus led to a fierce struggle for power within the royal court.

The faction of Empress Dowager Thượng Dương was supported by the chief dignitary Lý Đạo Thành. But four months after Lý Nhân Tông’s accession to the throne, the faction of the generalissimo Lý Thường Kiệt won the confrontation. Lý Thường Kiệt was promoted to Prime Minister, while Lý Đạo Thành was demoted to Nghệ An for his support of Thượng Dương. The king decided to imprison the Empress Dowager in Thượng Dương Palace and force her to commit suicide along with King Lý Thánh Tông and her 72 maidservants. At that time, the Lý dynasty still kept the custom of forcing maidservants to die with the deceased king. The faction of Empress Dowager Thượng Dương was supported by the chief dignitary Lý Đạo Thành. But four months after Lý Nhân Tông’s accession to the throne, the faction of the generalissimo Lý Thường Kiệt won the confrontation. Lý Thường Kiệt was promoted to Prime Minister, while Lý Đạo Thành was demoted to Nghệ An for his support of Thượng Dương. The king decided to imprison the Empress Dowager in Thượng Dương Palace and force her to commit suicide along with King Lý Thánh Tông and her 72 maidservants. At that time, the Lý dynasty still kept the custom of forcing maidservants to die with the deceased king.

According to Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt was largely responsible for overturning the role played by Queen Mother Thượng Dương, because he held all the military power in his hands. It is so strange that the history of our country rarely mentions Lý Thường Kiệt at the beginning of King Trần Nhân Tông’s reign and blames Ỷ Lan for inciting the king to kill Thượng Dương out of jealousy. It is a dark stain on the brilliant careers of Ỷ Lan and Lý Thượng Kiệt. Confucian historians of our country, like Ngỗ Sĩ Liên or the scholar Trần Trọng Kim, briefly mentioned these dreadful punishments in a few words, while expressing their understanding of Ỷ Lan’s jealousy.
Probably thanks to her incomparable talent, she managed to make a notable contribution to the people and the country, notably in governance and in saving the nation during the invasion by the Song dynasty. She also had the ability to appoint competent and talented officials to assist King Lý Nhân Tông. She set aside her old grudges to take care of internal affairs. This fact shows that she knew how to think of the country, set aside her ego, and step in to help the ten-year-old king and lead the whole people in warfare against foreign invaders, under the leadership of Lý Thường Kiệt.

According to the writer Lê Phước, she must have possessed the talent necessary to skillfully govern the country, for under her authority during her second regency there were two eminent figures such as Lý Thường Kiệt (military officer) and Lý Đạo Thành (civil mandarin). She must have had a rather remarkable demeanor that allowed her to gain popular support. The whole people were united as one and regarded her as the Bodhisattva of the era.
Moreover, she made an important contribution to the social life of the Lý dynasty. Under her, many poor people had to sell themselves in order to work for the wages of their parents or guardians. Sons and daughters could not marry. She used the royal treasury’s money herself to buy back poor girls who had to sell themselves, then she married them to widowers or to poor men without wives. Our country is an agricultural one, so the buffalo is an indispensable animal for plowing the fields.

That is why, under the reign of King Lý Nhân Tông, the stealing or killing of buffaloes was severely punished. Ỷ Lan also helped the king recruit talented people from the common folk for the country by suggesting the establishment within the Temple of Literature of a school for the administration of high officials, « Quốc Tự Giám. » The top graduate of the first class was Lê Văn Thịnh. He was permitted to enter the palace to teach the king. Later he was promoted to the rank of Grand Preceptor (1085), but due to the ideological conflict between Buddhism and Confucianism, and because he led the Confucian camp, he was removed and falsely accused in the affair of Dâm Đàm Lake (today’s West Lake) in the year 1095. Moreover, she was not only a devout Buddhist but also a person with profound knowledge of Buddhism, notably close to King Lý Thánh Tông, a first-generation disciple of the Thảo Đường sect in his lifetime. The period when she ended her regency coincided with wars against the Song dynasty in the north (1075–1077) and Champa in the south.

She was unable to accomplish great deeds to prove her sincere repentance for having forced Queen Thượng Dương and 72 palace maidservants to commit suicide. She understood well the law of cause and effect, the retribution of kindness and vengeance in Buddhist scriptures, and so she ardently wished to redeem herself. Thanks to the presence of Buddha in her mind, she was able to build many temples to venerate Buddha (150 temples) and to redeem poor women, according to the annals of Đại Việt Sử Lược. But for Việt Sử Tiêu Án, this act of repentance and charity came too late. (page 53 – electronic version). She was unable to accomplish great deeds to prove her sincere repentance for having forced Queen Thượng Dương and 72 palace maidservants to commit suicide. She understood well the law of cause and effect, the retribution of kindness and vengeance in Buddhist scriptures, and so she ardently wished to redeem herself. Thanks to the presence of Buddha in her mind, she was able to build many temples to venerate Buddha (150 temples) and to redeem poor women, according to the annals of Đại Việt Sử Lược. But for Việt Sử Tiêu Án, this act of repentance and charity came too late. (page 53 – electronic version).

The two masters who guided her and sparked her interest in Zen were Grand Master Mãn Giác and Master Thông Biện, the National Master. The monk Mãn Giác was the first to lead the Mother Queen onto the path of practice and to show her how to comfort wandering souls. Mãn Giác received wisdom that had never been taught by any master. He was therefore greatly respected by the King and the Mother Queen and was called the Elder. The monk Mãn Giác accompanied the Mother Queen on her tour in the year Ất Sửu (1085) and was authorized by her to choose suitable sites for the construction of pagodas and towers. The monk Thông Biện was the one who succeeded in explaining each of her questions in detail, which brought the Mother Queen satisfaction and allowed him to receive the title of Grand Master « Thông Biện » during a religious festival at the pagoda. This discussion was recounted in the history of the monk Thông Biện, in the book « Thiên Uyển Tập Anh (the garden gathers the whole essence of Zen). » From then on, the monk Thông Biện was summoned to the palace to become the « Master of the Nation. »

It was thanks to the influence of Buddhism that she clearly understood that the origin of all sins was ignorance, the root of all evils in this world, that human life was very short, that glory and wealth were fleeting, and that a peaceful mind was precious. In 1117, the queen mother passed away peacefully at the age of 73, under the posthumous name Linh Nhân Phù Thánh Hoàng Thái Hậu. She left us an untitled poem which, according to literary scholars, placed her among the literary authors of the Lý-Trần period.

To be is non-being, non-being is to be
Non-being is to be, to be is non-being
The being who attaches to nothing
Is alone capable of uniting with the Absolute. (*)

Everyone makes mistakes, but how many people are as enlightened as she was? She had the merit of raising a wise king like Lý Nhân Tông, who made the country prosper in every respect, which continues to inspire boundless admiration in future generations.


Đền Đô của nhà Lý (Temple Đô , Bắc Ninh)

(*) traduit par le professeur Lê Thành Khôi

Bibliographie

Hoàng Xuân Hãn : Lý Thường Kiệt – Lịch sử ngoại giao triều Lý. Nhà xuất bản Hà Nội.
Ngô Sĩ Liên: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư . Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
Ta Ngọc Liễn: Chân Dung văn hóa Việt Nam. Nhà Xuất Bản 1999.
Trần Trọng Kiêm: Việt Nam Sử Lược. Imprimerie Vĩnh Thành 1928.
Thiền uyển tập anh – phần Đại sư Mãn Giác trang 51-52 (bản điện tử)
Thiền uyển tập anh – phần Quốc sư Thông Biện trang 48-49-50-51 (bản điện tử)
Lê Thành Khôi. Aigrettes sur la rizière. Chants et poèmes classiques du Việt Nam. Connaissances de l’Orient. 1995

Les photos superbes en boir et blanc de Jean Marie Duchange (Bộ hình qúi giá trắng đen)

 sur les Hauts plateaux

dans les années 50

Cố Cả Leopold Cadière (Un prêtre savant au Viet Nam)

 

Un prêtre savant

1869-1955

Version française

English version

Ít ai biết đến Cố Cả Léopold Cadière  nhiều như biết cha Alexandre de Rhodes hay nhà bác học  Alexandre Yersin tuy rằng toàn  bộ công trình nghiên cứu của Cố Cả (250 ấn phẩm khoa học)  để lại chúng ta rất phong phú và đa dạng trong lịch sử, ngôn ngữ học và dân tộc học qua sự phân tích tài tình từ một khái niệm nào đi nữa  nhờ kiến thức uyên thâm của cha. Các bài cha viết thời đó gộp lại có tới 1500 trang sách xuất bản. Cha là một trong những người đặt nền móng cho việc nghiên cứu Việt Nam học đầu thế kỷ 20. Có thể nói toàn bộ công trình nầy là  nguồn tư liệu hàng đầu cho ai muốn nghiên cứu đến nền văn hóa Việt Nam.

Ông  sinh tại Aix-en-Provence miền nam nước Pháp ngày 14 tháng 2 năm 1860 trong một gia đình nông dân khiêm tốn. Bởi vậy khi ông sang  làm việc ở Việt Nam thời đó, ông mới nhận thấy cuộc sống ở  đây nó tương tự như cuộc sống lam lũ ở quê Pháp: sự tương trợ lẫn nhau, sự cần cù trong công việc nhưng lúc nào cũng hoan hỉ  với tình yêu sâu đậm của gia đình. Chính vì đó ở nơi ông lúc nào cũng có sự thông cảm cái nghèo khó của người dân Việt. Vì có tâm tình yêu thương đồng loại nên ông dễ dàng hội nhập với dân nghèo nước ta.

Ông là linh mục thuộc Hội Thừa sai Paris (MEP, Missions Étrangères Paris) và ông đến Việt Nam vào ngày 3 tháng 12 năm 1892. Lúc đó ông được 23 tuổi.  Chính nhờ những năm đầu ở Huế ông có may mắn được gặp giám mục Caspar, tác giả của quyển Tự  điển Hán Việt Ngôn ngữ nhập môn. Chính ông Caspar nầy khai hướng cho ông nghiên cứu về lịch sử, dân tộc học và tôn giáo. Chính ông cũng thừa nhận ông học hỏi được nhiều với giám mục Caspar. Từ khi ông dấn thân vào việc nghiên cứu, ông bắt đầu học tiếng Việt  nhưng đối  với ông, học tiếng Việt không phải để nói tiếng Việt  giỏi như người Việt mà còn cần  phải  có  tâm tư suy nghĩ như người Việt. Chính nhờ  ngôn ngữ mà người Việt mới diễn tả được điều họ cảm nhận và điều họ nghĩ.  Ngôn ngữ là tấm gương phản chiếu cách nghĩ của một dân tộc. Nó phản ánh tất cả các khái niệm của con người. Ngôn ngữ vừa là khuôn đúc, vừa là thông dịch viên của bộ óc. Bởi vậy, nếu muốn biết người Việt Nam nghĩ gì, chúng ta cần phải tìm hiểu nơi ngôn ngữ của họ.

Theo sự giải thích của cha trong phần dẫn nhập của triết học dân gian Việt Nam  thì cha cũng lưu ý  đến việc áp dụng một trật tự logic theo quan điểm triết học phương Tây vào một chủ đề phức tạp sẽ làm méo mó hoàn toàn chủ đề nhất là  làm sao dịch sát ý nghĩa khiến vì vậy tạo ra một hình ảnh không đầy đủ, thậm chí còn làm  sai lệch về triết học dân gian, và làm mất đi tính khách quan vốn là giá trị cốt lõi của nghiên cứu. Đây không phải là  triết học riêng của lớp học giả như ở Trung Hoa mà là những tư  tưởng triết học được các thế  hệ  truyền lại cho nhau từ  đời này qua đời kia và đang lưu hành trong dân gian, một cách có ý thức hay vô ý thức. Dù ở trình độ kiến thức nào đi nữa con người ta cũng có những ý kiến về vũ trụ và vạn vật, về con người và về khả năng và hành động của mình. Chính nhờ ngôn ngữ  mà  dân ta có được một lối sống nhìn thế giới xung quanh một cách rỏ ràng để có thể sống hoà hợp với giá trị đạo đức  cùng những tư tưởng đó mà cha gọi đó là triết học dân gian Việt Nam mà thường gọi là minh triết và cũng là để  tài mà cha muốn nghiên cứu. Đây là những ý tưởng được biểu diễn ra một cách tự nhiên trong từ ngữ và các kiểu nói thông thường trong dân gian. Có loại từ ngữ là “danh từ”, vốn dùng để gọi tên, và để phân loại một cách rất tự nhiên: những cái ta thấy giống nhau về một điểm nào đó, thì ta xếp vào một loại và gọi chung cùng một tên. Đi xa hơn chút nữa, những tên gọi đó gợi ý cho ta so sánh và bầy ra những kiểu nói có nghĩa đen cũng như nghĩa bóng và các ca dao ngạn ngữ có liên hệ đến các từ đó. Thí  dụ ta lấy các từ liên hệ đến cái bụng trong thân  thể.

Ta biết cái bụng thông thường có chứa nhiều nội tạng nên nó không chỉ  là bộ phận tiêu hóa  mà còn nó còn là trung tâm của sự đói no. Ta thường nói đau bụng để ám chỉ ta đang đau ở trong bao tử hay trong ruột. Đôi khi ta dùng sôi bụng để nói trong ruột ta có tiêng ùng ục. Còn đói bụng, đầy bụng, no bụng tất cả đều liên hệ đến sự đói hay no. Đôi khi trông qua hình dáng của bụng mà dân ta thường nói người đàn ông đó mang, cần  phải làm nhiều mới có mà ăn hay người đàn bà có chửa trong những câu phổ biến như sau: Bụng bí rợ, ở đợ mà ăn hay là đi không bụng về có bụng. Bụng lại có hai từ được xem là đồng nghĩa đó là lòng và dạ. Bởi vậy mới có «đói lòng » như « đói bụng » hay « no lòng, no bụng » hay « ăn lót lòng ăn lót bụng ». Đôi khi bụng còn xem là cơ quan nhạy cảm và ý chí. Để nói hai người hoà thuận với nhau, ta thường nói hai người có một cái bụng hay là một lòng. (một bụng hay một lòng). Còn một người xảo nguyệt thì ta thường nói người đó có hai lòng hay là hai bụng. Còn nói « anh chưa có bụng  hay lòng với em » tức là anh chưa có thương em trong bụng hay trong lòng. Còn một người có ý định tốt hay xấu  ta thường nói « người tốt bụng » hay « người xấu bụng ».

Theo cố cả thì chữ lòng được xem như là chữ mang tính cách thanh cao hơn. Nó còn có nghĩa là tim. Bụng là chữ cho dân dã thường dùng ở địa phương. Lòng nó cũng có ý nghĩa tâm lý như bụng (ý chí, đam mê, thù oán,  xấu xa vân vân…). Lấy lòng, mất lòng, phải lòng, nao lòng vân vân…thường nghe nói. Lòng  còn có một ý nghĩa mà bụng không có như lòng súng, lòng căn, lòng sông, cái gì đó nằm ở bên trong. Trong trường hợp nầy  lòng tựa như ruột.  Bởi vậy ta mới nói lòng bò, lòng heo.

Dò sông dò biển còn dò nào ai bẻ thước mà dò lòng người.

Còn dạ, ta đã thấy qua các tục ngữ  thì có tính đồng nhất giữa bụng và dạ.  Bởi vậy ta thường nghe nói : Bụng làm dạ chiụ hay bụng bảo dạ. Để nói bị tiêu chảy, ta thường nói: đi lạnh dạ. Còn khi được  thỏa mản theo sở thích, ta hay nói: Phỉ bụng, phỉ dạ.

Qua các từ bụng, lòng và dạ mà cha phân tích ở trên, ta nhận thấy  cha rất thộng thạo tiếng Việt mà còn  có  những lời  thân thương  của cha  đối với người Việt ở những vùng mà cha đảm nhiệm sứ mệnh. Theo nhà nghiên cứu Georges Cœdès, cha rất nhân bản và rất sâu đậm nòng ấm với dân tộc mà tròn đời cha cống hiến trong công tác mục vụ và nghiên cứu của mình. Cha cũng không bao  giờ có tư tưởng của một công dân  nước lớn  để miệt thị một dân tộc bị cai trị. Chính cũng nhờ sự hiếu kỳ không biết  chán mà cha tỏ ra xuất sắc học hỏi  uyên sâu tiếng Việt suốt 27 năm  trời sống ở Di Loan, Quảng Bình. Cha còn  thu thập  được một lượng ngôn ngữ  bình dân đáng kể và thông hiểu sâu xa những tàng ẩn  ý vị của đối tượng nghiên cứu theo sự nhận xét của nhà nghiên cứu Huế Đỗ Trinh Huệ.

Chính nhờ đó mà các bài cha viết hàng ngày rất phong phú trong những năm  được đi  bổ  nhiệm từ  giáo phận này sang giáo  phận khác. Chắc chắn cha đem chúng ra  so sánh với những sự kiện mà cha quan sát được bằng ngôn ngữ con người hoặc trong quá trình quan sát thiên nhiên trong nhiều lỉnh vực khác nhau như lịch sử, ngôn ngữ và dân tộc học.  Đối với cha, văn bản không phải là tài liệu đặc quyền, mà  những sự kiện như bất kỳ sự kiện nào khác, cũng phải  cần có sự kiểm tra phê phán tương tự như những quan sát mà cha rút ra  được từ tính xác thực tế sống động  mà cha ưa thích. Phải nói đây là những kết lúận mà cha mong muốn có được để thuyết phục luôn cả chính mình chớ không thể nào  dựa trên các tài liệu có sẳn để rút tỉa ra cái chung dù cha rất thông thạo  chữ Hán và chữ  Việt.

Cha  Cadière là sự khám phá đẹp nhất mà nhà khảo cổ  Louis Finot giám đốc của trường Viện Viễn Đông Bác cổ (EFEO)  đã thực hiện được  trong chuyến khảo sát  Đông Dương đầu tiên. Đây là lời kể lại của của cựu  giám đốc của EFEO Louis Malleret từ 1950-1956. Chính nhờ đó  cha  mới quen biết và kết bạn với Louis Finot.  Từ  đó  cha trở thành viên của trường EFEO và bài  đầu  tiên gữi cho trường  đăng vào năm 1901 đó là bải có tựa đề:Tín ngưỡng và ngạn ngữ dân gian ở thung lũng Nguồn Sơn (Croyances et dictons populaires de la vallée du Nguồn Sơn). Sau đó cha có nghiên cứu  chung với  nhà Đông Phương  học Paul Pelliot  về « nguồn tư liệu An Nam trong lịch sử An Nam » và  bài nầy được  đăng trên BEFEO năm 1904. Mặc dù cha  đã được công nhận là thành viên thông tấn của EFEO từ 1906, rồi đến năm 1918 lại được công nhận là thành viên hưởng trợ cấp  (pensionnaire) nhưng cha từ chối làm việc ở Hànôi  và vẫn tiếp tục giữ nhiệm sở tại Cửa Tùng. Ở đây cha xây dựng một nhà thờ và  một trường học. Ngoài ra  cha còn quan tâm đến thực vật học nên cha có  một vườn bách thảo nổi  tiếng  có nhiều  cây dương xỉ, ráy, hoa lan và cây thuốc trong và ngoài nước, nhiều loài trong số đó được  cha mô tả và ghi chú lại cho Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên ở Paris. Nhưng sự đóng góp lớn nhất của cha  đối với nghiên cứu Việt Nam  là sự thành hình Hội Đô thành hiếu cổ (Association des Amis du Vieux Hué) AAVH vào năm 1913 mà cha là người khởi xướng. Lúc đầu chỉ có 17 thành viên đến từ các phương trời khác nhau (giáo sĩ thừa sai, quan chức thuộc địa, binh sĩ, nhà buôn, quan lại Nam triều). Tất cả đều làm việc  không lương bổng và cống hiến sức lực một cách vô tư. Các tập san của AAVN và EFEO  trờ thành từ nay là nguồn tư liệu vô giá cho những ai muốn tìm hiểu đến Việt Nam xưa.  Còn cha, việc từ chối dứt khoát trở về Pháp lúc ấy cha được  84 tuổi dù có sự đề nghị trở về Pháp của Hội Thừa sai Paris: Cả đời tôi, tôi đã dân hiến cho xứ sở nầy rồi. Cho tôi được ở lại và chết ở đây.

Nhờ sự ước vọng nầy, cha già Việt hóa được chôn cất  ở nghĩa trang Phú Xuân (Huế), và nhất là chúng con, người dân Việt lúc nào cũng có lòng với cha nhiều lắm.

Version française

Peu de gens connaissent Léopold Cadière autant que le Père Alexandre de Rhodes ou le savant Alexandre Yersin. Pourtant, l’ensemble de ses travaux  de recherche qu’il nous a laissé est très riche et diversifié sur l’histoire, la linguistique et l’ethnologie par  son analyse méticuleuse de n’importe concept, due en grande partie à ses connaissances approfondies. Les articles qu’il a écrits à cette époque représentent un volume total de 1 500 pages d’édition. Il fut l’un des fondateurs des études sur le Vietnam  au début du XXème siècle. On peut dire que l’ensemble de ses travaux constitue une source d’information de référence pour quiconque souhaite étudier la culture vietnamienne.

Né à Aix-en-Provence, dans le sud de la France, le 14 février 1860, dans une famille paysanne modeste. Au moment de son arrivée au Vietnam, il  se rendit compte qu’à cette époque, la vie d’ici était semblable à celle de sa ville natale en France: outre  l’entraide et l’assiduité au travail, il y avait toujours la joie et l’attachement profond à la famille. Ainsi il éprouva toujours de la compassion pour la pauvreté du peuple vietnamien. Grâce à son amour pour ses semblables, il s’intégra facilement parmi les pauvres de notre pays.

Étant prêtre des Missions Étrangères de Paris (MEP), il arriva au Vietnam le 3 décembre 1892. Il avait alors 23 ans. C’est durant ses premières années à Huế qu’il eut la chance de rencontrer l’évêque Louis  Caspar, auteur du Dictionnaire d’introduction vietnamien-français. C’est lui qui l’orienta  vers l’histoire, l’ethnologie et la religion. Il avoua lui-même avoir beaucoup appris de Mgr Caspar. Depuis le début de ses recherches, il commença à apprendre le vietnamien. Mais pour lui, apprendre le vietnamien ne signifie pas qu’il faut  parler le vietnamien aussi bien que les Vietnamiens, mais il faut aussi penser comme eux. C’est par la langue que les Vietnamiens peuvent exprimer leurs sentiments et leurs pensées. La langue est le miroir de la pensée d’une nation. Elle reflète tous les concepts humains. La langue est à la fois un modèle et un interprète de l’esprit. Par conséquent, si nous voulons comprendre ce que pensent les Vietnamiens, nous devons apprendre à connaître leur langue.

Selon l’explication du père Cadière dans l’introduction à la philosophie populaire vietnamienne, il a également noté qu’au point de vue de la philosophie  occidentale l’application d’un ordre logique dans un un sujet  de nature complexe déformerait complètement le sujet, en particulier la manière de traduire le sens  avec exactitude, ce qui crée  ainsi une image incomplète pouvant  déformer la philosophie populaire et  fait perdre  le caractère objectif  qui est la valeur fondamentale de la recherche. Il ne s’agit pas d’une philosophie réservée aux érudits comme en Chine, mais plutôt d’idées philosophiques transmises de génération en génération et circulant  de manière consciente ou inconsciente parmi la population. Quel que soit son niveau de connaissance, chacun a une opinion sur l’univers et sur toute chose, sur les humains et  sur ses propres capacités et ses actions. C’est grâce à la langue que notre peuple a acquis un mode de vie lui permettant  la perception du monde qui l’entoure et  de vivre en harmonie avec les valeurs morales et les idées. C’est ce que le père  Cadière appelle « la philosophie populaire vietnamienne » ou la sagesse et c’est aussi  le sujet de ses recherches. Ces idées s’expriment naturellement par des mots et des expressions courantes. Il existe un type de mot appelé « nom » réservé pou le nommage et le classement de manière très naturelle: des choses que nous percevons comme similaires, nous les classons dans une même catégorie et les appelons du même nom. En allant plus loin, ces noms suggèrent des comparaisons et présentent des expressions littérales et figurées, ainsi que des proverbes qui s’y rapportent. Prenons par exemple les mots relatifs au ventre dans le corps.

Nous savons que le ventre contient normalement de nombreux organes internes. Il est donc non seulement le système digestif, mais aussi le centre de la faim et de la satiété. On est habitué  à avoir  souvent des  maux  de ventre  pour évoquer des douleurs à l’estomac ou aux intestins. On parle parfois de « gargouillements dans le ventre » pour désigner des gargouillements intestinaux. La faim, la satiété et la sensation de satiété sont toutes liées à la faim ou à la satiété. Parfois, en observant la forme du ventre, on dit souvent que l’homme qui le porte, est obligé de  travailler beaucoup  pour répondre à ses besoins alimentaires et  que la femme est enceinte, avec des expressions populaires comme : Bụng bí rợ, ở đợ mà ăn  (Homme au ventre gros comme une courge, il doit se louer pour manger) ou Đi không bụng về có bụng (Partir sans ventre, rentrer à la maison  avec un ventre dodu). Le mot « ventre » a deux mots synonymes «  lòng  (cœur) » et  «dạ (entrailles )». C’est pourquoi on dit «đói lòng »pour dire qu’on a  faim, ou « no lòng, no bụng » pour signifier la satiété  ou « ăn lót lòng ăn lót bụng » pour confirmer qu’on consomme quelque chose dans le ventre.  Ce dernier  est parfois considéré comme le siège de la sensibilité et de la volonté. Pour dire que deux personnes s’entendent bien , on dit souvent qu’elles n’ont qu’un seul ventre ou qu’un seul cœur. Quant à une personne maligne, on dit souvent qu’elle a deux cœurs ou deux ventres. Mais lorsque la fille dit que « tu  n’as  ni ventre ni cœur pour moi» signifie que tu ne l’aimes ni dans ton ventre ni dans ton cœur. Quant à une personne bien intentionnée ou mal intentionnée, on dit souvent « une personne bienveillante (người tốt bụng)» ou « une personne méchante (người xấu bụng)».

Selon le père Léopold Cadière, le mot « lòng » est  réservé pour signifier quelque chose de noble. Il est également synonyme du mot cœur. «Bụng » est un mot familier souvent utilisé au niveau local. «Lòng » a également une signification  psychologique, comme «bụng (ventre) » (volonté, passion, haine, méchanceté, etc.). On entend souvent Lấy lòng (plaire à quelqu’un), mất lòng (mécontenter quelqu’un), phải lòng (s’amouracher de quelqu’un), nao lòng  (être ému)  etc.

« Lòng» a aussi une autre signification  que  le ventre  n’a pas  pour traduire  quelque chose à l’intérieur d’un objet. C’est le cas de l’intérieur de la maison (lòng căn) ou celui d’un canon de fusil (lòng súng) ou  le lit d’un fleuve (lòng sông) .  Pour ce cas, le mot « lòng »  est semblable au mot ruột (entrailles). C’est pour cela qu’on évoque  lòng bò (les entrailles du bœuf), lòng heo (les entrailles du cochon).

Dò sông dò biển còn dò nào ai bẻ thước mà dò lòng người.
Sonder un fleuve, sonder la mer , on le peut encore; mais qui a coupé la perche avec laquelle on sondera le cœur de l’homme.

Quant à l’estomac, nous avons vu à travers les proverbes qu’il existe une similitude, une identité  entre l’estomac et le ventre. C’est pourquoi on entend souvent dire : «: Bụng làm dạ chiụ  (Le ventre fait souffrir l’estomac) » ou «bụng bảo dạ (le ventre avertit  l’estomac)». Pour parler de la  diarrhée, on dit souvent : «Đi lạnh dạ  (aller ayant froid au ventre ». Et lorsque l’on est satisfait de ses préférences, on dit souvent : « Phỉ bụng, phỉ dạ » pour signifier qu’on obtient tout ce qu’on veut.

À travers les mots « ventre », « cœur » et «entrailles» que Père Cadière a  réussi à analyser ci-dessus, nous pouvons constater qu’il parlait couramment le vietnamien et qu’il employait  également des mots d’affection pour les Vietnamiens vivant dans les  régions où il entreprenait sa mission. Selon le chercheur Georges Cœdès, il  était très humain et  il  éprouvait toujours  une affection profonde pour le peuple auquel  il a consacré toute sa vie dans le cadre de son travail pastoral et de ses recherches. Il n’avait jamais l’état d’esprit d’un citoyen d’un grand pays qui mépriserait un peuple dominé. C’est également grâce à sa curiosité insatiable qu’il a excellé dans l’apprentissage approfondi de la langue vietnamienne durant les 27 années qu’il a vécues à Di Loan, Quảng Binh. Il a réussi à collecter  également un nombre  important d’expressions  populaires et à approfondir les implications cachées  du sujet de recherche  selon la remarque  du chercheur Đỗ Trinh Huệ.

C’est grâce à cela que  ses écrits quotidiens étaient très diversifiés durant ses années de mutations de diocèse en diocèse. Il les confrontait certainement aux faits qu’il observait dans le langage humain ou au cours de ses observations de la nature dans divers domaines tels que l’histoire, la langue et l’ethnologie. Pour lui, les textes n’étaient pas des documents privilégiés, mais les faits comme les autres exigeaient le même examen critique que les observations tirées de la réalité  vécue à laquelle allait sa prédilection. Il faut dire ces conclusions qu’il a voulu avoir pour convaincre lui-même mais en aucun cas ce ne sont pas  celles tirées des documents disponibles à sa disposition malgré sa maîtrise parfaite en chinois et en vietnamien.

C’est lui, la plus belle découverte que l’archéologue Louis Finot, directeur de l’EFEO, avait faite lors de sa première exploration en Indochine. Voici le récit de Louis Malleret, ancien directeur de l’EFEO  (École française d’Extrême-Orient) de 1950 à 1956. C’est grâce à cette découverte qu’il fit la connaissance de Louis Finot et se lia d’amitié avec lui. Dès lors, il devint membre de l’EFEO et son premier article envoyé à l’école fut publié en 1901, intitulé : Croyances et dictons populaires de la vallée du Nguồn Sơn (Tín ngưỡng và ngạn ngữ dân gian ở thung lũng Nguồn Sơn). Plus tard, il effectua des recherches avec l’orientaliste Paul Pelliot sur les « Sources annamites dans l’histoire de l’Annam », article publié dans la BEFEO en 1904. Bien qu’il fût reconnu comme membre correspondant de l’EFEO en 1906, puis comme membre retraité en 1918, il refusa de travailler à Hanoï et conserva son poste à Cửa Tùng. Il y construisit une église et une école. Passionné de botanique, il possédait un célèbre jardin botanique abritant de nombreuses fougères, d’aroïdées, d orchidées et plantes médicinales d’origine nationale et étrangère, dont il décrivit et documenta un grand nombre dans ses notes  pour le Muséum d’histoire naturelle de Paris. Mais sa plus grande contribution aux études vietnamiennes fut la création de l’Association des Amis du Vieux Huế (AAVH) en 1913, dont il fut l’initiateur. Au départ, elle ne comptait que 17 membres venus de différentes régions du monde (missionnaires, fonctionnaires coloniaux, soldats, marchands et fonctionnaires de la dynastie du Sud). Tous travaillaient bénévolement et consacraient leurs efforts avec abnégation.

Les revues de l’AAVN et de l’EFEO sont devenues désormais  des sources d’information précieuses pour ceux qui souhaitent en savoir plus sur l’ancien Vietnam. Quant au  père Cadière,  il refusa de rentrer avec fermeté en France à l’âge de 84 ans, malgré la proposition des Missions Étrangères de Paris : « J’ai consacré toute ma vie à ce pays. Laissez-moi rester et mourir ici. 

Grâce à ce souhait, ce vieil homme vietnamisé fut enterré au cimetière de Phú Xuân (Hué) et notamment  nous, le peuple vietnamien, ayant  toujours eu beaucoup d’affection pour vous, notre  père vénéré.

Few people know Léopold Cadière as well as Father Alexandre de Rhodes or the scientist Alexandre Yersin. Yet the body of research he left us is richly diversified in history, linguistics and ethnology, with his meticulous analysis of any concept due in large part to his in-depth knowledge. The articles he wrote during this period represent a total volume of 1,500 editorial pages. He was one of the founders of Vietnam studies in the early 20th century. It can be said that his body of work constitutes a reference source of information for anyone wishing to study Vietnamese culture.

Born in Aix-en-Provence, in the south of France, on February 14, 1860, into a modest peasant family. When he arrived in Vietnam, he realized that life here was similar to that in his hometown in France: in addition to mutual aid and hard work, there was always joy and a deep attachment to family. So he always felt compassion for the poverty of the Vietnamese people. Thanks to his love for his fellow human beings, he integrated easily among the poor of our country.

As a priest of the Missions Étrangères de Paris (MEP), he arrived in Vietnam on December 3, 1892. He was 23 years old at the time. It was during his first years in Huế that he had the good fortune to meet Bishop Louis Caspar, author of the Dictionnaire d’introduction vietnamien-français. It was he who steered him towards history, ethnology and religion. He himself admits to having learned a great deal from Bishop Caspar.

From the start of his research, he began to learn Vietnamese. But for him, learning Vietnamese doesn’t mean speaking Vietnamese as well as the Vietnamese, it also means thinking like the Vietnamese. It’s through language that the Vietnamese can express their feelings and thoughts. Language is the mirror of a nation’s thinking. It reflects all human concepts. Language is both a model and an interpreter of the mind. So, if we want to understand what the Vietnamese think, we need to get to know their language.

According to Father Cadière’s explanation in the Introduction to Vietnamese Folk Philosophy, he also noted that, from the point of view of Western philosophy, the application of a logical order to a subject of a complex nature would completely distort the subject, in particular the way of accurately translating the meaning, thus creating an incomplete picture that can distort folk philosophy and lose the objective character that is the fundamental value of research. This is not a philosophy reserved for scholars, as in China, but rather philosophical ideas handed down from generation to generation and circulating consciously or unconsciously among the population. Whatever one’s level of knowledge, everyone has an opinion on the universe and everything else, on human beings and on one’s own abilities and actions. It is thanks to language that our people have acquired a way of life that enables them to perceive the world around them and to live in harmony with moral values and ideas.

This is what Father Cadière calls « Vietnamese popular philosophy » or wisdom, and it is also the subject of his research. These ideas are expressed naturally in everyday words and expressions. There’s a type of word called a « name » reserved for naming and classifying in a very natural way: things that we perceive as similar, we classify in the same category and call by the same name. Going a step further, these names suggest comparisons and present literal and figurative expressions, as well as related proverbs. Take, for example, the words relating to the belly in the body. We know that the belly normally contains many internal organs. It is therefore not only the digestive system, but also the center of hunger and satiety. We’re used to having stomach aches to evoke pain in the stomach or intestines. The term « stomach rumbling » is sometimes used to describe intestinal gurgling. Hunger, satiety and feeling full are all linked to hunger or satiety. Sometimes, by observing the shape of the belly, it is often said that the man who carries it, is obliged to work hard to meet his dietary needs and that the woman is pregnant, with popular expressions such as: Bụng bí rợ, ở đợ mà ăn (Man with a belly as big as a gourd, he has to hire himself out to eat) or Đi không bụng về có bụng (Leaving without a belly, coming home with a plump belly).

The latter is sometimes considered the seat of sensitivity and willpower. To say that two people get along well, we often say that they have only one stomach or one heart. As for a smart person, it’s often said that he or she has two hearts or two stomachs. But when the girl says that « you have neither belly nor heart for me » it means that you love her neither in your belly nor in your heart. As for a well-intentioned or ill-intentioned person, we often say « a benevolent person (người tốt bụng) » or « a wicked person (người xấu bụng) ». According to Father Léopold Cadière, the word « lòng » is reserved to mean something noble. It is also synonymous with the word heart. « Bụng » is a colloquial word often used locally. « Lòng » also has a psychological meaning, like « bụng (belly) » (will, passion, hatred, malice, etc.). We often hear Lấy lòng (to please someone), mất lòng (to displease someone), phải lòng (to fall in love with someone), nao lòng (to be moved) etc. « Lòng » also has another meaning that the belly doesn’t have to translate something inside an object. This is the case of the inside of the house (lòng căn) or that of a gun barrel (lòng súng) or the bed of a river (lòng sông) . In this case, the word « lòng » is similar to ruột (entrails). This is why we speak of lòng bò (ox entrails), lòng heo (pig entrails).

Dò sông dò biển còn dò nào ai bẻ thước mà dò lòng người.

To sound a river, to sound the sea, one can still do it; but who has cut the pole with which to sound the heart of man.

As for the stomach, we have seen from the proverbs that there is a similarity, an identity between the stomach and the belly. This is why we often hear it said: « : Bụng làm dạ chiụ (The belly makes the stomach suffer) » or « bụng bảo dạ (the belly warns the stomach) ». To talk about diarrhea, we often say, « Đi lạnh dạ (going having a cold stomach) ». And when we’re satisfied with our preferences, we often say, « Phỉ bụng, phỉ dạ » to mean we get everything we want.

Through the words « belly », « heart » and « entrails » that Father Cadière managed to analyze above, we can see that he spoke fluent Vietnamese and also used words of affection for the Vietnamese living in the regions where he undertook his mission. According to researcher Georges Cœdès, he was very human and always felt a deep affection for the people to whom he devoted his entire life in pastoral work and research. He was never in the frame of mind of a citizen of a great country who would despise a dominated people. It was also thanks to his insatiable curiosity that he excelled at learning the Vietnamese language in depth during the 27 years he lived in Di Loan, Quảng Binh. He also managed to collect a significant number of popular expressions and delve deeper into the hidden implications of the research subject according to the remark of researcher Đỗ Trinh Huệ.

Thanks to this, his daily writings were highly diversified during his years of transfers from diocese to diocese. He certainly confronted them with the facts he observed in human language or during his observations of nature in various fields such as history, language and ethnology. For him, texts were not privileged documents, but facts like any others demanded the same critical scrutiny as observations drawn from the lived reality to which he had a predilection. These were not the conclusions he drew from the documents available to him, despite his perfect command of Chinese and Vietnamese.

This is the most beautiful discovery that archaeologist Louis Finot, director of the EFEO, made during his first exploration of Indochina. This is the account of Louis Malleret, former director of the EFEO (École française d’Extrême-Orient) from 1950 to 1956. It was through this discovery that he met and befriended Louis Finot. From then on, he became a member of the EFEO and his first article sent to the school was published in 1901, entitled: Croyances et dictons populaires de la vallée du Nguồn Sơn (Tín ngưỡng và ngạn ngữ dân gian ở thung lũng Nguồn Sơn). Later, he carried out research with orientalist Paul Pelliot on « Sources annamites dans l’histoire de l’Annam« , an article published in BEFEO in 1904. Although he was recognized as a corresponding member of the EFEO in 1906, and then as a retired member in 1918, he refused to work in Hanoi and retained his position in Cửa Tùng. There, he built a church and a school. Passionate about botany, he owned a famous botanical garden home to numerous ferns, aroids, orchids, and medicinal plants of both domestic and foreign origin, many of which he described and documented in his notes for the Natural History Museum in Paris. But his greatest contribution to Vietnamese studies was the creation of the Association of Friends of Old Huế (AAVH) in 1913, which he initiated. Initially, it had only 17 members from different parts of the world (missionaries, colonial officials, soldiers, merchants, and officials of the Southern Dynasty). All worked voluntarily and devoted their efforts selflessly.

The journals of the AAVN and the EFEO have now become valuable sources of information for those who wish to know more about ancient Vietnam. As for Father Cadière, he firmly refused to return to France at the age of 84, despite the proposal of the Paris Foreign Missions: « I have devoted my whole life to this country. Let me stay and die here. »

Thanks to this wish, this old Vietnamese man was buried in the cemetery of Phú Xuân (Hué) and in particular we, the Vietnamese people, having always had a lot of affection for you, our venerated father.

Bibliographie:

Léopold Cadière: Anthropologie populaire annamite: BEFEO. Tomẹ 15, 1915, pp 1-102
Léopold Cadière: Philosophie populaire annamite. Bd 2, H.1, 1907, pp 116-127
Đỗ Trinh Huệ: Léopold Cadière với văn hóa, tín ngưỡng ngươì Việt.  Nghiên cứu Tôn giáo, số 5, 2004
Léopold Cadière: Croyances et dictons populaires fe la vallée du nguồn Sơn, BEFEO 1/2, p 119-139; 1/3,p 183-207
Bui-Quang Tung. X. Le R. P. Léopold Cadière (1869-1955). In: Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient. Tome 49 N°2,
1959. pp. 648-657;
Georges Cœdes: Hommage au R.P. Cadière. Bulletin de la société des missions étrangères. 2ème série, no 92, Juin 1956

Con đường tơ lụa (Route de la soie)

Con đường tơ lụa

Version française
Version anglaise
Galerie des photos

Chính Trung Quốc là nước  đầu  tiên  biết nuôi loại bướm  tằm Bombyx mori để sản xuất lụa đã có 5000 năm.  Dù bản thân loại chất liệu nầy bị phân hủy với thời gian nhưng các di vật liên quan  đến việc sản xuất  như khung cửi, kim và con thoi giữ sợi vẫn còn. Những mảnh lụa được tìm thấy tại một di chỉ văn hóa Lương Chử ở Thiên Sơn Dương, Hồ Châu, Chiết Giang, có niên đại từ năm 2700 TCN. Những mảnh khác được tìm thấy từ các lăng mộ hoàng gia thời nhà Thương (khoảng 1600–1046 TCN). Nguồn gốc của tơ lụa cổ xưa đến từ một truyền thuyết Trung Hoa kể rằng hoàng hậu Tây Lăng Thị, người vợ trẻ của vua Hiên Viên hoàng đế đã bắt được một cái kén rơi vào tách trà của mình và tháo nó ra để lấy được một sợi tơ cực kỳ mịn. Truyền thuyết nầy nhầm có ý thêu dệt việc sản xuất tơ lụa  đặc biệt ở những vùng lân cận sông Hoàng Hà và Dương Tử.  Các nhà sử học xác định rằng tơ lụa được phát hiện vào khoảng 2.000 hoặc 3.000 năm trước Công nguyên tại Trung Quốc.

Bướm  tằm Bombyx mori phải trải qua 4 giai đoạn trong quá trình này như sau: từ trứng (ovule) đến thành sâu bướm (larve) rồi sau đó thành nhộng (pupe)  trước khi thành bướm (imago). Quá trình này có thể mất đi từ 40 đến 60 ngày. Con bướm này mới nở  có màu trắng nhạt và đầy lông nếu là con cái thì nó đã  có  chứa đầy trứng. Nó tiết ra các pheromone để thu hút các con bướm đực để giao phối. Lúc nó còn nhộng thì nó tìm nơi  thích hợp để làm kén nhả tơ ra từ miệng của nó. Một sợi tơ nó có thể dài  đến 1000 mét và rộng có 30 micron. Nó sẽ bọc sợi tơi  bằng một loại chất keo gọi là sericin để nó làm cứng tổ kén có hình bầu dục.  Người ta ước tính muốn sản xuất một  kílô lụa thì cần đến 220 kilô lá dâu. Lá nầy phải sạch, khô và không được nóng quá.

Lụa là một sản phẩm mà Trung Quốc độc quyền đã có 5000 năm. Trung Quốc dùng nó  làm món quà cho kẻ thù Hung Nô mà cũng là món quà qúi giá được trao đổi về  sau trong giới qúy tộc trên thế giới. Cũng như ngọc bích được khắc thành những hình mang tính biểu tượng, lụa được dệt  hay thêu các hoa văn mang những ý nghĩa nhất định. Hung Nô là một dân tộc du mục hùng mạnh ở phía bắc Trung Quốc thời nhà Tần và Hán. Chính vì sợ họ mà dưới thời Chiến Quốc  các nước chư hầu như Yên, Triệu và Tần bắt đầu xây dựng tường thành riêng lẻ để bảo vệ mình khỏi sự xâm lược của họ. Sử ký Trung Hoa gọi họ là Man di. Họ không có thành trì hay chỗ ở nhất định. Vì thế họ không có canh tác nào cả. Họ sống cướp bóc gia súc, bắt người làm nô lệ rồi biến mất trở về thảo nguyên khiến làm người Hán khó mà đột kích phản công lại họ. Trước sự ranh mảnh nầy, người Hán buộc lòng phải  đổi chiến lược  mang tính cách ngoại giao mà họ tin rằng với thời gian sẻ đem lại chiến thắng cho họ nên họ chấp nhận hệ thống triều cống với 4 bốn nguyên tắc sau đây:

1°) Một công chúa Trung Quốc sẽ kết hôn với thiền vu, người thủ lỉnh của người Hung Nô.

2°) Vạn lý Trường Thành là ranh giới giữa hai bên, không có quyền vượt qua Trường Thành nếu không có phép.

3°) Hai bên được xem như hai nước anh em và bình  đẳng.

4°) Việc trao đổi hàng hoá trong đó có tơ lụa về phiá nhà Hán và phiá Hung Nô thì có lạc đà, ngựa, lừa và vàng bạc bằng cách dựng các khu chợ ở gần Vạn Lý Trường Thành. Nhưng với thời gian nguời Hung Nô càng ngày càng đòi thêm khiến  người Hán tin rằng sẽ làm suy yếu nền kinh tế của người Hung Nô và họ sẽ được những gì mà họ không thành công qua chiến tranh. Chính nguời Hung Nô cũng nhận thức được sự kiện nầy khiến làm họ mất đi nhuệ khí chiến đấu nhất là với chiến lược «năm miếng mồi  cám dỗ» (nhà cửa, âm nhạc, phụ nữ, kho lẫm và quần áo đẹp). Họ cũng như người Hán nhất là trong tầng lớp ưu tú bắt đầu sử dụng lụa làm y phục, ga giường và dùng nó  vào nghi thức an táng như ở nghĩa trang  Noin-Ula, một di chỉ có hơn 2000 ngôi mộ của quý tộc Hung Nô và có vô số những tấm lụa damas qúi giá mà một phần lớn đến từ hệ thống triều cống. Chính lụa cũng làm Thiền Vu củng cố địa vị của mình, phân định giai cấp qua màu sắc và chất lượng. Nhờ  lụa chúng ta  mới có thể nhận thấy ra  rõ ràng  điạ vị của người sử dụng. Các hoàng đế Trung Hoa chỉ dùng màu vàng như màu lòng đỏ trứng gà, một màu mất rất nhiều công sức để thêu dệt nhất là theo luật lệ của triều đình. Bởi vậy hoàng cung mới có các xưởng dệt và nhuộm riêng tư và hoàng hậu đương triều là người cai quản và trách nhiệm  bộ phận nuôi tầm. Khi hoàng đế Kim Chương Tông  (Jin Zhangzong) lên ngôi vào  năm 1190 thi ngài đã thuê 1200 thợ dệt để sản xuất loại lụa damas. (1)

Hung Nô vẫn là một mối quan tâm lớn đối với các hoàng đế ở Trung Hoa nhất là với Hán Vũ Đế  mặc dù chính sách triều cống  được những người tiền nhiệm của ngài  áp dụng cho đến lúc đó. Đây là một kiểu liên hôn chính trị được Lâu Kính đề nghị với Hán Cao Tổ (Lưu Bang).  Sự không phục tùng và xấc xược của  Hung Nô vẫn tiếp tục làm bẽ mặt nhà Hán. Để đánh bại một kẻ thù vô hình như Hung Nô, Hán Vũ Đế có nghĩa vụ tổ chức lại quân đội của mình và làm cho nó phù hợp hơn để di chuyễn mà mục tiêu chính là đánh bật kẻ thù và cướp gia súc  của địch  ở giữa nơi họ cấm trại qua  các cuộc tấn công nhanh chóng bằng một số ít kỵ mã cũng như thói điều hành của Hung Nô. Vì vậy, việc sử dụng chiến xa bị loại bỏ trong các cuộc giao tranh quân sự. Sau đó, còn phải bỏ thoái của quan chức thường hay mặc lễ phục truyền thống để dùng ưu tiên quần dài  tránh đi sự cản trở trong việc cưỡi ngựa với tư thế ngồi xổm mà những người bình thường hay dùng. Chiến thuật này làm choáng váng quân Hung Nô, nhưng nó không thể làm chúng khuất phục được. 

Đây là lý do tại sao Hán Vũ Đế  phải lựa chọn các biện pháp khác bao gồm việc cải thiện mạng lưới đường xá không chỉ nó là xương sống của hệ thống kinh tế mà còn là chìa khóa thành công trong việc vận chuyển quân lính và tiếp tế. Trên các con đường của người Hán hiện nay đều có các trạm thư, chuồng ngựa, nhà trọ cho quan chức, ký túc xá cho du khách bình thường và thậm chí  có cả nhà giam cho tù nhân. Mạng lưới đường bộ do đó qua nhiều thế kỷ trở thành yếu tố then chốt của sự bành trướng quân sự và là công cụ hữu hiệu cho sự thâm nhập văn hóa của người Hán. Nó được xem ngang hàng với mạng lưới đường bộ của người La Mã.

Dọc theo biên giới phía bắc của vùng Cam Túc (Gansu), mạng lưới đường bộ này cũng cần phải bố trí lại  với một số đồn trú, xung quanh có các tháp canh mà một số có độ cao đến  18 thước dùng để theo dõi sự di chuyển của quân Hung Nô và báo hiệu bằng tín hiệu khói, bảo vệ những người sử dụng đường bộ và có các hành động phòng thủ phối hợp với bộ tham mưu. Chiến thắng của nhà Hán còn phụ thuộc vào các yếu tố khác quan trọng cũng như mạng lưới đường bộ này. Cung cấp lương thực cho các đơn vị đồn trú thường là một thách thức hàng ngày chưa kể đến những khó khăn lớn mà quân lính của Hán Vũ Đế gặp khi truy đuổi quân Hung Nô ở ngoài biên giới đến những vùng không xác định được. Điều này đòi hỏi sự tham gia của một số lượng lớn  về ngựa và kiến thức về địa hình rồi tất cả  cũng dần dần được cải thiện bằng cách vẽ lại các  bản đồ để xác định vị trí các điểm nước cũng như sự hợp tác của người dân địa phương.

Đôi khi điều cần thiết là phải nhanh chóng phục hồi kỵ binh trong trường hợp bị tổn thất đáng kể. Chúng ta có thể nói đến chiến dịch Ferghana chống lại Dayuan (Đại Uyển) vào năm 104 TCN. Trong số 60.000 binh lính giao chiến và 3000 con ngựa, tướng của Hán Vũ Đế, Li Guan Li (Lý Quảng Lợi) đã trở về với 10.000 binh lính và 1000 con ngựa. Vì vậy, triều đình nhà Hán đã phải khuyến khích người dân chăn nuôi ngựa, định giá một con ngựa giống với mức giá tiêu chuẩn khá cao, và xúc tiến đến việc đưa các giống ngựa mới từ các vùng đất phương Tây. Việc phục hồi nhanh chóng của kỵ binh rất cần thiết trong các cuộc viễn chinh xa. Không còn xa lạ với số lượng trang trại nuôi giống ngựa không ngừng tăng lên và việc cải thiện thức ăn gia súc bằng cách trồng cỏ linh lăng (Chi linh lăng) mà hạt giống được Zhuang Qian (Trương Khiên) mang về trong chuyến thám hiểm ở Trung Á.

Nhờ đó Trương Khiên đã phát hiện ra ở thung lũng Ferghana (Uzbekistan ngày nay) có những con ngựa  tốt, ngựa hãn huyết (đổ mồ hôi  đỏ như máu) và mang về vào năm 114 trước Công nguyên (TCN) một số mẫu vật được cung cấp bởi  người Wusun (Ô-Tôn), đồng minh của Hán Vũ Đế ở Trung Á. Kích thước, tốc độ và sức mạnh của các con ngựa nầy  làm hài lòng Hán Vũ Đế vô cùng. Nhưng thành tích của các con ngựa nầy  vẫn được cho là kém hiệu quả hơn  các con ngựa của  người Đại Uyển (Ferghana). Nhờ có móng guốc cứng hơn, những con ngựa Đại Uyển có thể  đi đến một nghìn li mỗi ngày. Mong muốn có được những con ngựa này, Hán Vũ Đế  tổ chức một cuộc thám hiểm quân sự chống lại người Đại Uyển. Họ đã sai lầm từ khước cung cấp các con ngựa nầy để đổi lấy quà tặng. Ngài không ngần ngại đặt cho những con ngựa này sau này với cái tên là « thiên mã » (tianma) (thiên mã= ngựa trời).

Những con ngựa nầy trở thành biểu tượng của quyền lực và uy tín vì Hán Vũ Đế cảm thấy bị sĩ nhục và bẽ mặt trước sự từ chối của một  tiểu vương quốc nằm ở trong thung lũng Ferghana. Chi phí dành cho cuộc thám hiểm quân sự rất quá mức không chỉ về trang bị và ngựa mà còn nhân mạng nửa  để có một kết quả không đáng  với khoảng ba mươi con  thiên mã và ba nghìn con ngựa giống và ngựa cái bình thường. Tuy nhiên, quân đội của Hán Vũ Đế  được lựa chọn khéo léo, chủ yếu là những người lính chuyên nghiệp và phạm nhân thực sự cũng như kỵ binh do các chỉ huy của các vùng biên giới cung cấp. Những người lính nhập ngũ này phải có sức bền bỉ về thể chất đáng kể để thực hiện những cuộc hành quân nhiều ngày và tiếp quản một thành phố.

Theo nhà sử học Tư Mã Thiên, không phải cái chết ở chiến trường hay thiếu lương thực là nguyên nhân dẫn đến những tổn thất đáng kể này mà chỉ là nỗi khát khao và sự ám ảnh của các tướng lĩnh muốn giành chiến thắng trong cuộc chiến bằng mọi giá vì mạng sống của họ còn phụ thuộc vào chiến thắng hay thất bại của các tác chiến này. Phần thưởng và hình phạt nghiêm khắc hoặc thậm chí án tử hình là một trong những giải thưởng mà Hán Vũ Đế sẽ dành cho họ mà họ không hề cho là ảo tưởng khi họ trở về Trung Hoa. Các tướng lĩnh uy quyền buộc phải tự sát hoặc đầu hàng kẻ thù (Lý Quảng, Lý Lăng, Lý Quang Lợi  vân vân..). Chiến dịch của Ferghana đã hoàn thành chỉ trong vòng một năm (từ mùa xuân năm 102  đến mùa xuân năm 101 TCN).

Sự ra  đời của con đường tơ lụa

Từ đây, sau chiến dịch Ferghana, tất cả các vương quốc  nằm trên con đường mà quân Hán đi ngang qua (sau này được gọi là « Con đường tơ lụa » ) đã chấp nhận thành chư hầu của Trung Hoa, ngoại trừ người Hung Nô. Để chống lại  những người nầy, Hán Vũ Đế  cố gắng tìm kiếm liên minh với kẻ thù của quân Hung Nô, đấy là người Đại Nguyệt Chi (Yuezhi) bằng cách cử một phái đoàn do Trương Khiên dẫn đầu đến Trung Á vào năm -139. Cuối cùng, Trương Khiên không thành công trong việc hoàn thành nhiệm vụ của mình vì ông ta đã bị quân Hung Nô giam giữ trong 10 năm trước khi trốn thoát để khám phá được Ferghana (Đại Uyển, Uzbékistan), Sogdiana  (vùng Samarkand), Bactriane (Turkmenistan) và phía bắc  Á Phú Hãn (Afghanistan ngày nay). Tuy nhiên, khi trở về Trung Hoa vào năm -126 trước Công nguyên, ông đã báo cáo với Hán Vũ Đế. Điều này cho phép Vũ Đế khám phá các quốc gia mà Trương Khiên đã đến tham quan và  nhắc lại cho Vũ Đế  biết có khả năng gia nhập vương quốc Shendu (Ấn Độ) từ nước Thục (Tứ Xuyên)  mà còn có một đế chế  hùng cường xa xôi có tên là  Daquin (Đế chế La Mã). Thay vi có được đồng minh chống lại Hung Nô, người ta lại có thể thấy giờ đây tìm ra được các đối tác thương mại quan tâm đến các sản phẩm của Trung Hoa như lụa, đồ sơn mài, công cụ bằng sắt vân vân… để đổi lấy ngọc, ngựa và lông thú. Vì thế con đường tơ lụa mới ra đời và trở thành sợi dây liên kết giữa Đông và Tây.

 Chỉ đến năm 115 TCN, Trương Khiên lại được Vũ Đế ủy thác dẫn một phái đoàn ngoại giao đến các vùng ở phía tây. Lần này, ông ấy cố gắng mang về không chỉ nhiều loại thực vật và sản phẩm tự nhiên (cỏ linh lăng, rượu vang, nho, quả hạch, quả lựu, đậu, len, thảm vân vân..) mà còn có cả những người chăn nuôi ngựa, người nước Ô-Tôn (Wusun nay ở Tân Cương). Bị ấn tượng bởi sự tráng lệ và giàu có của triều đình nhà Hán, người Wu Sun đồng ý tham gia trong cuộc liên minh  sau nầy do Hán Vũ Đế  đề xuất và mặc nhiên công nhận quyền bá chủ  của Trung Hoa.

Liên minh này được tiếp  theo sau đó với sự cống hiến một  cô công chúa Trung Hoa tên là Lưu Tế Quân cho nhà vua Côn Mạc của nước Wu Sun (Ô-Tôn). Vua nầy có cơ hội báo cáo hai lần cho Hán Vũ Đế về ý định hung hăng thù địch của quân Hung Nô qua cuộc liên minh nầy. Theo phong tục của Tây Vực, vị vua mới phải lấy tất cả những thê thiếp của vị vua cũ. Bởi vậy Tế Quân phải lấy Sầm Tâu, cháu nội của vua Côn Mạc khi ông nầy từ chức và dù Tế Quân không chịu nhưng với  Vũ Đế chi bảo Tế Quân nàng  đành phải chịu vì nàng là con cờ chính trị. Tế Quân  tuyệt mệnh về sau, không để lại một lời trăn trối nào cả với 30 năm thất vọng  từ thất vọng lấy ông vua già đầu tóc bạc phơ Côn Mạc rồi đến thất vọng khác phài lấy Sâm Tâu một đưá trẻ chưa đầy 15 tuổi. Nhờ nàng và công chúa Giải Ưu, người thay thế nàng về làm vợ Sầm Tâu  thì chẳng bao lâu sau nhà Hán liên minh với Ô -Tôn tiêu diệt uy lực Hung Nô và khiến Hung Nô từ thù địch trở thành chư hầu thần phục của Trung Hoa. Vuơng quốc Ô Tôn trở thành từ nay căn cứ chính trị để Trung Hoa bành trướng thế lực ở vùng Trung Á (Đại Uyển (Fergana), Khương Cư (Sogdiana), Đại Hạ (Irak), An Tức (Parthia, Iran), Sa-xa (Yarland), Lâu Lan (Lopnor)). Chính nhờ đó mới có sự giao lưu thương mại, văn hóa và chính trị giữa Đông và Tây mà Ô-Tôn trở thành trạm quan hệ nếu không nói là trục giao liên thương mại giữa hai nền văn hóa Đông và Tây. Nếu không có sự bền bỉ của Trương Khiên, sự tham vọng bành trướng thế lực của Hán Vũ Đế và sự hy sinh cao cả của Lưu Tế Quân thì chưa biết bao giờ mới có sự tiếp cận giữa Đông và Trung Á. Rồi sau đó  tuyến đường  tiếp tục từ An Tức(Ba Tư) đến thành phố Antioche (Thổ Nhi Kỳ ngày nay) trước khi đển thế giới Địa Trung Hải.

Dài có được 7000 cây số, con đường tơ lụa trở thành một trong những tuyến đường quang trọng nhất về thương mại nhất ở thời kỳ cổ đại và Trung Cổ. Có thể nói đây là sự khởi đầu của toàn cầu hóa thương mại.

Lụa không những là hàng duy nhất mà các thương nhân buôn bán vận chuyển dễ dàng  để  đi qua các bãi  sa mạc như Gobi và các dãy núi trên lưng những đoàn lạc đà lắc lư mà nó còn là một sản phẩm có giá trị cao đến từ Trung Hoa. Các lạc đà của vùng Bactriane  được chọn vì chúng đối phó hoàn hảo với những cơn bão cuốn theo những đám mây cát nghẹt thở  và chúng có khả năng đoán trước sự nguy hiểm bằng cách đứng chụm lại gần nhau và gầm gừ. Nhờ đó các lữ khách sẽ dùng nỉ bọc kính mũi và miệng lại. Lụa được xuất khẩu ra ngoài nước  theo con đường tơ lụa này dưới triều đại nhà Tây Hán khoảng 140-134 TCN. Thời đó ai bị bắt quả tang buôn lậu tằm  dưới dạng trứng hay dạng kén hoặc chỉ buôn lậu hạt hay cây dâu tằm non cũng có thể bị xử tử. Bất chấp nỗ lực bảo tồn của hoàng đế Trung Hoa, việc nuôi tằm cuối cùng  cũng được biết  lan rộng ra ngoài Trung Quốc, đầu tiên là Ấn Độ và Nhật Bản, sau đó đến  Đế chế Ba Tư, và cuối cùng là phương Tây vào thế kỷ thứ 6. Hiện tượng này đã được nhà sử học Procopius mô tả vào thế kỷ thứ 6.

Dựa sự mô tả của nhà văn Lucain về  nữ  hoàng Cléopâtre trong chiếc áo choàng bằng lụa khiếm nhã  kiểu sixdo  để lộ bộ ngực trắng nõn  nà của bà thì người Ai Cập  cũng đã biết đến lụa của Trung Hoa từ thế kỷ 1 TCN. Còn  người ở vùng Tây Á có truyền thống mua lụa trơn cùa Trung Hoa để thêu hoặc tháo ra dệt lại thành loại lụa damas đặc biệt nhưng cũng không bao lâu sau họ thu thập kiến thức và tập quán nuôi tầm. Còn ở Byzance, dưới triều đại của  hoàng đế Justinien Đệ Nhất có  hai nhà tu sĩ  của đạo Phương Đông  đã mang theo trứng giun tơ lụa từ Trung Hoa  về thủ đô  bằng cách giấu trong hai gậy  rỗng ruột. Còn ở Ba Tư thì là quê hương của các dâu tằm đen  nên người ở đây rất lão luyện trong việc nuôi tằm nên đạt đựợc sản lượng hàng năm rất  trọng đại dù tơ lụa làm ở nơi nầy kém mịn hơn lụa của Trung Hoa. Còn La Mã thì thì thời đó còn dùng quần áo bằng vải lanh và len. Với cuộc sống xa hoa, tầng lớp lãnh đạo La Mã bắt đầu biết đến các vải lụa tơ tằm của Hàng Châu  nhờ các thương gia Hy Lạp, Do Thái và  Syrie. Lụa trở thành từ nay một xa xí phẩm  và  được cực kỳ phổ biến nhất là nó vừa mềm mại và  mát mẻ cho mùa hè và ấm áp cho mùa đông  dù giá của nó quá cao. Bởi vậy nó bị các sắc lệnh của hoàng gia ban hành để kiểm soát giá cả của nó  trong  lúc đó ở Trường An trong vuờn Thượng Uyển thì  đã có trái nho giống ở Địa Trung Hải mà được gọi « mã nhủ » trên bàn ăn của Hán Vũ Đế.

Nhờ con đường tơ lụa mà hai đế chế nhà Hán và La Mã  được biết đến nhau. Đến một trăm năm sau Công Nguyên, đế chế nhà Hán có thể sánh ngang hàng  với đế chế  La Mã. Nền kinh tế của Trung Hoa  chủ yếu dựa vào nông dân trong khi nền kinh tế của La Mã dựa trên chế độ nô  lệ. Từ đó về sau có rất nhiều tuyến đường thương mại khác tựa như con đường tơ lụa nầy nhưng chúng  không chỉ vận chuyển hàng hóa và các mặt hàng quý giá mà còn dùng để trao đổi trí tuệ và văn hóa ở các thành phố mà các thương nhân cùng đoàn súc vật  đã được ghé qua và cũng là những  nơi để lại cho họ những ấn tượng sâu sắc  khó phai mờ  như con đường hành hương  cũa thầy Huyền Trang hay con đường của vị thương gia huyền thoại Ý Marco Polo.

Các tuyến đường nầy  không bất biến với thời gian: chúng phồn thịnh một lúc rồi sau đó  suy tàn rồi lại được tái lập lại một cách tương ứng với nhu cầu cũng như sự bất ổn trên toàn khu vực. Chúng là những con đường bộ nhộn nhịp người qua lại tỏa ra khắp ở lục điạ  Á – Âu như rễ cây. Có lẽ di sản cổ xưa nhất của các con đường tơ lụa là vai trò của chúng trong việc kết nối các nền văn hóa và dân tộc, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương. Trên thực tế, các thương nhân phải học ngôn ngữ và phong tục của các quốc gia họ đi qua để giao thương thành công.Tương tác gữa các nền văn hóa là một yếu tố quan trọng giao dịch vật chất. Các thương nhân nầy phần đông là người Khương Cư (Sogdiens).Theo sự nhận xét của sử gia Pháp Tristan Gaston-Breton thì nhờ có các tuyến đường đi bộ nầy mà Phương Tây mới phát hiện ra được chiếc la bàn, thuốc súng, tiền giấy và các tôn giáo như Phật Giáo, Thiên Chúa giáo, Do Thái Giáo, Hồi Giáo mới được du nhập vào Trung Hoa.

 Chính vì vậy vào giữa thế kỷ 19, nhà địa chất người Đức, nam tước Ferdinand von Richthofen, đã đặt tên cho mạng lưới của các tuyến đường thương mại và liên lạc này là « Die Seidenstrasse » (Mạng lưới của các con đường tơ lụa).Thuật ngữ này, được sử dụng ở dạng số nhiều, tiếp tục khơi gợi  sự tưởng tượng bởi sự bí ẩn đầy gợi cảm của nó.

(1) Thủ đô của nước Syrie hiện nay

 
Version française 

La Chine est le premier pays à cultiver le ver à soie Bombyx mori pour la production de la soie, il y a environ 5 000 ans. Bien que la matière elle-même se soit dégradée au fil du temps, des objets liés à sa production, tels que des métiers à tisser, des aiguilles et des navettes retenant les fils continuent à exister. Des morceaux de soie ont été découverts sur un site de la culture Liangzhu à Tianshanyang, Huzhou, dans le Zhejiang, datant de 2 700 av. J.-C. D’autres morceaux ont été retrouvés dans des tombes royales de la dynastie des Shang (vers 1600-1046 av. J.-C.). L’origine de la soie ancienne provient d’une légende chinoise racontant que l’impératrice  Xi Ling-shi, jeune épouse de l’empereur, Xuanyuan  aurait récupéré un cocon tombé dans sa tasse de thé et l’aurait  dévidé pour en extraire un fil extrêmement fin. Cette légende est destinée à embellir la fabrication de la soie, notamment dans les régions riveraines des fleuves Jaune et Yangtze. Les historiens précisent que la soie a été découverte vers 2 000 ou 3 000 av. J.-C. en Chine.

Le cycle biologique du ver à soie Bombyx mori se déroule en quatre étapes: de l’ovule  à la larve, puis à la pupe avant de devenir l’imago. Ce processus peut prendre de 40 à 60 jours. Le papillon nouvellement éclos est de couleur blanc pâle et bien poilu et il a déjà plein d’œufs s’il s’agit d’une femelle. Il sécrète des phéromones pour attirer les mâles dans le but de s’accoupler. Étant encore chrysalide, il cherche un endroit propice à la fabrication d’un cocon et  c’est avec sa bouche qu’il tisse le  fil pouvant mesurer jusqu’à 1 000 mètres de long et 30 microns de large. Il enduit le fil de soie d’une colle appelée séricine pour rendre plus résistant le cocon ayant la forme ovale. On estime qu’il faut 220 kilogrammes de feuilles de mûrier pour produire un kilogramme de soie. Ces feuilles doivent être propres, sèches et pas trop chaudes.

La soie était un produit dont la Chine a eu le monopole durant 5 000 ans. Elle était offerte en cadeau à ses ennemis, les Xiongnu, et constituait également un précieux présent échangé plus tard entre les nobles du monde entier. Analogue au  jade  sculpté  des figures ayant le caractère  symbolique, la soie était tissée ou brodée de motifs porteurs de significations. Les Xiongnu étaient un puissant peuple nomade vivant au nord de la Chine sous les dynasties Qin et Han. C’est par crainte de  leur razzia que, pendant la période des Royaumes combattants, les états vassaux  Yan, Zhao et Qin commençaient à construire leurs propres remparts pour se protéger de leur invasion.  Dans Les livres d’histoire chinois on les appelait  « Barbares » (Man di). Ils n’avaient ni forteresse ni résidence fixe. Par conséquent, ils ne cultivaient rien du tout. Ils vivaient de pillages de bétail et de capture d’esclaves, puis ils disparaissaient dans la steppe. Cela rendait  difficiles ainsi les contre-attaques chinoises. Face à cette ruse, les Han étaient  contraints d’adopter  la  stratégie diplomatique ayant pour but de leur assurer plus tard la victoire. Ils acceptaient  ainsi  le système tributaire basé  sur les quatre principes suivants:

1°) Une princesse chinoise allait épouser le Chanyu, le chef des Xiongnu.
2°) La Grande Muraille constituait la frontière entre les deux camps.  Aucun  n’avait pas  le droit de la franchir sans autorisation.
3°) Les deux camps étaient considérés comme deux pays frères et égaux.
4°) L’échange de marchandises comprenant notamment la soie du côté des  Han et de chameaux, chevaux, ânes, or et argent du côté des Xiongnu, s’effectuait par l’établissement de marchés tout  près de la Grande Muraille. Mais au fil du temps, les Xiongnu les exigeaient de plus en plus. Cela faisait croire aux Han qu’ils réussissaient à affaiblir l’économie des Xiongnu et qu’ils avaient ce qu’ils n’avaient pas réussi à obtenir par la guerre. Les Xiongnu eux-mêmes étaient conscients que ce fait  leur faisait perdre la combativité, notamment grâce à la stratégie des « cinq tentations » (maisons, musique, femmes, greniers et beaux vêtements).

À l’instar des Han, ils commençaient à utiliser la soie, notamment parmi l’élite, pour l’habillement, la literie et les rituels funéraires, comme au cimetière de  Noin-ûla, un site comptant plus de 2 000 tombes de nobles Xiongnu et d’innombrables soies damassées précieuses, dont une grande partie provenait du système de tribut. C’est la soie qui permettait au Chan Yu de consolider sa position et  de se  distinguer dans  la hiérarchie  par la couleur et la qualité. Grâce à la soie, on pouvait clairement reconnaître le statut du propriétaire. Les empereurs chinois n’utilisaient que du jaune d’œuf, une couleur dont la broderie demandait beaucoup d’efforts, surtout selon les règles impériales. Le palais impérial possédait donc ses propres ateliers privés de tissage et de teinture et l’impératrice régnante était responsable du département de la culture de la soie. Lorsque l’empereur Jin Zhangzong monta sur le trône en 1190, il engagea 1 200 tisserands pour produire de la soie damassée. (1)

Les Xiongnu demeuraient une préoccupation majeure pour les empereurs de Chine, en particulier pour l’empereur Han Wu Di, malgré le lourd tribut adopté jusqu’alors par ses prédécesseurs. Il s’agissait d’une forme de mariage politique proposé par le conseiller Lou Jing (Lâu Kính) à l’empereur Gao Zou des Han (Liu Bang). L’insubordination et l’insolence des Xiongnu continuaient à embarrasser les Han. Afin de vaincre un ennemi invisible comme les Xiongnu, l’empereur Han Wu Di était obligé de réorganiser son armée et de la rendre plus mobile. Son objectif principal était de déloger l’ennemi et de piller son bétail au cœur de ses campements grâce à des attaques rapides menées par un petit nombre de cavaliers  à la manière des Xiongnu. Ainsi, l’utilisation des chars était supprimée lors des combats militaires. Plus tard, les militaires devaient renoncer à porter aussi des robes de cérémonie traditionnelles  au profit du pantalon, ce qui leur  permettait d’éviter la gêne provoquée par la posture accroupie que les roturiers avaient l’habitude de prendre. Cette tactique stupéfiait les Xiongnu, mais elle  ne parvenait  pas à les soumettre.

C’était la raison pour laquelle  l’empereur Han Wu Di devait opter d’autres mesures, notamment  dans l’amélioration du réseau routier.  Cela constituait non seulement l’épine dorsale du système économique, mais aussi la clé du succès du transport des troupes et du ravitaillement. Désormais, les routes des Han comportaient des relais de poste, des écuries, des auberges pour les fonctionnaires, des dortoirs pour les voyageurs ordinaires et même des prisons pour les prisonniers. Le réseau routier devenait ainsi, au fil des siècles, un élément clé de l’expansion militaire et un outil efficace de pénétration culturelle des Han. Il était considéré comme comparable à celui des Romains.

Situé le long de la frontière nord de  Gansu, ce réseau routier nécessitait également un réaménagement, avec la présence de plusieurs garnisons entourées de tours de guet dont  certaines atteignaient 18 mètres de haut et étaient utilisées pour surveiller les mouvements des Xiongnu et les signaler par des signaux de fumée. Cela  permettait de protéger  les usagers de la route et coordonner les actions défensives avec l’état-major. La victoire des Han dépendait d’autres facteurs importants comme c’était le cas de ce réseau routier. Le ravitaillement des garnisons était souvent un défi quotidien, sans parler des grandes difficultés rencontrées par les soldats des Han Wu Di dans la poursuite des Xiongnu au-delà des frontières surtout dans des régions inconnues. Cela nécessitait la participation de nombreux chevaux. La connaissance approfondie du terrain s’avérait nécessaire  avec des compétences progressivement améliorées par le retraçage des cartes géographiques  pour la localisation des points d’eau et la coopération des populations locales.

Parfois, il était nécessaire de reconstituer rapidement la cavalerie en cas de pertes importantes. On peut citer la campagne de Ferghana contre Da Yuan en 104 av. J.-C. : sur les 60 000 soldats engagés et les 3 000 chevaux, le général de l’empereur Han Wu Di, Li Guan Li, revint seulement avec 10 000 soldats et 1 000 chevaux. La cour des Han dut donc encourager l’élevage, fixer un prix standard assez élevé pour un étalon et promouvoir l’introduction de nouvelles races de chevaux en provenance des pays occidentaux. La reconstitution rapide de la cavalerie était essentielle pour les expéditions lointaines. Il n’était donc pas étonnant de voir le nombre des centres  d’élevage de chevaux en augmentation constante et l’alimentation du bétail en nette amélioration par la culture de la luzerne, dont les graines avaient été ramenées par Zhuang Qian  lors de son expédition en Asie centrale.

Grâce à cela, Zhang Qian découvrit ainsi dans la vallée de Ferghana (actuel Ouzbékistan) de beaux chevaux qui suaient avec du sang rouge et ramena  en 114 av. J.-C. des spécimens fournis par les Wu Sun, les alliés de l’empereur  Han Wu Di en Asie centrale. La taille, la vitesse et la force de ces chevaux plaisaient beaucoup à l’empereur Han Wu Di. Mais les performances de ces chevaux étaient encore considérées moins performantes que celles des chevaux des Da Yuan (Ferghana). Grâce à leurs sabots plus durs, ces derniers  pouvaient parcourir jusqu’à mille li par jour. Désireux de les acquérir, l’empereur Ha Wu Di organisa une expédition militaire contre le peuple Da Yuan. Ceux-ci refusèrent par erreur de les lui fournir en échange de cadeaux. Il n’hésita pas à les baptiser plus tard « chevaux célestes ». Ces chevaux devinrent un symbole de puissance et de prestige, car l’empereur Wu de Han se sentait humilié par le rejet d’un petit royaume situé dans la vallée de Ferghana. Le coût de l’expédition militaire était excessif, non seulement en équipement et en chevaux, mais aussi en vies humaines, pour un résultat qui ne valait pas avec  les trente chevaux célestes  et les trois mille étalons et juments ordinaires. Cependant, l’armée de l’empereur Wu de Han était savamment sélectionnée, composée principalement de soldats professionnels et de véritables condamnés, ainsi que des cavaliers  fournis par les commandants des régions frontalières. Ces soldats conscrits devaient avoir une endurance physique considérable pour entreprendre des marches de plusieurs jours et prendre le contrôle d’une ville.

Selon l’historien Sima Qian, ce ne sont pas la mort sur le champ de bataille ou le manque de nourriture qui ont causé ces pertes importantes, mais seulement le désir et l’obsession des généraux de gagner la guerre à tout prix car leur vie dépendait de la victoire ou de l’échec de ces opérations. Récompenses et punitions sévères voire condamnations à mort faisaient partie des lots que Wu Di leur réservera sans aucune illusion dès leur retour en Chine. Des généraux valeureux étaient obligés de se suicider ou se rendre à l’ennemi (Li Quan, Li Ling, Li Guan Li etc.). La campagne de Ferghana était bouclée seulement en un an (Printemps de l’année 102 -Printemps de l’année 101 av. J.C.).

 Naissance de la Route de la Soie

Après la campagne de Ferghana, tous les royaumes situés le long de la route empruntée par l’armée Han (connue plus tard sous le nom de « Route de la Soie ») acceptèrent de devenir désormais  les vassaux de la Chine, à l’exception des Xiongnu. Pour contrer ces derniers, l’empereur  Han Wu Di tenta de s’allier aux ennemis des Xiongnu, les Yuezhi, en envoyant une délégation menée par Zhang Qian en Asie centrale en l’an -139 av. J.C.. Finalement, Zhang Qian échoua dans sa mission : il fut retenu captif par les Xiongnu durant  dix ans avant de s’échapper pour explorer Ferghana (Ouzbékistan), la Sogdiane (région de Samarcande), la Bactriane (Turkménistan) et le nord de l’Afghanistan). Cependant, lorsqu’il retourna en Chine en -126 av. J.-C., il fit son rapport à l’empereur Han Wu Di. Cela permit à  ce dernier d’explorer les pays que Zhang Qian avait visités et de lui  rappeler qu’il y avait une possibilité de rejoindre le royaume de Shendu (Inde) depuis la province de Sichuan et aussi un puissant empire lointain appelé Daquin (Empire romain). Au lieu de gagner des alliés contre les Xiongnu, on pouvait désormais trouver des partenaires commerciaux intéressés par les produits chinois tels que la soie, la laque, les outils en fer etc. en échange de jade, de chevaux et de fourrures. Ainsi naquit la nouvelle Route de la Soie qui devint le lien entre l’Orient et l’Occident.

Ce n’est qu’en l’an 115 av. J.C. que Zhang Qian fut chargé de nouveau par l’empereur Han Wu Di de diriger une mission diplomatique dans les régions occidentales. Cette fois, il réussit à ramener non seulement une variété de plantes et de produits naturels (luzerne, vin, raisin, noix, grenades, haricots, laine, tapis, etc.), mais aussi des éleveurs de chevaux, les Wūsūn  (les gens vivant dans l’actuel Xinjiang). Impressionnés par la splendeur et la richesse de la cour des Han, les Wūsūn acceptèrent de participer à l’alliance proposée par l’empereur Han Wu Di et reconnurent tacitement la suzeraineté chinoise.

Cette alliance fut suivie par l’offrande d’une princesse chinoise nommée Liu Jijun (Lưu Tế Quân) au roi  Kunmo (Côn Mạc) des Wūsūn. Ce dernier  eut l’occasion d’informer ainsi l’empereur Wu Di à deux reprises, des intentions agressives et hostiles de l’armée Xiongnu. Selon la coutume des régions occidentales, le nouveau roi devait prendre toutes les concubines de l’ancien roi. Liu Jijun dut donc épouser Sam Tau, le petit-fils du roi Kunmo lors de sa démission. Malgré le refus de Liu Jijun,  sur ordre de l’empereur Wu Di, elle dut l’accepter finalement  car elle n’était qu’un pion politique. Liu Jijun mourut plus tard sans laisser le  dernier mot avec trente années de désillusion: d’abord la déception d’épouser le vieux roi Kun Mo aux cheveux blancs puis celle de prendre ensuite Sam Tau comme mari, un enfant de moins de 15 ans. Grâce à  elle et à la princesse Jieyou (Giai Ưu), qui la remplaça  plus tard comme épouse de Sam Tau, la dynastie des Han s’allia bientôt au royaume des Wūsūn  pour anéantir la puissance des Xiongnu  et faire d’eux des vassaux de la Chine. Le royaume des  Wūsūn devint désormais la base politique de la Chine pour étendre sa puissance en Asie centrale (Ferghana, Sogdiane, Irak), Iran, Yarland, Lopnor). C’est grâce à cela que les échanges commerciaux, culturels et politiques entre l’Orient et l’Occident se sont développés et Wūsūn est devenu ainsi  un point de liaison, voire un axe commercial, entre les deux cultures. Sans la persévérance de Zhang Qian, l’ambition d’étendre le pouvoir de Han Wu Di et le noble sacrifice de Liu Jijun, on ne sait pas quand il y aura un rapprochement entre l’Est et l’Asie centrale. Puis l’itinéraire  se poursuit ensuite d’Anxi (Parthe, Iran) à Antioche (aujourd’hui en Turquie) avant d’atteindre le monde méditerranéen.

Longue de 7 000 kilomètres, la Route de la Soie devient l’une des routes commerciales les plus importantes de l’Antiquité et du Moyen Âge. On peut dire que c’est le début de la mondialisation des échanges.

La soie était non seulement la seule marchandise que les commerçants pouvaient transporter facilement à travers les déserts comme le Gobi et les montagnes à bord de convois de chameaux, mais c’était aussi un produit très prisé en provenance de Chine. Les chameaux de Bactriane étaient choisis car ils résistaient parfaitement aux tempêtes accompagnées d’épais nuages de sable et ils pouvaient anticiper le danger en se tenant tout près les uns des autres et en grognant. Les voyageurs se couvraient alors le nez et la bouche avec le feutre. La soie était exportée à l’étranger le long de cette route de la soie sous la dynastie des Han occidentaux, vers 140-134 av. J.-C. La soie était exportée à l’étranger le long de cette Route de la Soie sous la dynastie des Han occidentaux, entre 140 et 134 av. J.-C. environ. À cette époque, quiconque était surpris en train de faire de la contrebande des vers à soie sous forme d’œufs ou de cocons, ou même simplement des graines ou des jeunes mûriers, pouvait être exécuté. Malgré les efforts des empereurs chinois pour  préserver la sériciculture, celle-ci  finit par se répandre au-delà de la Chine, d’abord en Inde et au Japon, puis dans l’Empire perse, et enfin en Occident au VIème  siècle. Ce phénomène fut décrit par l’historien Procope au VIème  siècle.

En s’appuyant sur la description de la reine Cléopâtre portant une robe de soie impudique qui dévoilait sa poitrine  d’une belle bancheur  par l’écrivain Lucan, on sait que les Égyptiens connurent la soie chinoise depuis le 1er siècle avant J.-C. Les peuples d’Asie occidentale avaient la tradition d’acheter la soie chinoise unie pour la broder ou la défaire pour la retisser en une soie damassée spéciale mais ils ne tardèrent pas à acquérir  entre-temps le savoir-faire et la pratique de la culture des vers à soie. À Byzance, sous le règne de l’empereur Justinien Ier, deux moines d’Orient rapportèrent des œufs de vers à soie de la Chine à la capitale en les cachant dans deux cannes  évidées. Quant à la Perse, patrie du mûrier noir, ses habitants étaient très expérimentés dans l’élevage du ver à soie. Cela  leur permettait d’avoir une production annuelle considérable, bien que leur soie produite  fût moins fine que celle de la Chine. Quant à Rome, on utilisa encore à cette époque des vêtements en lin et en laine. Avec une vie luxueuse, la classe dirigeante romaine commença à connaître les tissus de soie de Hangzhou grâce aux marchands grecs, juifs et syriens. La soie devint un produit de luxe extrêmement populaire, notamment pour sa douceur et sa fraîcheur en été et sa chaleur en hiver, malgré son prix exorbitant. Des décrets royaux furent donc promulgués pour en contrôler les prix. À cette époque, à Chang An, dans le jardin impérial, on a trouvé déjà des raisins méditerranéens appelés « mã nhủ » sur la table de l’empereur Han Wu Di.

La Route de la Soie a permis aux empires chinois et romain de se rencontrer.  Cent ans après Jésus-Christ, l’Empire des Han était sur le même pied d’égalité avec l’Empire romain. L’économie chinoise était basée en grande partie sur l’agriculture, tandis que l’économie romaine reposait sur l’esclavage. Depuis, de nombreuses autres routes commerciales ont suivi la Route de la Soie. Elles ont non seulement transporté des marchandises et des objets précieux, mais elles ont également servi de lieu d’échanges intellectuels et culturels dans les villes où  les marchands et leurs caravanes ont eu l’occasion de s’arrêter en leur laissant de fortes impressions comme le chemin de pèlerinage du moine chinois Xuánzàng ou celui du légendaire marchand italien Marco Polo.

Ces itinéraires n’étaient pas impérissables: ils  prospéraient  pendant un  certain temps, puis ils  étaient en déclin et ils étaient rétablis en fonction des besoins et de  l’instabilité de la région. C’étaient des voies terrestres très fréquentées qui s’étendaient à travers l’Eurasie comme les racines d’un arbre. L’héritage le plus ancien des Routes de la Soie était peut-être leur rôle de lien entre les cultures et les peuples et celui de facilitation du commerce. En effet, les commerçants devaient apprendre les langues et les coutumes des pays traversés pour réussir leurs échanges commerciaux. L’interaction interculturelle était un facteur important dans les transactions matérielles. Ces marchands étaient principalement des Sogdiens. Selon l’historien français Tristan Gaston-Breton, c’est grâce à ces itinéraires de marche que l’Occident a découvert la boussole, la poudre à canon, le papier-monnaie et que des religions comme le bouddhisme, le christianisme, le judaïsme et l’islam ont été introduites en Chine.

C’est pourquoi, au milieu du XIXème  siècle, le géologue allemand, le baron Ferdinand von Richthofen, baptisa ce réseau de voies commerciales et de communication « Die Seidenstrasse » (Le Réseau des Routes de la Soie). Ce terme, utilisé au pluriel, continue de susciter l’imagination par son mystère évocateur.

Version anglaise

China was the first country to cultivate the Bombyx mori silkworm for silk production, around 5,000 years ago. Although the material itself has deteriorated over time, objects related to its production, such as looms, needles, and shuttles for holding threads, still exist. Pieces of silk have been discovered at a Liangzhu culture site in Tianshanyang, Huzhou, Zhejiang, dating back to 2,700 BC. Other pieces have been found in royal tombs from the Shang dynasty (around 1600-1046 BC). The origin of ancient silk comes from a Chinese legend that tells how Empress Xi Ling-shi, the young wife of Emperor Xuanyuan, picked up a cocoon that had fallen into her teacup and unraveled it to extract an extremely fine thread. This legend is intended to embellish the manufacture of silk, particularly in the regions bordering the Yellow and Yangtze rivers. Historians specify that silk was discovered around 2000 or 3000 BC in China.

The life cycle of the silkworm Bombyx mori consists of four stages: from egg to larva, then to pupa, before becoming an imago. This process can take 40 to 60 days. The newly hatched moth is pale white and very hairy, and if it is a female, it already has a full set of eggs. It secretes pheromones to attract males for mating. While still in the chrysalis stage, it looks for a suitable place to spin a cocoon and uses its mouth to weave a thread that can measure up to 1,000 meters long and 30 microns wide. It coats the silk thread with a glue called sericin to make the oval-shaped cocoon more resistant. It is estimated that 220 kilograms of mulberry leaves are needed to produce one kilogram of silk. These leaves must be clean, dry, and not too hot.

Silk was a product over which China had a monopoly for 5,000 years. It was given as a gift to its enemies, the Xiongnu, and was also a precious gift exchanged later between nobles around the world. Similar to jade carved into figures with symbolic meaning, silk was woven or embroidered with patterns that carried meaning. The Xiongnu were a powerful nomadic people living north of China during the Qin and Han dynasties. It was out of fear of their raids that, during the Warring States period, the vassal states of Yan, Zhao, and Qin began to build their own ramparts to protect themselves from invasion. In Chinese history books, they were called “Barbarians” (Man di). They had no fortresses or fixed residences. As a result, they did not cultivate anything at all. They lived by pillaging livestock and capturing slaves, then disappearing into the steppe. This made Chinese counterattacks difficult. Faced with this cunning, the Han were forced to adopt a diplomatic strategy aimed at securing victory later on. They thus accepted the tributary system based on the following four principles:

1) A Chinese princess was to marry the Chanyu, the leader of the Xiongnu.
2) The Great Wall formed the border between the two camps. Neither side was allowed to cross it without permission.
3) The two sides were considered two equal brother countries.
4) The exchange of goods, including silk on the Han side and camels, horses, donkeys, gold, and silver on the Xiongnu side, took place through markets established close to the Great Wall. But over time, the Xiongnu demanded more and more. This led the Han to believe that they were succeeding in weakening the Xiongnu economy and that they had achieved what they had failed to achieve through war. The Xiongnu themselves were aware that this was causing them to lose their fighting spirit, particularly due to the strategy of the “five temptations” (houses, music, women, granaries, and fine clothing).

Like the Han, they began to use silk, especially among the elite, for clothing, bedding, and funeral rituals, as seen at the Noin-ûla cemetery, a site with more than 2,000 tombs of Xiongnu nobles and countless pieces of precious damask silk, much of which came from the tribute system. It was silk that allowed the Chan Yu to consolidate his position and distinguish himself in the hierarchy through color and quality. Thanks to silk, the status of the owner could be clearly recognized. Chinese emperors used only egg yolk yellow, a color that required a great deal of effort to embroider, especially according to imperial rules. The imperial palace therefore had its own private weaving and dyeing workshops, and the reigning empress was responsible for the silk cultivation department. When Emperor Jin Zhangzong ascended the throne in 1190, he hired 1,200 weavers to produce damask silk. (1)

The Xiongnu remained a major concern for the emperors of China, particularly for Emperor Han Wu Di, despite the heavy tribute paid by his predecessors. It was a form of political marriage proposed by the advisor Lou Jing (Lâu Kính) to Emperor Gao Zou of the Han (Liu Bang). The insubordination and insolence of the Xiongnu continued to embarrass the Han. In order to defeat an invisible enemy such as the Xiongnu, Emperor Han Wu Di was forced to reorganize his army and make it more mobile. His main objective was to dislodge the enemy and plunder their livestock in the heart of their camps through rapid attacks carried out by a small number of horsemen in the manner of the Xiongnu. Thus, the use of chariots was eliminated during military combat. Later, the military had to give up wearing traditional ceremonial robes in favor of pants, which allowed them to avoid the discomfort caused by the crouching posture that commoners were accustomed to. This tactic stunned the Xiongnu, but it failed to subdue them.

This was why Emperor Han Wu Di had to take other measures, particularly to improve the road network. This was not only the backbone of the economic system, but also the key to the successful transport of troops and supplies. From then on, the Han roads featured post stations, stables, inns for officials, dormitories for ordinary travelers, and even prisons for prisoners. Over the centuries, the road network became a key element in military expansion and an effective tool for the cultural penetration of the Han. It was considered comparable to that of the Romans.

Located along the northern border of Gansu, this road network also needed to be redesigned, with several garrisons surrounded by watchtowers, some of which were 18 meters high and used to monitor the movements of the Xiongnu and report them by smoke signals. This protected road users and coordinated defensive actions with the general staff. The Han victory depended on other important factors, such as this road network. Supplying the garrisons was often a daily challenge, not to mention the great difficulties encountered by Han Wu Di’s soldiers in pursuing the Xiongnu beyond the borders, especially in unfamiliar regions. This required the use of many horses. In-depth knowledge of the terrain was necessary, with skills gradually improved by retracing maps to locate water sources and cooperating with local populations.

Sometimes it was necessary to quickly rebuild the cavalry in the event of heavy losses. One example is the Ferghana campaign against Da Yuan in 104 BC: of the 60,000 soldiers and 3,000 horses deployed, the general of Emperor Han Wu Di, Li Guan Li, returned with only 10,000 soldiers and 1,000 horses. The Han court therefore had to encourage breeding, set a fairly high standard price for stallions, and promote the introduction of new breeds of horses from Western countries. The rapid rebuilding of the cavalry was essential for distant expeditions. It was therefore not surprising to see the number of horse breeding centers constantly increasing and the feeding of livestock greatly improved by the cultivation of alfalfa, the seeds of which had been brought back by Zhuang Qian during his expedition to Central Asia.

Thanks to this, Zhang Qian discovered beautiful horses that sweated red blood in the Ferghana Valley (now Uzbekistan) and brought back specimens in 114 BC provided by the Wu Sun, allies of Emperor Han Wu Di in Central Asia. The size, speed, and strength of these horses greatly pleased Emperor Han Wu Di. However, the performance of these horses was still considered inferior to that of the Da Yuan (Ferghana) horses. Thanks to their harder hooves, the latter could travel up to a thousand li per day. Eager to acquire them, Emperor Ha Wu Di organized a military expedition against the Da Yuan people. They mistakenly refused to provide them in exchange for gifts. He did not hesitate to later name them “celestial horses.” These horses became a symbol of power and prestige, as Emperor Wu of Han felt humiliated by the rejection of a small kingdom located in the Ferghana Valley. The cost of the military expedition was excessive, not only in terms of equipment and horses, but also in terms of human lives, for a result that was not worth the thirty heavenly horses and three thousand ordinary stallions and mares. However, Emperor Wu of Han’s army was carefully selected, consisting mainly of professional soldiers and actual convicts, as well as horsemen provided by the commanders of the border regions. These conscripted soldiers had to have considerable physical endurance to undertake marches lasting several days and take control of a city.

According to historian Sima Qian, it was not death on the battlefield or lack of food that caused these heavy losses, but only the generals’ desire and obsession to win the war at all costs, as their lives depended on the success or failure of these operations. Severe rewards and punishments, even death sentences, were part of the fate that Wu Di had in store for them upon their return to China. Valiant generals were forced to commit suicide or surrender to the enemy (Li Quan, Li Ling, Li Guan Li, etc.). The Ferghana campaign was completed in just one year (spring of 102 BC to spring of 101 BC).

Birth of the Silk Road

After the Ferghana campaign, all the kingdoms along the route taken by the Han army (later known as the “Silk Road”) agreed to become vassals of China, with the exception of the Xiongnu. To counter the Xiongnu, Emperor Han Wu Di attempted to ally himself with their enemies, the Yuezhi, by sending a delegation led by Zhang Qian to Central Asia in 139 BC. Ultimately, Zhang Qian failed in his mission: he was held captive by the Xiongnu for ten years before escaping to explore Ferghana (Uzbekistan), Sogdiana (the Samarkand region), Bactria (Turkmenistan), and northern Afghanistan. However, when he returned to China in 126 BC, he reported to Emperor Han Wu Di. This allowed the latter to explore the countries Zhang Qian had visited and reminded him that it was possible to reach the kingdom of Shendu (India) from Sichuan province, as well as a powerful distant empire called Daqin (the Roman Empire). Instead of gaining allies against the Xiongnu, it was now possible to find trading partners interested in Chinese products such as silk, lacquer, iron tools, etc. in exchange for jade, horses, and furs. Thus was born the new Silk Road, which became the link between East and West.

It was not until 115 BC that Zhang Qian was again commissioned by Emperor Han Wu Di to lead a diplomatic mission to the western regions. This time, he succeeded in bringing back not only a variety of plants and natural products (alfalfa, wine, grapes, nuts, pomegranates, beans, wool, carpets, etc.), but also horse breeders, the Wūsūn (the people living in present-day Xinjiang). Impressed by the splendor and wealth of the Han court, the Wūsūn agreed to participate in the alliance proposed by Emperor Han Wu Di and tacitly recognized Chinese suzerainty.

This alliance was followed by the offering of a Chinese princess named Liu Jijun (Lưu Tế Quân) to King Kunmo (Côn Mạc) of the Wūsūn. The latter thus had the opportunity to inform Emperor Wu Di twice of the aggressive and hostile intentions of the Xiongnu army. According to the custom of the western regions, the new king had to take all the concubines of the former king. Liu Jijun therefore had to marry Sam Tau, the grandson of King Kunmo, when he resigned. Despite Liu Jijun’s refusal, on the orders of Emperor Wu Di, she finally had to accept because she was only a political pawn. Liu Jijun later died without having the last word, after thirty years of disillusionment: first the disappointment of marrying the old, white-haired King Kun Mo, then that of taking Sam Tau, a child under the age of 15, as her husband. Thanks to her and Princess Jieyou (Giai Ưu), who later replaced her as Sam Tau’s wife, the Han dynasty soon allied itself with the kingdom of Wūsūn to destroy the power of the Xiongnu and make them vassals of China. The kingdom of the Wūsūn thus became China’s political base for extending its power into Central Asia (Ferghana, Sogdiana, Iraq), Iran, Yarland, and Lopnor. It was thanks to this that commercial, cultural, and political exchanges between the East and the West developed, and Wūsūn thus became a link, even a commercial hub, between the two cultures. Without Zhang Qian’s perseverance, Han Wu Di’s ambition to expand his power, and Liu Jijun’s noble sacrifice, it is unclear when the East and Central Asia would have come together. The route then continued from Anxi (Parthia, Iran) to Antioch (now in Turkey) before reaching the Mediterranean world.

Stretching 7,000 kilometers, the Silk Road became one of the most important trade routes of Antiquity and the Middle Ages. It can be said that this marked the beginning of the globalization of trade.

Silk was not only the only commodity that traders could easily transport across deserts such as the Gobi and mountains on camel caravans, but it was also a highly prized product from China. Bactrian camels were chosen because they were highly resistant to storms accompanied by thick clouds of sand and could anticipate danger by staying close together and grunting. Travelers would then cover their noses and mouths with felt. Silk was exported abroad along this Silk Road during the Western Han Dynasty, around 140-134 BC. Silk was exported abroad along this Silk Road during the Western Han Dynasty, between approximately 140 and 134 BC. At that time, anyone caught smuggling silkworms in the form of eggs or cocoons, or even just seeds or young mulberry trees, could be executed. Despite the efforts of Chinese emperors to preserve sericulture, it eventually spread beyond China, first to India and Japan, then to the Persian Empire, and finally to the West in the 6th century. This phenomenon was described by the historian Procopius in the 6th century.

Based on the description by the writer Lucan of Queen Cleopatra wearing an immodest silk dress that revealed her breasts with beautiful white skin, we know that the Egyptians were familiar with Chinese silk as early as the 1st century BC. The peoples of Western Asia had a tradition of buying plain Chinese silk to embroider or unravel it and reweave it into a special damask silk, but they soon acquired the knowledge and practice of silkworm cultivation. In Byzantium, during the reign of Emperor Justinian I, two monks from the East brought silkworm eggs from China to the capital, hiding them in two hollowed-out canes. As for Persia, home of the black mulberry tree, its inhabitants were very experienced in silkworm breeding. This enabled them to achieve considerable annual production, although the silk they produced was less fine than that of China. As for Rome, linen and wool clothing was still in use at that time. Living a life of luxury, the Roman ruling class began to discover the silk fabrics of Hangzhou thanks to Greek, Jewish, and Syrian merchants. Silk became an extremely popular luxury item, particularly for its softness and coolness in summer and warmth in winter, despite its exorbitant price. Royal decrees were therefore issued to control prices. At that time, in Chang An, in the imperial garden, Mediterranean grapes called “mã nhủ” were already found on the table of Emperor Han Wu Di.

The Silk Road enabled the Chinese and Roman empires to meet. One hundred years after Jesus Christ, the Han Empire was on equal footing with the Roman Empire. The Chinese economy was largely based on agriculture, while the Roman economy was based on slavery. Since then, many other trade routes have followed the Silk Road. They not only transported goods and precious objects, but also served as a place for intellectual and cultural exchange in the cities where merchants and their caravans had the opportunity to stop, leaving them with strong impressions, such as the pilgrimage of the Chinese monk Xuánzàng or that of the legendary Italian merchant Marco Polo.

These routes were not permanent: they prospered for a certain period of time, then declined and were reestablished according to the needs and instability of the region. They were busy land routes that stretched across Eurasia like the roots of a tree. Perhaps the most enduring legacy of the Silk Roads was their role in connecting cultures and peoples and facilitating trade. Indeed, merchants had to learn the languages and customs of the countries they traveled through in order to trade successfully. Intercultural interaction was an important factor in material transactions. These merchants were mainly Sogdians. According to French historian Tristan Gaston-Breton, it was thanks to these overland routes that the West discovered the compass, gunpowder, and paper money, and that religions such as Buddhism, Christianity, Judaism, and Islam were introduced to China.

That is why, in the mid-19th century, German geologist Baron Ferdinand von Richthofen named this network of trade and communication routes “Die Seidenstrasse” (The Silk Road Network). This term, used in the plural, continues to capture the imagination with its evocative mystery.

Bibliographie

Kassia ST Clair:  Đời Sợi dệt hình hài thế giới.Người Dịch Nguyên Chính NXB Thanh Niên Năm XB 2024
Huỳnh Văn Lang: Các công chúa sứ giả.2004
Cécile Beurdeley: Sur les routes de la soie. Le grand voyage des objets d’art. 1985 Office du Livre. Fribourg, Suisse.

Galerie des photos

Les trésors de Toutankhamon ( Bảo vật của Toutankhamon)

Version française
Version anglaise
Galerie des photos

Pharaoh Toutankhamon nổi tiếng khắp thế giới bởi tên tuổi của ông gắn liền với những báu vật  tuyệt vời  mà được nhà khảo cổ học Howard Carter khai quật vào năm 1922 tại Thung Lũng các vị Vua. Tên của ông được cha ông, Pharaoh Akhenaton thâm độc  đặt cho, trong khi mẹ ông, Kiya, chính là chị cùng cha khác mẹ của cha ông. Khi cha ông qua đời, Toutankhamon mới chỉ  có 8 hoặc 9 tuổi. Lúc đó, ông đã mất tất cả những người thân: mẹ Kiya, mẹ kế Nefertiti và các chị cùng cha khác mẹ. Ông thấy mình hoàn toàn cô độc. Lợi dụng điểm yếu của vị vua trẻ, hai cố vấn AyHoremheb đã khôi phục lại việc thờ cúng thần Amon, điều mà cha ông, Akhenaton, đã cấm đoán, và loại trừ ông ra khỏi các cuộc cải cách của họ. Do đó, ông trở thành một vị vua bị thao túng, ít được lắng nghe và bị cô lập khủng khiếp. Nhờ xác ướp của thân thể  ông, chúng ta biết rằng ông mắc nhiều khuyết tật (tật bàn chân vẹo, bệnh sốt rét liên tục). Ông trị vì để phục vụ tham vọng chính trị của hai cố vấn của cha mình, Ay và Horemheb. Họ lần lượt cai trị Ai Cập từ năm 1325 đến năm 1293 TCN sau khi ông qua đời ở tuổi 19. Sự kiện này đánh dấu sự kết thúc của Vương triều thứ 18.

Le pharaon Toutankhamon  est tellement connu dans le monde car son nom est lié plutôt aux fabuleux trésors exhumés en 1922 par l’archéologue Howard Carter dans la Vallée des Rois. Son nom est choisi par son père, le sulfureux pharaon  Akhenaton tandis que sa mère Kiya n’est autre que la demi-sœur de son père. Lorsque ce dernier est décédé, Toutankhamon n’a que 8 ou 9 ans. À ce moment il a  déjà perdu tous ses proches, sa mère Kiya, sa belle-mère Néfertiti et ses demi-sœurs. Il se retrouve tout seul. Profitant de la faiblesse de l’enfant roi, les deux conseillers Ay et Horemheb restaurent le culte d’Amon que son père Akhenaton  a interdit  et le mettent à l’écart de leurs réformes. Il devient ainsi un roi manipulé, peu écouté et terriblement isolé. Grâce à sa momie on sait qu’il a de multiples handicaps (pied bot, crises successives de paludisme). Il règne  pour servir les ambitions politiques des deux conseillers Ay et Horemheb  de son père. Ces derniers règnent successivement sur l’Egypte entre 1325 et 1293 avant J.C. après sa mort à l’âge de 19 ans. C’est ainsi que se termine la fin de XVIIIème dynastie.

Version anglaise

Pharaoh Tutankhamun is so well known worldwide because his name is mainly associated with the fabulous treasures unearthed in 1922 by archaeologist Howard Carter in the Valley of the Kings. His name was chosen by his father, the controversial Pharaoh Akhenaton, while his mother Kiya was none other than his father’s half-sister. When the latter died, Tutankhamun was only 8 or 9 years old. At that time, he had already lost all his close relatives: his mother Kiya, his stepmother Nefertiti, and his half-sisters. He found himself completely alone. Taking advantage of the young king’s weakness, the two advisors Ay and Horemheb restored the cult of Amon, which his father Akhenaton had forbidden, and sidelined him from their reforms. He thus became a manipulated king, little listened to and terribly isolated. Thanks to his mummy, we know that he had multiple disabilities (clubfoot, successive bouts of malaria). He reigned to serve the political ambitions of the two advisors Ay and Horemheb of his father. They ruled Egypt successively between 1325 and 1293 BC after his death at the age of 19. This is how the end of the 18th dynasty came to a close.

Galerie des photos

[Return MUSEUM]