Chùa Dâu (Bắc Ninh)

 

Chùa Dâu, cái nôi của Phật giáo Vietnam

 

Chùa Dâu nhìn từ tam quan, tháp Hoà Phong ở chính giữa

Cách xa Hànội khoảng 30 cây số, chùa Dâu là chùa có lâu đời nhất ở Việt Nam vì  được xây dựng từ buổi đầu Công Nguyên ở vùng Dâu mà thường được gọi là Luy Lâu . Lúc thởi Hán thuộc, Luy Lâu nầy  được xem  là thủ phủ của cả Giao Châu (Giao Chỉ) từ năm 111 TCN đến 106 TCN. Ở thời đó, Luy Lâu được  tiếp  thu  sớm,  theo nhà nghiên cứu Hà Văn Tấn ,  ảnh hưởng Phật giáo từ Ấn Độ cho đến thế kỷ thứ năm. Thái thú Sĩ Nhiếp (177-266) thường được tháp tùng khi đi dạo trong thành phố với các tu sĩ đến từ Ấn Độ hay Trung Á. Cuối thế kỷ thứ hai, Luy Lâu trở thành trung tâm đầu tiên Phật giáo ở Việt Nam với  năm ngôi chùa cổ: chùa Dâu thờ Pháp Vân (« thần mây »), chùa Đậu thờ Pháp Vũ ( « thần mưa »), chùa Tướng thờ Pháp Lôi  (« thần sấm »), chùa Dàn thờ Pháp Điện ( « thần chớp ») và chùa Tổ thờ Man Nương là mẹ của Tứ Pháp. Những cái tên Dâu, Đậu, Tướng, Dàn đó là những tên nôm dân dã cũa các nữ thần được thờ trong các chùa nầy mà người dân thích  gọi thay vì Mây, Mưa, Sấm , Chớp, những cái tên làm ta nghĩ đến  các sức mạnh thiên nhiên của cư dân sống về nông nghiệp. Hệ thống Tứ Pháp nói lên đây sự kết hợp tinh vi  giữa Phât giáo với  các tín ngưỡng dân gian có nguồn gốc nguyên thủy ở Việtnam. 

Hình ảnh chùa Dâu

Kể từ đó, nhiểu tu sĩ Ấn và ngọai quốc nổi tiếng như Khâu Đà La  (Ksudra), Ma Ha Kỳ Vực ( Mahajivaca) , Kang-Sen-Houci (Khương Tăng Hội), Dan Tian đều có đến tá túc nơi nầy để nghiên cứu, biên soạn, giảng kinh Phật và đào tạo tăng đồ. Số người tu sĩ  càng ngày càng đông khiến Luy Lâu chỉ vài năm sau trở thành một trung tâm phiên dịch  các kinh phật  trong đó có Pháp Hoa Tam Muội  (Saddharmasamadhi sutra ) của pháp sư Cương Lương Lâu Chi  (Kalasivi) , người nước Đại Nhục Chi vào thế kỷ thứ ba. Theo thiền sư Thích Nhất Hạnh, ai cũng tưởng lầm thiền sư nam thiên trúc  Tỳ Ni Đa Lưu Chi  (Vinaturaci) là người sáng lập dòng thiền ở Việtnam vào cuối thế kỷ thứ sáu nhưng khi ông đến Lưu Lâu vào năm 580, ông ở chùa Dâu (hay Pháp Vân).  Chính lúc đó nơi nầy đã có thiền sư Quán Duyên đang dạy thiền học và cũng có nhiều tu sĩ  từ nơi nầy sang Trung Hoa để  thuyết pháp   trước khi  tu sĩ Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma)  có mặt ở Trung Hoa và được công nhận là người sáng lập   thiền học và võ thuật Trung Hoa.

Chính là thiền sư Khương Tăng Hội, người nước Khương Cư,  có công là người sáng lập  dòng thiền ở Việtnam. Chính ở Luy Lâu nầy Phật giáo gia nhập vào đất nước Việtnam qua chuyện nàng Man Nương  mà không có găp sự khó khăn trở ngại  nào cả vì Phật giáo rất khoan dung , hòa đồng và chấp nhận dễ dàng  tín ngưỡng của dân bản xứ. Đây là cuộc hôn phối huyền diệu giữa đạo phật với tín ngưỡng bản địa, tiền thân của Tứ pháp (Mây, Mưa, Sấm, Chớp) thờ ở vùng Dâu. Ngày sinh của Đức Phật Thích Ca cũng là ngày sinh của Phật Tứ Pháp (Việt Nam). Bà Man Nương, mẹ của Tứ Pháp  được tôn sùng làm Phật mẫu.  Nơi nào có thờ Tứ Pháp , những nữ thần  nông nghiệp thì có thêm bàn thờ Phật.  Các nữ thần đuợc Phật hóa trở  thành Phật mẫu.  Từ đó Phật giáo mới lan tỏa ra các vùng khác Bắc Bộ. Phật giáo du nhập ở Việtnam là Phật giáo đại thừa  (Mahayana) và theo hai ngã: đuờng biển, từ phiá nam Việt Nam (Phù Nam và Chămpa) và đường bộ, từ phía bắc Việt Nam (Vân Nam).

 

 

Hoa Sen (Lotus)

lotus

English version

Version française
 

Không có cây thủy sinh nào được người Việt  ngưỡng mộ và  qúi  trọng bằng cây hay hoa sen. Ngoài biểu tượng của Phật Giáo, Sen còn đồng nghĩa với  sự tinh khiết ,  thanh thản và vẻ đẹp nữa. Nó còn khác biệt hơn những cây thủy sinh khác không những   nhờ  vẻ đẹp đơn sơ thanh nhã của hoa mà còn được nhắc nhở  nói đến rất nhiều  trong phong phú  truyền thống ở Á Châu nhất là ở Việt Nam. Nơi nầy,  Sen được liệt kê  vào  4 cây cao qúy nhất đó là  mai , liên , cúc và  trúc  biểu tượng  cho bốn mùa ( tứ thì) đấy. 

Nhìn lại trong nghệ thuật của người Việt, phong cảnh thường đựợc  dàn dựng  theo một sơ đồ bất di bất dịch  và cổ điển mà  thường  có sự xác định cần  thiết để trước  những yếu tố  nào, nhất là các nhân vật  trong cảnh tượng. Cho nên thường thấy một tương quan nghệ thuật độc đáo, một kết hợp bền vững giữa một loại cây và một loại vật  trong các bức tranh nho nhỏ của người Việt. Vì vậy thường thấy   sen  liên kết  với vịt (Liên Áp). Ít khi thấy sen liên kết với con vật  nào khác chỉ trừ khi nào tác giả không còn  tôn trọng những quy ước cổ điển nữa.    Với hoa , sen thường được người Việt gọi    là Hoa Sen hay là Liên Hoa.   Sen nó thuộc họ  Nymphéacées và có tên khoa học là   Nelumbo Nucifera hay là  Nelumbium Speciosum.  Nơi nào ở Việt Nam cũng tìm thấy Sen cả (  đầm, ao bùn,  vườn công cộng, đình vân vân…). Sự hiện diện của nó  ở chùa hay ở đền  làm giảm  đi nhuệ khí sân si dục vọng  của các tu sĩ và làm người khách cảm thấy lòng lân lân thả  hồn về cõi hư vô,  ấy cũng nhờ mùi    hương thơm nhẹ nhàng của  hoa sen. Nó sống rất   dễ dàng    và  thích nghi ở mọi môi trường.   Nó còn  sinh sôi nảy nở với cuộc sống dưới nước  bằng cách chọn lọc đi tất cả nước  đọng    ô uế mà nó  xâm nhập . Vì vậy  thường ví  nó  như   người có đức tính trong đạo Khổng (junzi)(quân tử).   Người nầy, dù ở môi trường nào đi nữa  vẫn không thay đổi  bản  chất  thanh cao  trong cuộc sống, vẫn giữ  đựợc sự  thuần khiết    giữa chốn đầy dẫy tham nhũng.  Người nầy cũng không để bị lôi cuốn  cám dỗ bởi  những tật xấu của xã hội cũng như sen không bi mùi hôi thúi ờ chốn bùn nhờ mùi hương thơm của hoa.  Bởi vậy trong  thơ ca của người Việt có môt bài đề cao đức tính của người quân tử dựa trên hình ảnh của cây Sen:    

Ðố ai mà ví như sen?
Chung quanh cành trắng, giữa chen nhị vàng
Nhị vàng cành trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

 

 

 

Để ca ngợi đức tính nầy của người quân tử hay của Sen, người ta thường nói : Cư trần bất nhiễm trần. Sen có nhiều đức tính khác nên lúc nào cũng được đứng đầu trong các loại cây qúi trọng của người dân Việt và Trung Hoa. Chính Sen đem lai nguồn  cảm  hứng cho các tu sĩ của một phái thiền Phật giáo Trung Hoa tên là « Pháp Hoa Tông »  dưới đời nhà Đường.  Dựa trên lý thuyết  của kinh   « Diệu Pháp Liên Hoa » , dòng nầy chỉ lấy đức tính của Sen để tu luyện.  Trong phái nầy, thời đó có nhiều hòa thượng thi sĩ nổi tiếng như Phong Cang và Thập Đắc không thua chi  Lý Thái Bạch (1)  và  Bạch Cư Dị (2) .  Trụ sở của phái nầy là chùa Hàn Sơn nằm ở vùng lân cận của thành phố Cô Tô  (Hàng Châu) chỉ chuyên trồng Sen trong các hồ.  Phái nầy  họ nghĩ rằng muốn đựợc an lạc trong tâm hồn và tránh đi sự luân hồi và  dục vọng thèm muốn thì cần áp dụng  lý thuyết  « Diệu Pháp Liên Hoa » dựa trên các đức tính của Sen như sau:

vô ưu : mùi thơm của hoa sen khi có dịp ngử nó vào thì sẻ thấy  sự thanh thản và yên tĩnh.  Theo các người xưa, Sen còn là một loại cây chóng tăng dục cũng như rau diếp.

tùy thuận: Sen có thể sống  ở bất cứ nơi nào luôn cả những nơi khô cạn cằn cỗi.

tỏa mùi thơm: (Cư trần bất nhiễm trần) Dù nơi nào có hôi thúi , Sen cũng vẫn lấn áp  thay thế bẳng mùi hương thơm của nó,  có thể  tăng trưởng tuỳ theo cường  độ của ánh sáng trong ngày.

vô cấu: trên cơ sở sinh sản. Sen có một cơ  chế cá   biệt cho   việc sinh sản thực vật. Không có sự thành hình của giao tử như các loại hoa khác. Hoa sen không những  xuất sắc về kích thước mà còn về trạng thái  dày và vàng sáp của các cánh hoa và nhất là  hương thơm của nó có thể  tăng trưởng thay đổi trong ngày. Hoa sen chỉ sống được 4 ngày. Người Nhật diển tã sự chớm nở của hoa sen như sau: ngày đầu  hoa sen có hình dáng của chai saké, ngày thứ nhì  bằng chén saké, ngày  thứ ba bẳng chén súp và ngaỳ thứ tư thì thành  cái đĩa. Dần dần quả của nó tựu hình, tựa như cái côn lật ngửa mà thường gọi là gương sen. Trên mặt bằng phẳng nầy  thì có chừng hai chục trũng chứa  những hạt nhận. Rồi sau đó   khi quả nó chín, nó tách rời cuống, nổi lềnh bềnh   và tan rã một  khi gương sen  đụng chạm với mặt nước qua ngày tháng.  Nhờ vậy các hạt nhân nó theo dòng  nước mà trôi xa hơn nơi  mà Sen nảy nở. Những hạt sen nầy  nặng hơn nước nên  chìm lún vào đất và đâm chồi mọc rễ. Hoa sen khi tượng hình đã có hạt từ trong mầm non. Bởi vậy ngưởi Việt thường nói « nhân quả đồng hành » khi nhắc đến Sen đấy. Đức Phật cũng thường dùng hoa Sen, để nói đến những người thoát khỏi ái tình và dục vọng  vì chính ái dục là nguồn gốc của mọi tội lỗi khổ đau (duhkha) và luân hồi sinh tử.

Để ca tụng đức tính của Sen qua những lời giảng dạy của Đức Phật (3), thiền sư Minh Lương thuộc phái Lâm Tế có làm một bài kệ như sau:

Ngọc quí ẩn trong đá
Hoa Sen mọc từ bùn
Nên chỗ biết sanh tử
Ngộ vốn thiệt bồ đề

 Sen được trông thấy nhiều trong nghệ thuật của người Việt, nhất là ở trong kiến trúc của Phật giáo.   Để nhận dạng cây sen  mô típ trong kỹ thuật trang trí thường có 8 cánh hoa chỉ định 8 hướng chủ yếu và biểu hiện lại đồ hình Mandala, một dạng hình học và biểu tượng của vũ tru Phật giáo. Còn trong ngành  y dược Việtnam thì hạt sen dùng để trị bệnh tiêu chảy, kiết lỵ và mộng tinh. Các hạt sen khi ăn nhiều và ăn sống,  thường   được xem như thuốc chữa bệnh mất ngủ. Người dùng sẻ ngủ trong giây lát nếu ăn luôn cái mầm xanh ở giữa hạt sen. Thưở xưa, ở Việtnam, các cậu trai muốn tỏ tình yêu thương các cô gái thường tặng hoa sen. Trong các lễ truyền thống của người Việt  nhất là những ngày Tết , không bao giờ có thể thiếu được  mứt hạt  sen và trà ướp sen cả.  Còn ẩm thưc  thì những người  sành điệu ăn uống ai cũng biết món gỏi ngó sen.

Đất nước Việt Nam đã bị  chìm đắm triền miên trong  chiến tranh, tham nhũng và bất công. Người Việt yêu chuộng hòa bình, công bằng và tự do lúc nào cũng nuôi hy vọng không ngừng,  sẻ có một ngày đất nước  được có lại sự thanh thản, huy hoàng và kính nể cũng như hình ảnh của cây Sen. Trong bải thơ tựa đề  « Hoa Sen », vua Lê Thánh Tôn   ngư trị một thời  hoàng kim mà Việt Nam lúc đó đang ở trên đỉnh cao của vinh quang, không ngớt lời khen ngợi vẻ đẹp  duyên dáng của Sen:

Nỏn nà sắc nước nhờ duyên nước
Ngào ngạt hương thơm nức dặm Trời ..


  • (1) Lý Bạch, một trong những thi sĩ danh tiếng nhất dưới thời của vua Đuờng Huyền Tông  (701-762).
  • (2) Thi sĩ lỗi lạc đời nhà Đường (772-846)
  • (3) Siddhârta Gautama (Cồ Ðàm Tất Ðạt Ða).

 

Temple Đô ( Đền Lý Bát Đế, Bắc Ninh)

Temple  Đô (Lý Bát Đế)

Version vietnamienne

Version anglaise

Bắc Ninh

Ce temple Đô fut édifié en l’an 1030 lors du retour du roi Lý Thái Tông pour célébrer l’anniversaire de la mort de son père Lý Công Uẫn (Lý Thái Tổ).  Mais cet édifice  a été complètement détruit à l’époque coloniale. C’est pourquoi en 1989 le gouvernement vietnamien décida de le restaurer  en s’appuyant sur les documents historiques encore  conservés. En face de sa portique d’entrée se trouve un pavillon d’eau érigé sur un grand  étang en forme de demi-lune parvenant à communiquer autrefois  au fleuve Tiêu Tương qui n’existe plus aujourd’hui. Ce complexe architectural historique  est dédié au culte des 8 rois de la dynastie Lý que le fameux historien Ngô Sĩ Liên a qualifiée comme une dynastie de clémence dans la collection intitulée  « Les Mémoires historiques du Grand Viet au complet (Ðại Việt Sử Ký toàn thư)  » (1697).

Selon l’adage populaire,  dans l’ouvrage  « Floriflège du jardin du Thiền (Thiền Uyển Tập Anh)   il y a un kệ (ou gâtha)   faisant allusion aux 8 rois de la dynastie des Lý  qu’on aimerait  attribuer soit  au disciple du moine patriarche  Khuôn Việt, Đa Bảo  soit au moine Vạn Hạnh comme suit:

Chữ Bát với nhà Lý

Một bát nước công đức
Tùy duyên hóa thế gian
Sáng choang còn soi đuốc
Bóng mất trời lên cao.

 

Un bol d’eau méritant et généreux, finit par

changer de vie avec la causalité  et la sérénité   en soi. 

Une torche d’une vive clarté continue de s’éclairer.

À la disparition de l’ombre, le soleil s’efface  derrière les montagnes.

Par insinuation, ce Kệ (ou stance)  veut évoquer les 8 rois de la dynastie des Lý , du fondateur Lý Công Uẫn jusqu’au dernier roi Lý Huệ Tông par le biais du mot bát qui signifie à la fois bol et huit  en vietnamien. Quant à Huệ Tông, son prénom est Sảm.   Étant  l’association de deux mots nhật (soleil) et  sơn (montagne) dans l’écriture des caractères chinois Han,  le mot Sảm signifie effectivement « le soleil se cache derrière les montagnes » pour désigner la fin ou la disparition. Ce kê s’avère prémonitoire car la princesse Lý Chiêu Hoàng (fille du roi Lý Huệ Tông) a cédé le trône à son époux Trần Cảnh  qui n’était autre que le roi Trần Thái Tông de la dynastie des Trần. On peut dire que la dynastie des Lý a eu  le royaume par la volonté de Dieu mais c’est aussi par cette dernière qu’elle l’a perdu.

Version vietnamienne

 


Đền Lý Bát Đế

Đền nầy được xây dựng vào  năm Canh Ngọ 1030 khi vua Lý Thái Tông về quê làm giỗ cho vua cha tức là Lý Công Uẫn (Lý Thái Tổ). Nhưng đền bị phá hũy hoàn toàn dưới thời pháp thuộc vì vậy cho đến năm 1989 thì được xây dựng lại dựa theo các tài liệu nghiên cứu còn lưu trữ. Trước đền thì có  thủy tạ trên hồ bán nguyệt thông đến sông Tiêu Tương  ngày xưa, nay không còn nữa. Đền nầy là một quần thể kiến trúc tín ngưỡng thờ tám vị vua nhà Lý, một triều đại nhân ái được sữ gia Ngô Sĩ Liên nói đến trong  bộ quốc sử   « Ðại Việt Sử Ký toàn thư » (1697). Theo lời truyền dân gian thì có một bài kệ có người cho là của thiền sư Đa Bảo, học trò của thiền sư Khuôn Việt còn có người nói là của sư Vạn Hạnh,   ám chỉ đến tám vua nhà Lý, được ghi lại trong Thiền Uyển Tập Anh như sau:

Nhất bát công đức thủy
Tuỳ duyên hoá thế gian
Quang quang trùng chiếu chúc
Một ảnh nhật đăng san

Một bát nước công đức
Tùy duyên hóa thế gian
Sáng choang còn soi đuốc
Bóng mất trời lên cao.

Bài kệ nấy ám chỉ tám đời vua của triều Lý từ Huệ Tông đến Thái Tổ qua chữ bát còn Huệ Tông tên là Sảm tức là theo Hán tự thì bên trên chữ  nhật là mặt trời, bên dưới chữ sơn là núi, chữ « Sảm » nghĩa là « mặt trời lặn sau núi » có nghĩa là suy. Sau đó đến đời Lý Chiêu Hoàng thì phải nhường ngôi cho  chồng Trần Cảnh  tức là Trần Thái Tông  thuộc nhà Trần. Có thể nói là nhà Lý được nước là tự trời mà mất nước cũng tự trời mà ra.

[RETOUR]

 

 

 

Đình Bảng (Maison communale, Bắc Ninh)

English version

Version vietnamienne

Depuis  longtemps,  Đình Bảng est réputée   dans le Nord du Vietnam  comme la maison communale,  réussissant par  son âge datant plus de 300 ans, à garder son état initial. On attribue sa  ressemblance à une grande maison en bois sur pilotis qu’on ne trouve pas dans d’autres villages du Tonkin. Vue de loin, elle a une structure imposante surélevée, posée solidement sur le sol grâce à   un assemblage de colonnes (60 piliers), d’arbalétriers et de toutes sortes d’éléments en bois de fer (gỗ lim)  soudés par des mortaises et des tenons sans avoir besoin des fondations coulées. C’est le poids de  sa toiture qui permet de la consolider . Selon l’on dit, à l’époque coloniale, cette maison réussît à résister aux assauts  d’un char  français  par l’attelage de sa splendide  charpente avec des chaînes. Grâce à la participation active du mandarin Nguyễn Thạc Lương, originaire du village Đình Bảng et  sa femme Nguyễn Thị Nguyên, cette maison communale édifiée au début du XVIII ème siècle fut  achevée seulement après 36 ans de travaux de construction. Dans  un vieil adage populaire vietnamien , cet édifice  occupe   la seconde place dans la classification des maisons communales du Tonkin. La  première place revient à Đồng Khang qui  n’arrive pas à résister aux aléas du temps tandis que la  maison Đình Diềm occupe la dernière place honorable et   garde seulement aujourd’hui 3 travées au lieu de 5 au moment de sa construction. Il n’y a que Đình Bảng continuant à préserver son état initial au fil des  années.

Située dans le village   Cổ Pháp de la commune Từ Sơn dans la province Bắc Ninh, cette maison communale est dédiée au  culte de trois génies tutélaires (le Génie de l’Eau, le Génie de la Terre et celui des Récoltes). Selon l’on-dit, c’est ici qu’est né Lý Công Uẩn, le fondateur de la dynastie des Lý. De passage à Đình Bảng, il ne faut pas oublier de visiter le temple Đô (Đền Đô) appelé fréquemment sous le nom « Lý Bát Đế (ou temple des 8 rois des Lý).  Ce site n’est pas très loin de la maison communale Đình Bảng ( à peu près  un demi kilomètre à pied). Il y a aussi  une spécialité locale connue sous le nom susê ou phu thê (mari-femme) qu’il ne faut pas oublier de goûter. Ce gâteau a  l’apparence d’un cube   ficelé avec un ruban de couleur rouge. Ce gâteau est composé de la  farine du tapioca, parfumé  au pandan et parsemé de grains de sésame (vừng đen) de couleur noire.  Au cœur de ce gâteau  se trouve une pâte  faite avec des haricots de soja cuits à la vapeur (couleur jaune)  et de la confiture des graines de lotus et de la coco râpée (couleur blanche)  ressemblant énormément à la frangipane trouvée dans les galettes des rois. Sa texture collante rappelle le lien fort  qu’on veut représenter dans l’union. Ce gâteau est le symbole de la perfection de l’amour conjugal et de la loyauté en accord parfait  avec le Ciel et la Terre (théorie du Yin et du Yang).

 

 

Version vietnamienne

Từ lâu, Đình Bảng   được xem là  một ngôi đình ở miền Bắc  còn giữ  đựợc vẻ  nguyên sơ dù nó  được xây dựng đã có 300 năm. Nó còn là ngôi đình có dáng nhà sàn mà ít  trông thấy ở các làng khác. Nhìn  từ đẳng xa, ngôi đình có một cấu trúc nổi,   kê vững  chắc trên mặt đất nhờ qua một   hệ thống  chân cột (60 cột trụ bằng gỗ lim ), kèo và xà giằng nhau, liên kết  không cần chân móng. Mái đình  càng nặng thì sức nén của nó xuống các cột càng lớn khiến ngôi đình càng vững chãi. Nghe nói nhờ vậy dưới thời Pháp thuộc,  đền nầy không có đổ vỡ truớc sự tấn công xe chiến đấu  của quân đội Pháp.

 Đình Bảng (Bắc Ninh)

Nhờ sự tích cực tham gia của quan Nguyễn Thạc Lương, người Đình Bảng và bà vợ là Nguyễn Thị Nguyên, ngôi đình nầy được xây dựng vào đầu thế kỷ 18 kéo dài 36 năm mới được hoàn thành. Đây là ngôi đình thường được dân gian miền Bắc  nói đến qua ngạn ngữ: Thứ nhất là đình Đông Khang, thứ nhì đình Bảng, thứ ba đình Diềm.  Đình Đông Khang bị tàn phá bởi chiến tranh, còn đình Diềm trước có 5 gian nay thì còn 3 gian. Chỉ còn đình Đình Bảng còn giữ đựợc vẻ nguyên sơ qua dòng thời gian. Đình nầy nằm ở  làng Cổ Pháp,  thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh và thờ các vị thành hoàng gồm Cao Sơn đại vương (thần Núi), Thủy Bá đại vương (thần Nước) và Bách Lệ đại vương (thần Đất). Nơi nầy theo lời tương truyền còn là nơi sinh và lớn lên  của Lý Công Uẩn, người sáng lập triều đình nhà Lý. Đến đây , cũng nên đến tham quan Đền Đô nhà Lý thường được gọi là đền Lý Bát Đế, nơi thờ  tám vị vua đầu tiên nhà Lý. Đền nầy không xa chi cho mấy đi chừng nửa cây số qua cái chợ là đến. Nhớ đừng quên ăn đặc sản của vùng. Đó là bánh phu thê, một  bánh hình  vuông bằng lá dừa, nhân đậu xanh ở  trong hình tròn,  biểu tượng vuông tròn của triết lý âm dương  và nhắc đến tình nghĩa vợ chồng.

 

 

 

 

Chùa Keo (Pagode Keo, Thái Bình)

 

Version vietnamienne

English version

En évoquant Thái Bình, on ne cesse pas de penser à sa spécialité locale (soupe de poissons)  et à sa pagode Keo.  Etant préparé minutieusement avec  les morceaux de  carpe  d’eau douce assaisonnés avec de  la poudre de curcuma,, ce plat associé aux nouilles de riz crée à la fois un goût délicieux et aromatique avec les feuilles d’aneth et de basilic,  ce qui lui permet de rivaliser incontestablement avec le phở, le bouillon des Tonkinois.

Quant à la pagode Keo, elle est véritablement un ancien ouvrage  architectural localisé dans le district Vũ Thư avec une superficie de 40.907,9m2. Etant considérée souvent comme une chef d’œuvre d’art basé essentiellement sur l’utilisation des étais  du bois de fer précieux (gỗ lim), cette pagode possède plus de 100 travées de taille diverse et un clocher magnifique à 3 étages  dont chacun possède son propre toit aux tuiles « mủi hài » et une cloche en bronze carrelé.  On ne conteste pas sa réputation d’être  le plus beau   joyau architectural typique datant de l’époque des Lê postérieurs. Son dôme ressemble à une fleur de lotus épanouie au milieu de la cour de la pagode.  L’organisation du culte religieux est la particularité de cet édifice  avec   Tiền Phật hậu Thần Thánh ( Bouddha dans la cour avant  et les Génies dans la cour arrière). C’est pourquoi on retrouve  prioritairement Bouddha  dans la salle antérieure (tiền đường) de la pagode  tandis qu’on pratique le culte des génies, en particulier celui  du  moine Dương Không Lộ dans la salle postérieure (hậu đường).    Etant issus des écoles religieuses   Vô Ngôn Thông et Thảo Đường, Dương Không Lộ était non seulement le Maître du Royaume sous la dynastie des Lý mais aussi l’inventeur de la fonderie vietnamienne. Cette pagode est habituée à organiser chaque année le festival des rites traditionnels ayant lieu au printemps (le 4e jour du 1er mois lunaire), et  à l’automne (entre le 13ème et le 15ème jour du 9e mois lunaire). La fête est tellement importante que les filles ne peuvent pas s’en passer avec le dicton suivant:

Dù cho cha đánh mẹ treo, Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm.
Malgré l’interdiction de mes parents,
je ne peux pas  laisser tomber le festival des rites traditionnels au jour du mois lunaire.

Un joyau architectural vietnamien

Galerie des photos 

 
 

 
Version anglaise 

In speaking of Thái Bình province, one does not cease thinking about its local speciality (fish soup) and Keo pagoda. Being carefully prepared with  seasoned pieces  of freshwater carp in turmeric powder, this meal combined with noddles gives simustaneously a delicious  and aromatic taste  by the presence of dill  and basil leaves, which allow it to compete with phở, the Tonkinese soup. For the Keo pagoda, there is an older architectural  artefact located in the  Vũ Thư district and covering a land area of 40.907,9m2. Being considered as a greatest masterpiece  of art and  based essentially on the use of precious wooden struts (gỗ lim), this pagoda has more than 100  various-sized spans and  a magnificient threelevel bell tower,  each of which  posseses its own roof  with  shaped tiles (mũi hài) and a bell in tiled bronze. One does not deny its reputation for being the most beautiful architectural jewel dating from the time of Later Lê Dynasty. Its dome looks like a flower blossomed in the midst of pagoda’s yart. The organization of religious worship is the  particularity of this building with Tiền Phật hậu thần thánh (Buddha in front yard and geniuses in rear yard). That is why Buddha is fund in the anterior room (tiền đường) while the cult of geniuses, in particular that of Dương Không Lộ monk takes place in the posterior room (hậu đường). Coming  from religious schools Vô Ngôn Thông and Thảo Đường, Dương Không Lộ was not only the great master of the kingdom under Ly  dynasty but also the inventor of Vietnamese foundry. This pagoda is accustomed to organize each year the religious festival in the spring (4th day of the first lunar month) and autumn (between 13th and 15th day of the 9th lunar month). The festival is so important that girls  cannot do without it with the following saying: 

Dù cho cha đánh mẹ treo, em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm.
Despite the interdiction of my parents,  I cannot renounce the Keo festival at the lunar day.

 
Chùa Keo một kiến trúc đẹp nhất ở Vietnam

Vietnamese version

Nhắc đến Thái Bình thì không thể quên được món canh cá rô và chùa Keo.  Canh cá, món nầy  được kết hợp với bánh đa, tạo ra một hương vị đầm đà với lá thì là, húng bạc hà,   không thua chi món phở của người miền Bắc  còn chùa Keo thì là một công trình kiến trúc cổ  độc đáo nằm trong huyện Vũ Thư  và có diện tích 40.907,9m2.  Đựơc xem là một kiệt tác nghệ thuật bằng gỗ lim , có hơn một trăm gian lớn nhỏ khác nhau và  nhất là có một gác chuông gồm có ba tầng, 12 mái, khung gỗ, mái lợp ngói mũi hài. Gác chuông là một kiến trúc tiêu biểu dưới thời Hậu Lê và được xem là đẹp nhất của vùng Bắc Bộ với hình dáng của một hoa sen vương lên giữa sân chùa. Chùa Keo  có đặc điểm riêng trong việc thờ tự, ngoài thờ Phật phía sau còn thờ thánh.(tiền Phật, hậu Thánh). Vì vậy phía sau là nơi thờ thiền sư Dương Không Lộ, đựợc phong làm thánh.  Ông thuộc phái Vô Ngôn Thông và phái Thảo Đường, làm Quốc sư dưới triều nhà Lý và được xem là vị tổ của nghề đúc đồng. Chùa nầy hằng năm  còn có tổ chức những ngày lễ hội  truyền thống dành cho mùa Xuân và mùa Thu. Ngày lễ hội quan trọng cho đến đổi  có câu ca dao về hội chùa Keo:

Dù cho cha đánh mẹ treo,
Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm.

 

Người bán hàng rong Hanoï (Les marchandes ambulantes)

 

Les marchandes ambulantes de Hanoï

Version anglaise
Version vietnamienne
Liste des photos

Étant connues à l’époque coloniale, les marchandes ambulantes se font au fil des années une image d’une scène ordinaire et plutôt familière pour les Hanoïens dans leur vie journalière. Par contre pour les touristes étrangers et les passionnés  de photos, elles constituent  un attrait  très original,  une caractéristique   particulière de la « culture du commerce ambulant »  de Hanoï  dont les photos ne peuvent pas être absentes  dans un album de photos de voyage, en particulier avec les marchandes ambulantes de fleurs. Étant venues d’autres provinces ou  vivant  aux alentours de la capitale, celles-ci  réveillées  très  tôt, à 4 ou 5 heures du matin, doivent accomplir  des dizaines de  kilomètres en vélo pour s’approvisionner en fleurs et fruits au marché.  Puis elles  cherchent des rues  calmes et désertes  pour mettre en  valeur les produits  proposés à vendre ( fleurs et fruits)  tout en faisant appel à leur  créativité  et l’adresse de leurs mains dans la géniale exposition et  la disposition superbement équilibrée de ces produits. Ceux-ci sont proposés en fonction de leur saison.  On peut dire que ces femmes marchandes ambulantes  sont des tableaux vivants animés et multicolores se  faufilant au cœur du vieux quartier de la capitale.

Elles  apportent  tous les jours à la capitale   un style de vie   particulier sans qu’elles  le sachent. Elles continuent à s’inquiéter de manière timorée  tout en cherchant de loin la présence et le déplacement de la police locale à travers leurs yeux  craintifs et apeurés. Cela fait mal à ces femmes qui doivent chercher de l’argent pour s’acquitter des obligations familiales et avoir la tranquillité dans l’âme mais cela crée aussi un souci majeur pour ceux qui aiment à faire des photos comme moi car je suis obligé de les poursuivre patiemment  à travers les rues et les quartiers avec le but de pouvoir obtenir ces photos inoubliables ci-dessous  que je pourrai partager sur le net. Il est  très difficile d’avoir auprès de ces femmes courageuses un sourire matinal naturel avec cette vie assez  tumultueuse.

Version vietnamienne

Đã có từ  đời Pháp thuộc, người bán hàng rong là một hình ảnh bình dị quá quen thuộc  đối với người Hà Thành  trong cuộc sống hằng ngày nhưng đối với những người du khách ngoại quốc hay là những người thích chụp ảnh thì người bán hàng rong là một nét đẹp quá độc đáo, một đặc trưng  văn hoá bán hàng rong  riêng tư  của Hà Thành không thể thiếu sót để lưu niệm trong cuốn album  được nhất là với  những người bán hoa dạo.  Các phụ nữ bán rong nầy họ là những người  nhập cư từ phương xa đến, họ  thức dậy lúc 4, 5 giờ sáng đạp xe hàng cây số để lấy hoa hay trái cây ở chợ   rồi họ tìm những đường hay nơi vắng vẽ ít người  để họ trang trí lại theo ý muốn, tăng thêm với  đôi bàn tay khéo léo,  cái  vẻ đẹp của  các món hàng thực phẩm  họ bán,  nhất là hoa quả. Họ bán theo mùa, muà nào thức ấy. Có thể nói họ là những bức tranh sống  linh hoạt   muôn màu di chuyển giữa lòng phố cổ. 

Họ tạo ra hằng ngày  một nét đẹp riêng tư  cho Hà Thành mà chính họ không bao giờ biết  nghỉ đến. Họ lúc nào cũng lo lắng  rụt rè thăm dò từ đằng xa sự đeo  đuổi của các chú  cảnh sát phường xóm qua đôi mắt sợ sệt. Thật tội cho họ để kiếm tiền trang trải cuộc sống vất vã, không có lúc nào được yên tâm cả mà cũng tội cho những người thích  chụp ảnh như  tớ cũng bị lôi cuốn,  chạy theo họ qua đường phố, phải kiên nhẫn  để có thể được các tấm ảnh nầy  để chia sẻ trên trang nầy  nhất là hiếm có  được ở nơi họ  những  nụ cười tự nhiên vui vẻ buổi sáng   với cuộc sống bon chen nầy.

marchande_ambulante

 

Version anglaise

Being known at the colonial period, street women  vendors get over the years,  a picture of the ordinary scene and too familiar for people living in Hanoi. However, for foreign tourists and photo enthusiasts, they constitute an attraction very original,  a particular characteristic of ambulant commerce in Hanoï. Their photos are not missing in an album of travel pictures, in particular with  itinerant florists. Coming from other provinces or living around the capital and being  up early  around 4 or 5 in the morning, they must accomplish tens of kilometers on a bike  for their  supplies in flowers and fruits to the market. Then they seek refuge in quiet and desert streets in order to highlight the products to be sold  (flowers and fruits) by calling upon the creativity  and the manuel skill  in the ingenious exhibition and the arrangement superbly balanced of these products proposed depending on their season. 

One can say these street vendors are animated and multicoloured  living tableaux sneaking in the heart of old quarter of Hanoï. They provide every day to the capital a  particular lifestyle without them knowing. They continue to worry in timid manner by seeking away the presence and displacement of local police with their fearful eyes. It hurts these women who must find money for paying off their family obligations and having peace in their soul but it  also creates a major concern for those who love to take pictures like me because I am obliged to pursue them with patience through streets  and quarters in order to obtain these unforgettable  pictures below.  It is difficult to have a morning natural  smile from courageous women when they have a tumultuous life.

Galerie des photos

[RETURN]

Old Hànội (Phố cổ Hànội)

Version française

Version vietnamienne

Despite the obsolescence of its tubular houses (nhà ống) and  old quarter of 36 streets and guilds, the « old Hanội » make over time the charming and romantic feeling. This old quarter  extending over an area mesuring approximately 82 ha, was established according to the criteria mentioned in the geomancy, a Asian discipline for finding the equilibrium and harmony between water and earth and especially between beneficial wind (Blue Dragon) and  evil wind (White Tiger).

 Each street has its specialty: street consecrated to the silk with multicolored scarves, street reserved only to drugs with the fragrance of aromatic herbs etc … , that is what writer Roland Dorgeles told in his book « On the mandarin road ». In his book entitled « A description of  Tonkin kingdom « , the English merchant Samuel Baron mentioned that with  his illustrations and interesting descriptions.

Despite its insignificant size against that of Vietnam, the old quarter of Hànội irrefutably  demonstrate the commercial and urban culture of the Vietnamese over many centuries. It is a model sorely needed for knowing in depth the traditional structure of the « town » in the Vietnamese’s rural world.

Pictures gallery 

titre_vieux_hanoi_1

 

Phố Cổ

The old quarter has a thousand years of history even if this latter is chaotic. Hànội has been predicted by Lý Thái Tổ king for ten thousand generations to come during the capital’s transfer. Hànội remains not only the eternal capital of the Vietnamese but also the sole city in South-East Asia  successfully keeping its mercantile city over the centuries.

Thu Quyến Rũ (The seduction of  Autumn of Đoàn Chuẫn-Từ Linh).

Saxophonist Quyền Văn Minh.

This track is taken from the album « Hànội mùa thu và em » (Hànội, the autumn and my love).

 Over night

vieux hanoi la nuit

 

 

 

Quán Thánh temple (Hànôi)

French version
Vietnamese version

Not far from Lake of the West (Hồ Tây), Quán Thánh is one of  the inescapable sites of Hànôi city. This sacred  temple is reserved to the cult of Taoist God named  Huyền Thiên Trấn Vũ considered in Asia as the emperor of the North (Bei Di (or Bắc Đẩu in vietnamese)) ruling on the underwater world. According to  the judicious arrangement of Feng Shui, (Phong Thủy), it is  erected with three  others  for purpose of protecting Thăng Long capital against strangers and  evil spirits, each going in the well-defined direction (Bạch Mã temple Hàng Buồm at the East, Voi Phục (Thủ  Lệ ) temple at the West,  Kim Liên in the South and Quán Thánh in the northern Hanoi). It is often said that this temple was erected in 1010 under the reign of Lý Thái Tổ king. The  statue was made of wood at the beginning of its installation. Despite successive  renovations under the Trần dynasty,  it was  only in 1677 under the reign of Lê Hy Tông king that the restoration was significant with the installation and replacement of the statue in bronze-black and the bell tower of the temple.

Vũ Công Chấn’s altar

This colossal statue of 4 tons and about 4 meters  in height, was placed on a marble platform having one metre in height. In a  sitting position with a square face and barefoot, the statue has a taoist traditional dress. It holds  in the right hand, a sword pointing on the turtle’s back and superbly decorated by the presence of the coiled snake while in the left hand, a Taoist mudra, a codified  ritual sign is visible by way of exorcism. Being associated to the direction of the North and  water, the color must be black  according to the theory of five elements (Ngũ hành). It is the explanation found in the color selection for the statue.

Pictures gallery

Đền Quán Thánh

The fine detail and the imposing size of this statue made almost four centuries ago, unquestionably reveal  the prodigious exploit and  know-how of  Ngũ Xã village steelworkers of this time under the supervision of Vũ Công Chấn.

 This temple is not only  the one of  last Taoist temples found in the capital but also the ideal place for those who like  serenity and calm in the town so loud and vibrant as Hànội city.

[RETOUR]

 

 

 

 

 

 

 

 

Yếm (The bra)

French and Vietnamese versions

yem_dao
Being an integral element  of four-part dress, Yếm is the most popular bra worn by Vietnamese women in the past. One finds in its manufacture a silk or cotton fabric square, the ends of which  are fixed by the straps tying behind the back and at the neck  level.This is intended to cover and support the chest for leaving  naked the rest of the body’s upper part. Yếm causes not only lure of seduction but also pleasant freshness during summer days. However in winter, it becomes a kind of the underwear above which is added the four-part dress,  thus allowing  Vietnamese women to protect themselves against the severe cold.

In the Vietnamese tradition, the wasp waist is one of the distinctive traits  of female beauty. Perhaps that’s why the birth of this bra is linked to this tradition intended   to emphasize  the line of the women’s body by giving it the shape of the segmented body of the wasp. 

This bra  was worn by all sections of the population without exception. But the notion of color differentiates between the categories of people wearing it. The brown colour is intended for  farmers while  educated girls prefer the harmonious, elegant and discrete colors. For the elderly, the dark remains the most widely used. Despite this observation, it is possible to see Yếm with eccentric colours.

Pictures gallery

One does not known its origin but  Yếm was appeared for the first time in the 11th century under the Lý dynasty. It underwent many changes over time before being again recently an glamourous fashion article, competitor of « Áo dài ». In  old days, it was accompanied by wearing a skirt and a turban cloth (black or brown) or a scarf ending with a « Crow beak » at the  front top. (khăn vuôn mõ quạ). It is only during the reign of  Minh Mạng emperor  that the black pants was  imposed instead of the skirt.

Yếm is an inexhaustible source for Vietnamese poets among which is  famous Hồ Xuân Hương. She has had the opportunity to describe not only the romantic and glamourous image of this Vietnamese undershirt but also the innocence of a young girl living in a society ruled by Confucian immutable ethic, in her poem entitled « the girl asleep in the daytime » (Thiếu nữ ngủ ngày).

Mùa hè hây hẩy gió nồm đông
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng
Lược trúc lỏng cài trên mái tóc
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Ðôi gò Bông đảo sương còn ngậm
Môt lạch đào nguyên suối chưa thông
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Ði thì cũng dở ở không xong.

Summer breeze is sporadically blowing,
Lying down the young girl slides into sleeping.
Her bamboo comb loosely attached to her hair,
Her pink bra below her waist dropped down fair.
On these two Elysian mounds, the nectar is still remaining,
In that one Fairy rivulet, the current seems to stop flowing.
At such a view, the gentleman hesitated,
Odd to leave, yet inconvenient if he stayed.

Yếm is mentioned so many times in  popular poems. It reflects the strength and intensity of the love through these two following verses:

Trời mưa trời gió kìn kìn.
Đắp đôi dải yếm hơn nghìn chăn bông.

It’s raining and it made the wind with intensity.
To be covered with a pair of Yếm better than to get thousand duvets

 

It is difficult to leave the person we fell in love unless we have become this undershirt to retain her. That is what we have in the two verses below:

Kiếp sau đừng hóa ra người
Hóa ra dải yếm buộc người tình nhân.

In the future life, one should not be born a man
But it is necessary to be transformed into undershirt to retain the lover.

Museum of Champa sculpture (Bảo tàng viện Điêu Khắc Cổ)

French version
Vietnamese version
Picture gallery

phatmau_tara

Before it became the Champa Sculpture Museum today, it was known as the Sculpture Garden in the distant past. It was here that they began to collect and preserve for the most part, under the aegis of archaeologist-architect Henri Parmentier and members of the French School of the Far East (EFEO) in the late 19th century all the artifacts found  during archaeological excavations in the central regions (from the Hoành Sơn Anamitic Range, Quảng Bình in the north to Bình Thuận (Phan Thiết) in the south) where an ancient Indochinese kingdom existed known in the early 2nd century as Linyi and then Huanwang and finally Champa until its annexation by Vietnam in 1471. Opened to the public in 1919, this museum initially took the name of its founder « Henri Parmentier Museum » and housed 190 artifacts among which was the famous pedestal of the Buddhist site Đồng Dương.

Then the museum did not cease to expand since 1975 to reach today an area of 2,000 m² out of a total of more than 6,600 m² and to acquire in the year 1978 the great masterpiece of bronze art, the statue of Laksmindra-Lokesvara (Quan Âm chuẩn đề) often known as Tara. It becomes over the decades the unique museum in the world in the field of Champa art. It allows the tourist to also know the chronology of Champa history as all styles are present through artifacts from the famous sites Mỹ Sơn, Đồng Dương, Trà Kiệu and Pô Nagar (Nha Trang). For French researcher Jean Boisselier, Chame sculpture is always closely linked to history. Despite the evolution of styles throughout its history, chame sculpture continues to keep the same divine and animal creatures in a constant theme. This is a museum not to be missed if one has the opportunity to visit Đà Nẵng

  • Mỹ Sơn E1 style (Phong cách E1)
  • Chính Lộ style (Phong cách Chính Lộ )
  • Đồng Dương style (Phong cách Đồng Dương)
  • Tháp Mắm style … (Phong cách Tháp Mắm)

Picture gallery

Tháp Mắm style

style_thapmam

 

  • Mỹ Sơn E1 style : vivacity in ornamentation, dedicacy in the details..style_dongduong
  • Khương Mỹ style : gentleness in the faces, harmony and symmetry…
  • Trà kiệu style : beauty in the adornments, the half-smile, the development of feminine beauty ( fully developed breasts, new freedom in the hips etc ..)
  • Đồng Dương style :typical facial appearance (protruding eyebrowns, thick lips with the corners…
  • Tháp Mắm style : art reached in its limits with a lack of realism and extravagance….

[Return to CHAMPA]