Le Caodaïsme (Cao Đài Giáo)

 

titre_caodai

English version
French version
Galerie des photos

Cao Đài gíáo được xem là một tôn giáo quan trọng đứng hàng thứ ba  ở Việtnam sau Phật giáo và Công giáo. Cao Đài  tức là nơi cao mà Thượng  để ngự trị.  Cao Đài giáo là một tôn giáo có tính pha trộn rất nhiều các tôn giáo lớn mà chủ yếu là Phật giáo, Công giáo,  Ấn Độ giáo, Hồi giáo,  Do Thái giáo,  Đạo giáo và nhất là kính trọng các truyền thống Vietnam. Tín đồ Cao Đài tin rằng Thượng đế là đấng chí cao  sáng lập ra các tôn giáo và luôn cả vũ trụ này và thường gọi tôn giáo của mình là Đạo Trời. Toà thánh Tây Ninh được tọa lạc tại thị trấn Hòa Thành, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh và cách xa khoảng 90 cây số  về phía đông nam của thành phố Saïgon. Số tín đồ theo đạo Cao Đài ước chừng 7 triệu người ở Việtnam và 30.000 ở hải ngoại nhất là ở Á Châu, Úc Châu, Gia Nã Đại, Âu Châu và Mỹ quốc.

Có 3 thời kỳ quan trọng trọng lịch sữ của đạo nầy.   Thời kỳ đầu và nhì được diễn ra ở thế kỷ 6 TCN.  Lần đầu thường được gọi là Nhất kỳ Phổ độ, Thượng đế xuất hiện dưới hình dạng của người lãnh tụ của Do Thái giáo, Đức  Phật  (Nhiên Đăng cổ Phật) ở Ấn Độ và Phục Hi ở Trung Hoa.  Lần thứ nhì thường gọi Nhị kỳ Phổ độ, ngài đến với Phật giáo qua  Sakyamuni, Khổng Giáo với Đừc Khổng Tử, Công Giáo với Đức Chúa Giêsu, Đạo giáo với Lão Tử và Hồi giáo với Mahomet.  Lần sau cùng là  Tam kỳ Phổ độ, ngài quyết định xuất hiện để truyền giảng cho tín đồ một cách trực tiếp qua hình thức cơ bút. Tất cả tôn giáo được xuất hiện trước Cao Đài giáo chỉ thể hiện dưới  các hình dạng khác nhau (tôn giáo) nhưng  cùng một chân lý mà còn tùy ở thời đại, nơi  phát hiện, phong tục tập quán của dân gian nhằm  để giáo dục nhân loại và dẫn đến con đường nhân nghĩa  hạnh phúc  dưới sự dìu dắt của Thầy.  Triết lý và niềm tin tín ngưỡng mà đạo Cao Đài giảng dạy rất giản dị nhưng tạo ra không ít sự hoang mang vì  đạo nầy rất thích hợp  với đạo lý nhiều hơn là mang tính chất huyền bí.  

  • Thờ cúng tổ tiên.
  • -Luyện tập thiền định.
  • -Thực tập ăn chay trong đời sống
  • -Bất  bạo động
  • -Tôn trọng mọi  hình thức tín ngưỡng
  • -Tu tập giải thoát luân hồi

Tránh làm 5 điều tối kỵ như sau:

  • Không giết bất cứ sinh vật
  • Không có gian dối
  • Không có uống rượu
  • Không có ngoại tình
  • Không có làm tổn thương qua lời nói

Cầu nguyện một lần trong ngày và ăn chay ít nhất  10 ngày trong tháng.  Các lễ  cầu nguyện được diễn ra  ở  toà thánh Tây Ninh mỗi ngày với các giờ chỉ định: 6 giờ, 12 giờ, 18 giờ và 24 giờ. 

Version française

Le caodaïsme est la troisième religion importante au Vietnam après le bouddhisme et le christianisme. Cao signifie « Haut » et Ðài  » Palace ». Cao Đài est la suprême palace où règne Dieu. Le caodaïsme est une religion syncrétique qui englobe et combine plusieurs éléments à partir des religions principales: le Bouddhisme, le Confucianisme, le Catholicisme, l’Hindouisme, l’Islam, le Judaïsme et le Taoïsme tout en prenant en compte les traditions vietnamiennes. Le Saint Siège se trouve à Tây Ninh, à 90 km du Nord-Ouest de Saigon. Le nombre de ses fidèles s’élève à 7 millions au Vietnam et 30.000 à l’étranger, en particulier en Asie, Australie, Canada, Europe et les Etats-Unis.

Galerie des photos

Article: Être caodaïste (Tôi là người Cao Đài)

img_9502 On trouve dans l’histoire de cette religion les trois périodes importantes de révélations. La première et la deuxième avaient lieu VIème siècle avant notre ère. Au cours de la première manifestation, Dieu fut apparu sous les trois formes du leader judaïste en Moyen-Orient, de Bouddha Dipankara en Inde et de Fou-Hi symbolisant le culte de l’humanité en Chine. Au cours de la deuxième manifestation, le bouddhisme réapparut sous la forme Sakyamuni, le confucianisme sous celle de Confucius, le christianisme sous celle de Jésus-Christ, le taoïsme sous celle de Lao- Tseu et l’Islam sous celle de Mahomet. Quant à la troisième manifestation, Dieu a décidé de se révéler lui-même. Cette troisième manifestation basée sur le bouddhisme est appelée souvent sous le nom « Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ« . Toutes les religions qui ont précédé la révélation du caodaïsme ne sont que des formes différentes issues de la même vérité  suivant l’époque, les lieux de révélations, les us et coutumes des peuples en vue d’éduquer l’humanité et de l’amener vers le chemin du Bien dans la voie de Dieu. La philosophie et la profession de foi du caodaïsme sont d’une simplicité déconcertante, plus proche de la morale que de la transcendance mystique.

  • -Respect du culte des ancêtres
  • -Pratique de la méditation.
  • -Pratique du végétarisme.
  • -Suppression de la violence
  • -Respect de toutes les formes religieuses.
  • -Recherche de la libération du cycle de réincarnations

Respect des 5 interdictions suivantes:

  • Ne tuer aucune vie
  • Ne pas être malhonnête
  • Ne pas boire
  • Ne pas commettre l’adultère
  • Ne pas offenser par des mots

Prier au moins une fois par jour et pratiquer un régime végétarien au moins 10 jours par mois. La messe a lieu au saint siège de Tây Ninh tous les jours et se déroule à des heures bien précises:
6h, 12 heures, 18 heures et 24 heures.

[Return RELIGION]

 

L’île Phú quốc (Đảo Ngọc)

 

Version vietnamienne

Avant de devenir  une île vietnamienne, l’île Phú Quốc  appartint aux Khmers jusqu’au 17ème siècle. C’est pourquoi pour les Khmers, cette île n’est autre que Koh Tral. Elle est plus proche des côtes cambodgiennes que celles du Vietnam. La ville côtière cambodgienne Kep sur mer pourrait être vue en cas du beau temps à partir de l’île de Phú Quốc. Au début du 17ème siècle, elle fut gouvernée à cette époque par un émigré d’origine chinoise Mạc Cửu en accord avec le roi khmer de nom Nặc Ông Thu ( Ang Sur, Jayajettha III). En voyant grandir l’ambition territoriale des Thaïlandais et face à la faiblesse des Khmers, Mạc Cửu se tourna vers le seigneur Nguyễn Phúc Chu et demanda sa protection. Ce dernier lui conféra le titre de commandant des troupes (tổng binh) de la région Mang Khảm incluant Phú Quốc. Celle-ci passera ainsi dans le giron des Vietnamiens. Phú Quốc servit plus tard de refuge pour Nguyễn Ánh  (futur empereur Gia Long) dans sa lutte contre les Tây Sơn du roi Quang Trung.

Đảo Ngọc

Analogue à l’île Poulo Condor (Côn Đảo), elle reste jusqu’alors peu exploitée à part de la ville principale Dương Đông où la concentration des infrastructures touristiques est visible (bungalows, hotels resorts, boutiques destinées à louer  des motos et des scooters etc.. ). Elle est connue sous le nom de l’île des perles (Đảo ngọc) car c’est ici qu’on produit des perles de culture d’une qualité exceptionnelle. Mais sa réputation réside incontestablement dans la fabrication de la sauce « nước mấm » à partir des anchois vietnamiens (cá cơm). Cette sauce ne peut pas être manquante dans la plupart des mets vietnamiens. Ses belles plages de sable blanc avec une eau limpide, ses ruisseaux magnifiques, ses récifs coralliens, sa flore primitive où on recense plus de 929 espèces végétales font de cette île un petit coin paradisiaque pour ceux qui aiment la nature à l’état sauvage. Outre la baignade, on peut citer d’autres activités: la plongée, la pêche ou le trekking. Les destinations touristiques connues de l’île sont les suivantes: Bãi Dài, Bãi Sao, Bãi trường, le village des pêcheurs Hàm Ninh, le temple Nguyễn Trung Trực, le parc national Phú Quốc, la prison Cây Dừa, le roc  Dinh Cậu etc..

Phú Quốc

Galerie des photos

Située dans le golfe de Siam, l’île de Phú Quốc dépendant administrativement de la province de Kiên Giang, est la plus grande île du Vietnam et fait partie d’un archipel de 25 îles. Sa superficie équivalente à Singapore est de 576 km2 avec la longueur de 52km du Nord au Sud et une largeur de 20km de l’Est à l’Ouest. Le point culminant de l’île se trouve au nord de l’île à la montagne Chúa avec 565m de hauteur. La population s’élève à 146028 habitants en accord avec les données statistiques fournies en 2019. Sa démographie  continue à augmenter malgré des restrictions administratives. Phú Quốc devient aujourd’hui la première ville insulaire du Vietnam.

L’accès à cette île peut se faire en avion ou en en ferry à partir des points de départ Rạch Giá ou Hà Tiên. Par avion, il y a actuellement deux compagnies desservant Phú Quốc ( Vietnam Airlines et Air Mékong). Plusieurs vols sont assurés dans la journée. La durée du vol est de 45 minutes. Par contre, par ferry, la durée minimale de la traversée est de 2h30. Mais le port d’arrivée à Phú Quốc est soit sur la côte est de l’île ( Bãi Vòng , Hàm Ninh ) soit au sud de l’île, An Thới. N’oublier pas de vérifier sur le billet le nom du port d’arrivée avant d’éviter des surprises et d’avoir assez du temps en cas de transfert.

Version vietnamienne

 

phuquoc1

 

  • 1°) Le chien de l’île.
  • 2°) Le retour des pêcheurs
  • 3°) Plage Bãi Sao
  • 4°) Le roc de Dinh Cậu
  • 5°) Les fleurs de myrte (Hoa sim)

Trước khi là một hòn đảo của Việt Nam, Phú Quốc thuộc về người Khơ Me cho đến thế kỷ 17. Đây là lý do tại sao đối với người Khơ Me, hòn đảo này không có gì  xa lạ  với cái tên Koh Tral. Nó nằm gần với bờ biển Campuchia hơn so với bờ biển của Việt Nam. Thị trấn ven biển Kép của Campuchia có thể được nhìn thấy khi thời tiết tốt đẹp từ đảo Phú Quốc. Vào đầu thế kỷ 17, Phú Quốc được cai trị vào thời điểm đó bởi một người di cư gốc Hoa, Mạc Cửu theo sự thỏa thuận với vua Khơ Me tên là Nặc Ông Thu (Ang Sur, Jayajettha III). Nhìn thấy sự tham vọng lãnh thổ ngày càng lớn của người Thái và trước tình trạng yếu kém của người Khơ Me, Mạc Cửu đã tìm đến chúa Nguyễn Phúc Chu và xin được bảo hộ. Chính chúa Nguyễn phong cho ông làm tổng binh (tổng binh) ở vùng Mang Khảm (Hà Tiên) trong đó có đảo Phú Quốc. Vì vậy, đảo nầy mới thuộc về Việt Nam. Phú Quốc là nơi ẩn náu sau này của Nguyễn Ánh (vua Gia Long) trong cuộc đấu tranh chống quân Tây Sơn của vua Quang Trung.

Tương tự như Côn Đảo, nó vẫn còn ít được khai thác cho đến ngày nay ngoài thị trấn chính Dương Đông, nơi tập trung nhiều cơ sở hạ tầng du lịch ( boongalô, khách sạn nghỉ dưỡng, các tiệm cho thuê xe máy và xe tay ga vân vân…). Phú Quốc được mệnh danh là Đảo Ngọc vì  ở nơi đây được sản sinh ra những viên ngọc trai nuôi có chất lượng tuyệt vời. Nhưng Phú  Quốc có  tiếng tâm chắc chắn nhờ ở việc sản xuất nước mấm từ các con cá cơm. Món nước chấm này không thể thiếu trong  các món ăn Việt Nam. Những bãi biển cát trắng tuyệt đẹp với làn nước trong vắt, những con suối tráng lệ, những rạn san hô, một hệ thực vật nguyên thủy có hơn 929 loài thực vật khiến hòn đảo này trở thành một góc nhỏ thiên đường cho những ai yêu thiên nhiên hoang dã. Ngoài việc bơi lội, chúng ta có thể kể ra các hoạt động khác như  lặn biển, câu cá hoặc đi du lịch bụi (trekking)  xuyên rừng. Các điểm du lịch nổi tiếng ở đảo là: Bãi Dài, Bãi Sao, Bãi Trường, làng chài Hàm Ninh, đền thờ Nguyễn Trung Trực, vườn quốc gia Phú Quốc, nhà tù Cây Dừa, Dinh Cậu vân vân …

Nằm trong vịnh Xiêm La, đảo Phú Quốc phụ thuộc hành chính tỉnh Kiên Giang là hòn đảo lớn nhất của Việt Nam và là một phần của quần đảo gồm 25 hòn đảo. Diện tích của nó tương đương với Singapore là 576 kilomet vuông với chiều dài 52 cây số từ Bắc đến Nam và chiều rộng 20 cây số từ Đông sang Tây. Điểm cao nhất của đảo nằm ở phía bắc của đảo là núi Chúa với độ cao 565 t ước. Dân số là 146028  người theo dữ liệu thống kê được cung cấp vào năm 2019. Dân số vẫn tiếp tục tăng bất chấp có các hạn chế hành chính và nay Phú Quốc trở thành thành phố biển đảo đầu tiên của Việt Nam.

Bạn có thể đến hòn đảo này bằng máy bay hoặc phà từ các điểm xuất phát từ Rạch Giá hoặc Hà Tiên. Bằng máy bay, hiện nay có hai hãng phục vụ Phú Quốc (Vietnam Airlines và Air Mékong). Một số chuyến bay được khai thác trong ngày. Thời gian bay là 45 phút. Ngược lại, bằng phà, thời gian vượt biển tối thiểu là 2 tiếng 30 phút. Nhưng cảng đến Phú Quốc  nằm ở bờ biển phía đông của đảo (Bãi Vòng, Hàm Ninh) hoặc ở phía nam của đảo, An Thới. Nên kiểm tra tên cảng đến trên vé trước khi đến để tránh sự bất ngờ và có đủ thời gian trong trường hợp chuyển phà.

Văn Miếu (Temple de la littérature)

Temple de la littérature 

Un des joyaux au cœur de Hànội (Một bảo vật giữa lòng thủ đô)

Version française

Version anglaise

Trường Đại học Quốc gia đầu tiên của Việt Nam, Quốc Tử Giám, làm lễ kỷ niệm được 940 năm tồn tại vào năm 2016. Trường nầy có thể tự hào vì nó  đã có trước được một thế kỷ tốt đẹp  so với các trường đại học phương Tây lâu đời và nổi tiếng như Bologne, Oxford và Paris. Được xây dựng sau Văn Miếu nơi mà thờ  Đức Khổng Tử, ở cùng chung một khu vực, trường đại học nầy là một trong những di tích của thủ đô đã vượt qua mười thế kỷ hỗn loạn, nội chiến và xâm lược của ngoại bang. Nó có cùng thời với các chùa Trấn Quốc, Một Cột và Kim Liên.  Được bảo tồn ở giữa lòng  thủ đô Hà Nội, quần thể kiến ​​trúc bề thế gồm có những bộ phận  rất cũ xưa còn mang màu thời gian và những giá trị của một thời quá khứ  phong phú như chưa biết đến bao lâu nay.

Sự cũng cố quốc gia Việt Nam

Chính vua Lý Nhân Tông của nhà triều đại nhà Lý vĩ đại thành lập ra Quốc Tử Giám vào năm 1076. Kể từ khi giành lại được độc lập vào năm 939, nhiệm vụ mà các nhà cầm quyền Việt Nam được có thật là nặng nề và gian khổ. Trước đó, các triều đại Ngô, Ðinh và Lê đã kiệt sức với sự chia rẽ nội bộ và các cuộc chinh phạt ở lúc đầu về  phía nam. Vào đầu thế kỷ 11, sau đó được đổi tên là Đại Việt, Việt Nam là một nước có nền văn hóa nguyên thủy cổ đại trong một quốc gia non trẻ. Ở bên trong các địa phận biên giới mà còn chưa được ổn định ở phía Nam, thì cần phải củng cố sự thống nhất quốc gia và  kiềm chế  các cuộc ganh đua của các đại gia đình hay thường đe dọa giày xéo đất nước. Bên ngoài, cần phải duy trì quan hệ chư hầu tốt đẹp với nước láng giềng hùng mạnh Trung Quốc. Nhà Lý cần phải vượt qua những thách thức này. Việc đắp đê khắc phục lũ lụt ở sông Hồng đã tạo ra được điều kiện ổn định dân cư và thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp.

Việc mua bán đất đai đã được quy định hóa từ nay và dẫn đến sự xuất hiện một tầng lớp của các tiểu địa chủ bên cạnh các lãnh chúa phong kiến. Thủ công nghiệp được phát triển (dệt, đồ bạc, gốm, sứ) và nhờ đó có được hoạt động thương mại. Theo lời chỉ dẫn của các quản trị viên nho giáo thông thạo, nhà Lý đã thành công trong việc thiết lập một chính quyền tập trung mạnh mẽ và có thể trao cho giai cấp cầm quyền tính hợp pháp. Lấy cảm hứng từ mô hình hành chính của Trung Quốc, vua Lý Nhân Tông đã tổ chức vào năm 1075, một cuộc thi cử đầu tiên để tuyển chọn các quan lại để « cầm quyền cai trị ». Năm sau, ông bổ sung thêm vào Văn Miếu một trường cao đẳng nhầm để đào tạo các viên chức cấp cao. Trên vùng đất bao dung này, Quốc Tử Giám được tồn tại một cách êm đềm ngay bên cạnh nơi thờ tự.

Qua việc tập hợp lại ngôi đền thờ Đức Khổng Tử và nơi giảng dạy trong một tổng thể duy nhất, thì thấy công trình xây dựng này là một công trình duy nhất làm nổi bật lên nét độc đáo của Việt Nam so với Trung Quốc. Trong những ngày đầu thành lập, Đại học Quốc gia chỉ đào tạo được những « người đứa con »  được lựa chọn từ các gia đình hoàng gia và các gia đình quan lớn, tựa như các triều đại trước đó dựa vào giới quý tộc. Sự lựa chọn khởi đầu qua các cuộc thi cử  tạo ra một sự thay đổi đáng kể: thông qua các kỳ thi gian nan,  chính quyền còn dựa trên tài năng, kỹ năng và  lòng trung thành với triều đình. Và nhờ đó  đề  phòng ​​được những đại gia đình quý tộc có khả năng phủ nhận thẩm quyền.

Sự vương lên của một nền văn hóa dân tộc.

Trong gần mười thế kỷ đô hộ của Trung Quốc, người dân Việt đã bảo tồn được bản sắc văn hóa của mình và tiếp thu một phần lớn văn hóa Trung Quốc. Trường Cao Đẳng Quốc Gia do đó đã phổ biến được các nhân văn  Nho giáo: các kinh điển Nho giáo, triết học, văn học, lịch sử và chính trị. Các ứng cử viên ưu tú phải thuộc lòng Tứ thư, lịch sử của Việt Nam và Trung Quốc. Họ phải nghiên cứu các quy luật sáng tác thơ, họ học cách soạn tất cả các loại văn bản: chiếu chỉ hoàng gia, diễn văn, báo cáo sứ mệnh, phân tích, tiểu luận. Ngôn ngữ được sử dụng chắc chắn là tiếng Hán, tuy nhiên vào đầu thế kỷ 12, người Việt đã sử dụng rất sớm, một loại chữ viết biểu tượng đặc biệt, gọi là nôm, để phiên âm chữ quốc ngữ phổ biến tên là kinh. Dưới sự cai trị của Trung Quốc, người dân Việt đã học được những gì cần thiết để trở thành một bày tôi « ngoan ngoản ». Cho đến thế kỷ 10, không còn thấy dấu vết nào của văn học Việt Nam. Chỉ còn những huyền thoại mới có thể kết tinh được ký ức tập thể  bị ngăn cản phát biểu  một cách tự do dưới áp lực của kẻ xâm lược. Chữ  nôm có nguồn gốc từ hệ thống chữ viết Trung Quốc thể hiện ra phản ứng dân tộc và phổ biến đối với sự thống trị văn hóa nước ngoài. « Linh hồn của một dân tộc được sống trong ngôn ngữ của mình », nhà văn hào người Đức  Goethe hay thường nói. Đây là một  điều hiển nhiên ở Việt Nam. Ngôn ngữ được phiên âm bằng tiếng nôm có được một sự phát triển mạnh mẽ mỗi khi phong trào quốc gia và quần chúng đạt được phát triển rộng.

Sau khi vĩ nhân Nguyễn Trãi ở thế kỷ 14 làm thơ bằng chữ nôm thì văn tự đã trở nên nổi tiếng và không có học giả nào dám coi thường việc viết bằng chữ  nôm nữa. Một nhân vật vĩ đại khác Việt Nam, Nguyễn Huệ, đã làm được một cuộc cách mạng thực sự vào cuối thế kỷ 18 khi ngài trị vị bằng cách  dùng chữ nôm làm ngôn ngữ chính thức trong hành chính và trong các cuộc thi cử quan lại. Các cuộc thi cử hoàng gia đã tạo ra một nỗ lực quan trọng cho nền giáo dục trong nước. Trong một thời gian dài, đại học quốc gia đã trở thành nền tảng của hệ thống giáo dục.  Các trường học được thành lập ra để chuẩn bị cho các ứng cử viên tham gia vào các cuộc thi quan trọng.

Bên cạnh các điền trang lớn của các lãnh chúa thì có một hệ thống các công xã nông thôn được tổ chức chặt chẽ. Phần đông trong số công xã nông thôn nầy  hay thường có một trường tư thục bên cạnh các trường công lập ở cấp quốc gia cũng như ở  cấp tỉnh và cấp địa phương. Các bậc thầy là những người có học thức nhưng bị  thi trượt, hoặc những người thi đỗ tú  tài, cử nhân và tiến sĩ, những người không muốn trở thành quan lại hoặc những người chán ghét làm chính trị. Thanh thế  kiến ​​thức, trọng nễ các bậc thầy và tài năng đã được lan rộng qua nhiều thế kỷ ngay cả trong những tầng lớp nông dân nghèo. Mẹ nào mà không mơ ước có một ngày được nhìn thấy đứa con trai của mình tham gia vào  các cuộc thi khó khăn nầy.

Câu ca dao nầy đã ăn sâu vào tâm trí của mọi người dân Việt: « Không thầy, đố mầy làm nên ». Văn chương và công vụ không hề khác biệt trong hệ thống giáo dục truyền thống ở Việt Nam. Các nhà thơ đã tham gia đóng góp vào đời sống kinh tế. Nhiều chính khách và chiến lược gia lỗi lạc nhất đã từng là những nhà thi sĩ.  Những người nổi tiếng nhất trong số họ, được toàn dân kính nể là  các vị anh hùng dân tộc:

Trần Hưng Đạo (1213-1300) là người chiến thắng giặc Nguyên của Hốt Tất Liệt.
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là một nhà thơ, một chính khách lớn đã chấm dứt một cuộc đô hộ mới của nhà Minh ở Việt Nam.
Nguyễn Du là một nhà ngoại giao dưới triều đại nhà Lê. Ông là tác giả  của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng « Kim Vân  Kiều », đã  đưa chữ nôm  đến mức độ hoàn hảo. Ông và Nguyễn Trãi  được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO)  liệt kê vào danh sách của những nhà văn hóa của nhân loại.

Hành trình đầy chông  gai của một ứng cử viên trong cuộc thi cử hoàng gia.

Các cuộc thi quốc gia được tổ chức lúc ban đầu theo chu kỳ thất thường, còn tùy thuộc vào nhu cầu của chính quyền hoàng gia. Từ năm 1434 cho đến năm 1919 với khóa họp cuối cùng được tổ chức, các cuộc thi được tổ chức ba năm một lần. Khi vua Lê Thần Tông xác định lại luật lệ vào thế kỷ 14, thì kỳ thi cử được diễn ra ở hai cấp độ liên tiếp: cấp ở khu vực và cấp ở toàn quốc, mỗi cấp độ có bốn đợt, tổng cộng có thể kéo dài trong vài tháng. Mỗi bước phải được thành công để đủ điều kiện cho bước tiếp theo. Bài thi kiểm tra cuối cùng được diễn ra tại hoàng cung trước mặt nhà vua, ngài tự đích thân kiểm tra đợt cuối cùng của các tiến sĩ tương lai.

Các  con số cho ta có cái nhìn sâu sắc hùng biện về nhu cầu và tầm quan trọng của các cuộc thi hoàng gia:

Trung bình có 70.000 đến 80.000 thí sinh tham gia các cuộc thi trong khu vực.

Từ 450 đến 6.000 thí sinh được chọn trong số này để tham dự kỳ thi quốc gia tại Hà Nội. Họ yên vị trong suốt thời gian làm bài kiểm tra trong khu viên trường đại học ở trung tâm thành phố với chiếc giường tre, bàn chải và lọ mực. Đến năm 1777, Đại học Quốc gia và Khu phố Tiến sĩ đã trở thành một tổ chức uy nghiêm bao gồm 300 phòng học, một thư viện khổng lồ và một nhà xuất bản. Khu rộng lớn phức tạp này đã bị chiến tranh tàn phá vào năm 1946. Sau kỳ thi cuối cùng tại hoàng cung, chỉ có 15 ứng cử viên được cấp bằng Tiến sĩ với độ tuổi trung bình là 32 tuổi. Trong khoảng thời gian từ năm 1076 đến năm 1779, ngày diễn ra kỳ họp cuối cùng ở Thăng Long (Hà Nội), có 2313 người được phong làm Tiến sĩ. 1306 vị được khắc tên và hạng bằng chữ Hán trên 82 tấm bia (mỗi bên có 41 tấm) ở gian thứ ba  của Văn Miếu-Quốc Tự Giám tại Hà Nội. 82 tấm bia này lưu giữ kỷ niệm  các vị danh nhân được phong trong khoảng thời gian từ năm 1442 đến năm 1779.

Chính vua Lê Thánh Tông có công bày tỏ lòng kính trọng đối với các công thần đã có công với đất nước. 116 kỳ thi cấp quốc gia diễn ra trong thời kỳ này, nghĩa là còn thiếu 34 tấm bia, không rõ nguyên nhân do đâu mà không dựng hoặc biến mất. Từ năm 1802, với triều đại của vua Gia Long, các kỳ thi ba năm được tổ chức ở Huế cho đến khi bãi bỏ vào năm 1919. Quốc Tự Giám lại trở thành Văn Miếu, nhưng vẫn được bảo tồn. Truyền thống đặt các vị Tiến sĩ của Quốc gia vào danh sách vinh dự cũng được lưu giữ. Tại Tử Cấm Thành, trên tầng  một của cổng Ngọ Môn, tên của họ được đề cập rất rõ ràng trên một tấm bảng lớn bằng đá cẩm thạch đen, có ghi quê quán của họ. Các kỳ thi năng lực đã được tăng  gấp đôi nhất là với một thử thách về  thể xác  đáng sợ  cho các  thí  sinh ở tỉnh. Con đường đến thủ đô đầy rẫy nguy hiểm.

Đến từ một tỉnh xa xôi, những học viên tốt nghiệp tương lai đôi khi phải đi xa hơn 300 cây số, mang theo cùng họ thức ăn, lều, giường tre chật hẹp và những gì cần  để viết. Trên đường đi, họ rất sợ những tên cướp đường cũng như những cuộc tấn công của hổ và rắn. Nếu họ vượt qua được tất cả những trở ngại này, họ hầu hết muốn ở lại một vài năm để học tập, nhằm bảo đảm có được sự may mắn trong việc thi cử. Hình ảnh phổ biến của các tiến sĩ hân hoan trở về quê thường thấy vẽ  là có một  diễu hành biểu ngữ, cờ, kiệu, đồ vật nghi lễ mà được dẫn đầu bởi gia đình và bạn bè. Tiếng trống vang lên dọc đường đánh dấu sự xuất hiện của người con của quê hương cùng với tấm bằng tiến sĩ do vua ban tặng đã mang lại vinh quang cho cả làng. Giờ đây làng tự xem là “vùng đất của văn học ”.

Sau đó, người mới thi đỗ  không quên cúi đầu trước bàn thờ tổ tiên và Đức Khổng Tử, trước khi mời mọi người tham gia vào một bữa tiệc tốn kém. Trong suốt thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên trong lịch sử, Việt Nam đã có  được tầng lớp trí thức đến từ các kỳ thi quốc gia, cùng với các nhà chiến lược, nhà toán học, chính khách lỗi lạc, nhà triết học, văn nhân, cùng với những quan chức bình thường và các quan lại tham nhũng. Theo truyền thống Nho giáo, không một phụ nữ nào được đi học chính thức. 

Chỉ có một người đủ can đảm để thách thức sự cấm đoán nầy. Cô nầy cải trang thành một người đàn ông và trình diện ở  các kỳ thi hoàng gia. Điều này diễn ra dưới triều đại nhà Mạc vào thế kỷ 16. Cô ấy tên là Nguyễn Thị Duệ. Cố chấp, thông minh, bà đã hoàn thành việc học của mình và đạt được bằng tiến sĩ. Bà là một trong những người phụ nữ Việt Nam có đức tính đặc biệt, có công nuôi dưỡng nguồn sống của tài năng và làm nên đức hạnh của  dân tộc.

Quốc Tử Giám qua những thăng trầm của lịch sử

Quần thể kiến ​​trúc tuyệt đẹp  được lan rộng  giữa phố Quốc Tử Giám và Nguyễn Thái Học, bao gồm các di tích được xây dựng chủ yếu vào thế kỷ 17 và 18. Việc trùng tu Văn Miếu chỉ có gần đây từ những năm cuối của thế kỷ 20. Còn về việc khôi phục lại Đại học Quốc gia, thì được xây dựng lại từ năm 2000, kỷ niệm 990 năm Thăng Long (Hà Nội). Những người thợ thủ công đã sử dụng các kỹ thuật cổ xưa để khôi phục lại ở «nơi cao này»  tính chất  chân thực. Tuy nhiên, họ không thể xây dựng lại tòa nhà này giống hệt như lúc trước. Toàn bộ phần này đã phải hứng chịu sự tàn phá do thiên nhiên gây ra và thậm chí còn nhiều hơn bởi sự tàn phá của con người trong thời kỳ người Pháp thuộc vào thế kỷ 19 và các bản phác thảo của kiến ​​trúc ban đầu đã bị mất. Năm 1946, chiến tranh giáng xuống một đòn chí mạng ở Quốc Tử Giám. Có lẽ một trong những tình tiết thảm thương nhất xảy ra vào năm 1903, khi một trận dịch bệnh kinh hoàng tấn công thành phố Hà Nội. Người bệnh đông đến nỗi  ở  Bệnh viện Phú Doãn (nay là bệnh viện Đức-Việt) khiến bệnh viện bị quá tải sớm nên định cư ở  trong vòng thành của  Văn Miếu Quốc Tử Giám, nơi có các hàng rào chặn lại sự  lây lan dịch bệnh. Căn bệnh này đã được kiểm soát nhờ một loại vắc-xin do bác sĩ Yersin tìm ra và sự tận tâm của các bác sĩ. Nhưng ngôi đền nầy đã ở trong tình trạng như vậy nên các nhà chức trách Pháp lấy quyết định chuyển nó thành một bệnh viện. Họ bắt đầu tìm một địa điểm khác để xây dựng một tòa nhà mới.

Nhận ra đây  là việc va chạm đến « tòa thánh văn hóa » của người dân Việt, đại diện toàn quyền Đông Dương, Pasquier, trước đó có hỏi ý kiến ​​một nhà học giả lỗi lạc, và sau đó có  được sự kết luận dứt khoát: « Những hoàn cảnh trái ngược đã làm ô uế các tấm bia và làm rỉ máu trái tim của nhân dân. Nhà Nguyễn khi dời đô ra Huế đã tôn trọng sự nguyên vẹn của ngôi đền. Muốn dời thì dân chúng sẽ nổi loạn. Vài ngày sau, chính phủ Pháp đã phân bổ 20.000 đồng để khôi phục lại ngôi đền như ban đầu. Người dân Hà Nội, ở những thời điểm khác trong lịch sử, đã bày tỏ sự gắn bó với di tích này.  Nó biểu tượng cho sự tò mò trí tuệ, sự say mê học tập, sự sáng tạo, đặc biệt là vào thời điểm xảy ra các cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn giữa hai nhà Trịnh-Nguyễn. Tuy nhiên, trong tình trạng hiện tại, Văn Miếu chiếm một không gian nhỏ hơn so với thời kỳ ở  đỉnh cao của nó.

Version française

Hiền tài là nguyên khí của quốc gia.
Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh.
Nguyên khí suy thì nước yếu

Le talent est la source de vie d’une nation.
 Une source jaillissante fait la force d’un pays.
Une source tarissant l’affaiblit.

La première Université Nationale du Vietnam, Quốc Tử Giám, vint de fêter en 2016 ses 940 ans d’existence. Elle peut s’enorgueillir d’avoir précédé d’un bon siècle les anciennes et prestigieuses universités occidentales de Bologne, Oxford et Paris. Erigée six ans après le Văn Miếu, le Temple de la Littérature dédié à Confucius, dans la même enceinte, elle compte parmi les monuments de la capitale ayant surmonté dix siècles de tourmentes, de guerres civiles et d’invasions étrangères. Elle est contemporaine des pagodes Trấn Quốc, Một Cột et Kim Lien. Le complexe architectural imposant et bien conservé en plein cœur d’Hanoi renferme des parties très anciennes qui portent la couleur du temps et les valeurs d’un passé aussi riche que méconnu.

Consolidation de la nation vietnamienne

C’est en 1076 que fut créé le Collège des fils de la Nation, Quốc Tử Giám par le roi Lý Nhân Tông, de la grande dynastie des Lý postérieurs. Depuis la reconquête de l’indépendance en 939, la tâche qui s’imposait aux souverains vietnamiens était immense et ardue. Les dynasties précédentes des Ngô, des Ðinh et des Lê antérieurs s’étaient épuisées dans les divisions intestines et dans des guerres de conquête au début de la marche victorieuse vers le sud. Au début du 11ème siècle, le Viêtnam, alors rebaptisé Đại Việt, était une nation de culture originale ancienne dans un état jeune. A l’intérieur de frontières encore mal établies au Sud, il restait à fortifier l’unité nationale et à dominer les rivalités de grandes familles qui menaçaient de déchirer le pays. A l’extérieur, il fallait maintenir de bonnes relations de vassalité avec le puissant voisin chinois. Les Lý se montrèrent à la hauteur de ces défis. La construction de digues pour remédier aux crues du Fleuve Rouge permit de fixer la population et favorisa l’essor de l’agriculture.

L’achat et la vente des terres furent réglementées, ce qui entraîna l’apparition d’une classe de petits propriétaires terriens à côté des grands seigneurs féodaux. L’artisanat se développa (tissage, orfèvrerie, poterie, porcelaine), et par voie de conséquence, le commerce. Sur le conseil d’administrateurs confucéens compétents, les Lý parvinrent à mettre en place un gouvernement centralisé fort et purent donner à l’élite dirigeante une légitimité. S’inspirant du modèle administratif chinois, le roi Lý Nhân Tông organisa en 1075 le premier concours pour recruter les mandarins qui allaient exercer le pouvoir. L’année suivante, il adjoignait au Văn Miếu une école supérieure pour y former les hauts fonctionnaires, le Quốc Tử Giám. L’établissement d’enseignement, dans ce pays de tolérance, exista sans heurt juste à côté du lieu de culte. Regroupant un temple dédié à Confucius et un lieu d’enseignement en un seul ensemble, cette construction est une œuvre unique qui souligne l’originalité du Vietnam par rapport à la Chine. L’Université Nationale, à ses débuts, formait uniquement des fils recrutés dans la famille royale et parmi les grands mandarins, tout comme les dynasties antérieures s’appuyaient sur la noblesse. L’introduction du mode de sélection par concours présenta un changement significatif : par le biais d’examens difficiles, l’administration se fondait sur le talent, sur la compétence et sur l’engagement loyal envers le pouvoir impérial. Et celui-ci évitait l’écueil de voir se constituer des grandes familles nobles susceptibles de lui contester l’autorité.

Essor d’une culture nationale

Durant presque dix siècles de colonisation chinoise, les Vietnamiens avaient sauvegardé leur originalité culturelle et assimilé une large part de la culture chinoise. Le Collège des fils de la nation diffusa donc les humanités confucéennes : les classiques confucéens, philosophie, littérature, histoire et politique. Les candidats brillants apprenaient par cœur les Quatre livres du Confucianisme, mais aussi l’histoire du Vietnam et de la Chine. Ils étudiaient en outre les règles de la composition poétique, ils apprenaient à préparer toutes sortes de documents : édits royaux, discours, rapports de missions, analyses, essais. La langue en usage était certes le chinois ou hán, cependant les Vietnamiens très tôt, probablement dès le XIIeme siècle, se servirent d’une écriture iconographique spéciale, le nôm, pour transcrire la langue nationale populaire, le kinh.

Sous la férule chinoise, les Vietnamiens avaient appris juste ce qui était nécessaire pour devenir de bons serviteurs. Jusqu’au dixième siècle, il n’y a aucune trace de littérature vietnamienne. Seules les légendes ont peut-être cristallisé la mémoire collective, empêchée de s’exprimer librement sous la pression de l’occupant. L’écriture nôm dérivée de l’écriture idéographique chinoise représenta une réaction nationale et populaire face à une domination culturelle étrangère. « L’âme d’un peuple vit dans sa langue » disait Goethe.

Ceci est un fait patent au Vietnam. La langue transcrite en nôm connut un essor vigoureux chaque fois que le mouvement national et populaire prenait de l’ampleur. Après que le grand Nguyễn Trãi au 14ème siècle eut écrit ses poèmes en nôm, l’écriture démotique conquit ses lettres de noblesse et plus aucun lettré ne dédaigna d’écrire en nôm. Une autre grande figure vietnamienne, Nguyễn Huệ, accomplit une véritable révolution en imposant durant son règne, à la fin du XVIIIème siècle, le nôm comme langue officielle dans l’administration et dans les concours mandarinaux.

Les concours royaux ont donné une impulsion décisive à l’enseignement dans le pays tout entier. L’Université Nationale devint pour longtemps la clé de voûte du système éducatif Des écoles se créèrent pour préparer les candidats aux concours mandarinaux.

À côté des grands domaines seigneuriaux existait un système bien organisé de communes rurales. Dans nombre d’entre elles il y avait une école privée à côté des écoles publiques, tant au niveau national que provincial et local. Les maîtres étaient des hommes instruits qui avaient échoué aux concours, ou bien encore les titulaires d’un baccalauréat, d’une licence, et les lauréats docteurs qui n’avaient pas voulu devenir mandarins ou qui étaient dégoûtés de la politique. Le prestige du savoir, le respect des maîtres et du talent s’était répandu au fil des siècles jusque dans la paysannerie la plus pauvre.

Quelle mère ne rêvait pas de voir ses fils un jour se présenter aux difficiles concours. Le dicton populaire était bien ancré dans les mentalités : « Sans un maître, je te défie d’arriver à quelque chose. » (Không thầy, đố mầy làm nên). Littérature et service public n’étaient pas distincts dans le système éducatif traditionnel vietnamien. Les poètes contribuaient à la vie économique de leur pays. Parmi les hommes d’Etat et les stratèges les plus brillants, un bon nombre était des poètes. Les plus célèbres d’entre eux, révérés comme des héros dans la population toute entière, furent :

Trần Hưng Đạo (1213-1300) qui a triomphé des Mongols en défaisant Kubilai Khan
Nguyễn Trãi (1380 – 1442), grand poète et homme d’Etat qui mit un terme à une nouvelle occupation chinoise des Ming.
Nguyễn Du, diplomate sous la dynastie des Lê, qui avec son roman en vers, le Kiều, porta le nôm à la perfection. Ces deux derniers sont inscrits par l’UNESCO au Panthéon des hommes de culture de l’humanité.

Le parcours semé d’obstacles d’un candidat aux examens royaux.

Initialement, les concours nationaux se déroulaient selon une périodicité irrégulière, en fonction des besoins de l’administration impériale. A partir de 1434, jusqu’en 1919, date de la dernière session, ils eurent lieu tous les trois ans.

Lorsque le roi Lê Thần Tông redéfinit les règles au 14ème siècle, l’examen se déroula à deux niveaux successifs : régional, puis national, chacun en quatre phases qui pouvaient au total durer plusieurs mois. Il fallait franchir avec succès chaque étape afin de se qualifier pour la suivante. L’ultime épreuve se déroulait au palais impérial devant le roi qui examinait en personne le dernier lot des futurs docteurs.

Quelques chiffres donnent un aperçu éloquent des exigences et de l’importance des concours royaux:

En moyenne, 70 000 à 80 000 candidats disputaient les compétitions régionales. 

De 450 à 6000 candidats étaient sélectionnés parmi ceux-ci pour prendre part à Hanoi à l’examen national. Ils s’installaient pour la durée des épreuves sur le campus universitaire du centre ville avec leur lit de bambou, leurs pinceaux, leur encrier.  En 1777, l’Université Nationale et le Quartier Doctoral étaient devenus une institution imposante comprenant 300 salles de classes, une immense bibliothèque et une maison d’édition. Ce vaste complexe fut détruit par la guerre en 1946.  A l’issue de l’examen final au palais impérial, seulement 15 candidats se voyaient décerner le titre de Docteur (tiến sĩ), avec une moyenne d’âge de 32 ans.  Entre 1076 et 1779, date de la dernière session tenue à Thăng Long (Hanoi), 2313 candidats ont reçu le titre de Docteur. 

1306 d’entre eux ont leur nom et grade gravés en caractères chinois sur les 82 stèles (41 de chaque côté) du troisième espace du Văn Miếu Quốc Tự Giám à Hanoi. Ces 82 stèles conservent la mémoire des lauréats reçus entre 1442 et 1779. C’est le roi Lê Thánh Tông qui prit l’initiative de rendre ainsi hommage aux grands serviteurs du pays. 116 examens nationaux eurent lieu durant cette période, cela signifie qu’il manque 34 stèles dont on ignore les raisons pour lesquelles elles n’ont pas été érigées ou ont disparu.  A partir de 1802, avec le règne de Gia Long, les examens triennaux se déroulèrent à Hué jusqu’à leur abolition en 1919. Le  Quốc Tự Giám redevint le Văn Miếu, Temple de la Littérature, mais fut préservé. La tradition d’inscrire les Docteurs de la Nation au tableau d’honneur fut également conservée.

A la Cité Interdite de Hué, au premier étage de la Porte Ngọ Môn, leurs noms sont mentionnés très lisiblement sur un grand tableau de marbre noir, avec leur village et leur province d’origine. Les examens de capacité se doublaient d’une redoutable épreuve physique pour les provinciaux. Le chemin à parcourir pour se rendre dans la capitale était semé de dangers. Venant d’une lointaine province, les futurs diplômés devaient parfois parcourir jusqu’à 300 km ou plus, emmenant avec eux la nourriture, la tente, l’étroit lit de bambou et de quoi écrire.

En cours de route, ils avaient à redouter aussi bien les bandits de grand chemin que l’attaque des tigres et les morsures de serpents. S’ils parvenaient à triompher de tous ces obstacles, la plupart d’entre eux préféraient rester quelques années sur place pour étudier, afin s’assurer les meilleures chances de succès.

L’imagerie populaire a souvent peint le retour triomphal des docteurs dans leur village natal, annoncés par une procession de bannières et d’oriflammes, de palanquins, d’objets de cérémonie, précédés par la famille et les amis. Tout au long du parcours retentissaient les tambours marquant l’arrivée de l’enfant du pays qui rapportait, en même temps que le certificat doctoral délivré par le roi, la gloire à tout le village. Celui-ci se voyait désormais distingué comme « une terre de littérature (đất văn chương) ».

Ensuite le lauréat ne manquait pas de s’incliner devant l’autel des ancêtres et de Confucius, avant de convier tout le monde à un banquet parfois ruineux. Au cours du deuxième millénaire A.C. de l’histoire du Vietnam, l’élite intellectuelle issue des concours nationaux, produisit, à côté de brillants stratèges, mathématiciens, hommes d’Etat, philosophes, hommes de lettres, son lot de simples bureaucrates et de mandarins corrompus. Selon la tradition confucéenne, aucune femme n’avait accès à l’enseignement officiel.

Une seule eut l’audace de braver l’interdit. Elle se présenta aux examens royaux, déguisée en homme. Cela se passait sous la dynastie des Mạc, au 16ème siècle. Elle s’appelle Nguyễn Thị Duệ ; obstinée, intelligente, elle mena ses études à leur terme et obtint le titre de docteur. Elle est une de ces femmes vietnamiennes de caractère exceptionnel qui ont contribué à alimenter la source vive du talent et fait la vertu de cette nation.

Le Quốc Tử Giám à travers les vicissitudes de l’histoire.

Le bel ensemble architectural qui s’étend entre les rues Quốc Tử Giám et  Nguyễn Thái Học comprend des monuments érigés principalement aux 17ème et 18ème siècles. La toute récente restauration du Temple de la Littérature remonte aux dernières années du 20ème siècle. Quant à la reconstruction de l’Université Nationale, elle date de l’an 2000 et marqua le 990ème anniversaire de Thăng Long (Hanoi). Les artisans recoururent à des techniques anciennes afin de restituer à ce haut lieu un caractère d’authenticité.

Toutefois il leur était impossible de reconstruire cet édifice à l’identique. Toute cette partie avait trop souffert des destructions infligées par la nature et encore plus par les hommes durant la présence française au 19ème siècle, et les croquis de l’architecture originale avaient été perdus. En 1946, la guerre avait porté un coup fatal au Quốc Tử Giám. L’un des épisodes probablement les plus dramatiques se situe en 1903, quand une épidémie foudroyante frappa la ville d’Hanoi.

Les malades étaient si nombreux que l’hôpital Phú Doãn (l’actuel hôpital germano-vietnamien) fut bientôt débordé. Il s’installa dans l’enceinte du Văn Miếu Quốc Tử Giám dont les remparts représentaient un barrage à la contagion. La maladie fut jugulée grâce à un vaccin mis au point par le docteur Yersin et au dévouement des médecins. Mais le Temple était dans un tel état que les autorités françaises décidèrent de le transformer en hôpital. Ils se mirent en quête d’un nouvel endroit pour y construire le nouvel édifice.

Conscient de s’attaquer au Saint Siège de la culture vietnamienne, le représentant du Gouverneur Général de l’Indochine, Pasquier, consulta préalablement un éminent érudit, et la conclusion de ce dernier fut sans appel : « Les circonstances contraires ont souillé les stèles et font saigner le cœur du peuple. Les Nguyễn, en transférant la capitale à Huế, ont respecté l’intégrité du Temple. Si vous voulez le déplacer, la population se révoltera. » Quelques jours plus tard, le Gouvernement français allouait une somme de 20 000 piastres afin de rendre le Temple à son état initial.

La population d’Hanoi avait à d’autres moments de son histoire troublée manifesté son attachement pour ce monument, symbole de sa curiosité intellectuelle, de sa passion pour l’étude, de sa créativité, notamment à l’époque des guerres fratricides entre les Trịnh et les Nguyễn. Néanmoins, dans son état actuel, Le Temple de la Littérature occupe un espace plus restreint qu’à son apogée.

Toàn cảnh nội văn từ
Thử địa vi thủ, thiên thu cần tạo thương lưu phương

De tous les temples consacrés à la littérature, celui-ci constitue le haut lieu;
le parfum de la culture y flotte par delà des millénaires

Galerie des photos

Le temple de la littérature (Văn Miếu)

Chu Văn An

Ông tổ của các nhà nho nước Việt


 

Érection des stèles des lauréats

Ouvrages recommandés:

  • Le temple de la littérature. Editions Thế Giới.
  • Văn Miếu Quốc Tử Giám. Edition Thông Tấn. 2001

[RETURN]

Bến Tre (Quê dừa)

bentre

Située tout près de l’embouchure du delta du Mékong, la province Bến Tre est connue depuis longtemps comme le pays des cocotiers. Bến Tre est en tête de la production nationale des noix à coco avec 400 millions de fruits cueillis sur une superficie de 52.000 ha. Bến Tre est réputée comme le point de départ du soulèvement et de la formation du front national de libération contre le régime sud-vietnamien du président Ngô Đình Diệm. Mais elle est aussi la terre natale du moine illustre aux noix de coco (Đạo Dừa) de nom Nguyễn Thành Nam emprisonné plusieurs fois pour sa propagande pacifique.

Située à 85 km de Saïgon ou (Hồ Chí Minh Ville), Bến Tre est considérée souvent par les touristes comme le point de passage obligatoire pour partir à l’exploration en bateau ou en pirogue des vergers du delta du Mékong.

Galerie des photos

Châu Đốc (Carrefour des contrastes)

 

chau_doc

Pays des contrastes

Version française

Có đi trên sông Hậu (hay Hậu Giang) và kênh Vĩnh Tế mới nhận thấy được Châu Đốc là một thành phố có tầm quan trọng về mặt kinh tế và chiến lược.  Nhờ là cửa ngõ của đồng bằng Cửu Long nên Châu  Đốc  được thu thập lợi ích không ít về nghề đánh cá và thương mại giữa ba quốc gia Lào, Cao Miên và Việtnam. Châu Đốc được biết đến nhờ các  nhà bè  xem như  các căn hộ nẳm san sát nhau dọc theo hai bờ sông  và  nuôi cá hồi to có thể từ 5 đến 7 kí hay các loại cá khác. Các cá nầy đươc nuôi giữa  môi trường thiên nhiên trong các lưới  cài duới  hầm nhà.  Tất cả loại cá nầy được bán ở trong nước hay xuất khẩu qua các nước ở Thái Bình Dương và Hoa Kỳ.  Trên vùng đất có sự tương phản nầy, cảnh nghèo nàn vẫn được thấy  ở mấy  nhà sàn của các gia đình chài lưới  với một cuộc sống bấp bênh.  

Ở Châu Đốc ăn uống rất ngon,  thức ăn rất cân bằng nào mực, nào hải sản, thịt và rau cỏ nhiều thứ khác nhau. Chợ búa cũng đầy các món ăn ngon  được gói sẵn với  loại lá dầy mà  trước đó được nấu qua nhiều giờ khiến có thể bảo hành vệ sinh và giữ được vài ngày.  Ở thành phố, từ bờ sông đến chợ, thường gặp các thiếu nữ người Chămpa duyên dáng và thanh tao  trong bộ  y phục cổ truyền và màu sắc giản dị. Cộng đồng chàm ở đậy bị hồi giáo hóa  nên họ có đến 5 thánh đường mà thánh đường  cuối cùng được xây cất vào năm 1992. Dân tộc nầy ở môt khu riêng biệt với các nhà rất xinh xắn.  Họ sống với nghề dệt truyền thống,  trồng lúa, chài cá và chuyên chở nhờ các chiếc xe mô tô. Họ thường mời khách mua các khăn vải bông màu (hay  rằn), túi xách với mức giá rất rẻ. Chính ở đây mới thấy sự hổn hợp của  các cư dân  nghèo  giàu lẫn lộn và  các tôn giáo cùng kề bên nhau.

Ở đây có lễ hội miếu Bà Chúa Xứ thường được diễn ra mỗi năm  ở duới chân  núi Sam. Tuy chưa đến ngày lễ nhưng ở đây lúc nào cũng có một bầu không khí cá biệt với các người buôn bán, các kẽ ăn xin và  các phép màu  nhiệm ở chùa. Chùa Bà Xứ rất rộng lớn nhưng mùi nhan hoà lẫn cùng mùi của các lễ vật cúng  khiến làm  không gian ngột ngạt  và khó mà ở lâu được nếu không có lòng tôn kính. Ngược lại có một bầu không khí tĩnh tâm và mật thiết ở trên đỉnh núi Sam,  ở chùa Hang mà Bà Xứ cũng được thờ kính. Du khách có thể ngắm nhìn toàn cảnh đồng bằng  đến cuối chân trời  về phiá Cao Miên trong tầm mắt với ánh sáng xanh độc đáo. Ở đây, thường thấy dọc theo đồng bằng có 2 loại cây cọ:  cây dừa, một biểu tượng quen thuộc của Vietnam và cây thốt nốt làm ta nghỉ đến cây ngọc giá kết xù với cụm hoa dạng bông lớn mọc thẳng đứng giữa đám lá. Thứ nước được lấy  từ các bông thốt nốt  qua các ống tre buộc  vào đầu cụm hoa, uống rất ngọt mát và bổ  còn các quả thốt nốt xem như quả óc chó  vỏ màu đen có nhiều  múi, mỗi múi thịt trắng ngần, có nước ngọt mát  và mềm.   Đối với người  hướng dẫn, các quả nầy biểu tượng của Cao Miên. Nơi mà hai loại cây nầy mọc gần nhau thì phải xem đó là tình hữu nghị của hai dân tộc yêu chuộng hoà bình mà biên thùy cũng không xa  chi cho mấy và cũng  không có gì rõ rệt cả. Lìa xa  miền nam của sông Cửu Long thì cảm nhận chết trong lòng một ít.

Chính ở nơi nầy nó có cái gì quyến rũ ta và  làm ta bỡ ngỡ hơn mọi nơi khác và nó có mang tính chất huyền bí.   

Chúng ta tự thầm nhủ mỗi lần  ra đi để hẹn ngày trở về.

 

Chau_Doc_2

Galerie des photos

 
Version française

En naviguant sur le fleuve Bassac, affluent du Mékong, et le canal Vĩnh Tế, on a le loisir de percevoir toute l’importance stratégique et commerciale de la ville Châu Đốc. Commandant l’embranchement du grand delta du Mékong, elle tire son profit de la pêche et du commerce, licite ou non, entre trois pays, deux du Haut Mékong : le Laos et le Cambodge, et celui du Delta : le Vietnam. Châu Đốc est réputée par les  nombreuses fermes aquacoles qui, montées sur des radeaux et accolées l’une contre l’autre,  permettent l’élevage, dans des nasses fixées sous le plancher, en milieu naturel, de truites pesant cinq à sept kilos ou d’autres poissons, le tout destiné au marché local et à l’exportation dans les pays du Pacifique, jusqu’aux Etats-Unis.  Sur cette terre de contrastes, la pauvreté s’étale sur les rives du fleuve, où les familles de pêcheurs, dans leurs cabanes sur pilotis, continuent de vivre – survivre – dans des conditions de grande précarité.  

On mange bien à Châu Ðốc, une nourriture équilibrée, savoureuse, à base de seiches, fruits de mer, viande et légumes variés. Le marché regorge de ces préparations succulentes fraîchement cuisinées. Emprisonnées dans leurs corsets de feuilles épaisses, dans lesquelles elles ont bouilli plusieurs heures, elles présentent la garantie d’hygiène requise et se conservent quelques jours. En ville, entre le port et le marché, il arrive de croiser des jeunes filles chames, revêtues de leur costume traditionnel aux couleurs sobres, modèles d’élégance et de raffinement. La communauté chame a été islamisée, cinq mosquées y ont été érigées pour le culte, la dernière en 1992. Cette ethnie habite, dans un quartier réservé, des maisons proprettes. Elle vit du traditionnel tissage des tissus, de l’agriculture rizicole, de la pêche et du transport qu’elle assure au moyen de petites motos. Elle vous invite volontiers à venir acheter ses cotonnades colorées, un geste qui ne se refuse ni ne s’oublie.

Métissage des populations, côtoiement de richesse et de pauvreté, juxtaposition des religions. Un culte bouddhique, voué à la Reine du Pays, se déroule au pied du Mont Sam. Il y règne déjà l’ambiance propre aux lieux de pèlerinage, ses marchands du temple, ses mendiants, sa cour des miracles. La pagode Chùa BÀ XỨ est vaste, mais l’odeur de l’encens qui se consume, généralement si agréable, se mêle à celle des offrandes diverses, dans la cohue des grands débordements de ferveur ; elle devient étouffante et nous empêche d’y rester si on n’a pas vraiment la foi. L’ambiance est plus intime et recueillie au sommet du Mont Sam, à la Pagode de la Caverne où est aussi vénérée la Souveraine; celle-ci mérite d’autant plus le détour que le panorama qui s’offre sur la plaine jusqu’au Cambodge nous gratifie de vues imprenables sur des terres rejoignant l’horizon dans une lumière bleutée unique.

Dans cette plaine empreinte de mélancolie, les palmiers qui la jalonnent sont de deux sortes : le cocotier, symbole familier du Vietnam, et le palmier à sucre qui fait penser à un yucca géant, avec sa couronne perchée tout en haut d’une longue tige. Le suc de ses fleurs, récolté dans des tuyaux de bambou, fournit un fondant délicieux et très nourrissant, tandis que ses fruits, des noix d’aspect noir à maturité, de taille moyenne, livrent une chair translucide, aqueuse et douce. Ces derniers, nous explique le guide, sont le symbole du Cambodge et à l’endroit où poussent côte à côte les deux variétés, il y faut voir le signe de l’amitié entre les deux peuples pacifiques. La frontière n’est pas loin non plus, elle est immatérielle.

Quitter le Sud Mékong, « c’est mourir un peu ». L’envoûtement et le dépaysement y sont plus forts qu’ailleurs et d’une nature mystérieuse. A chaque fois, on se dit au fond de soi qu’on part pour revenir.

Le Bambou (Cây Tre)

Version vietnamienne

Version anglaise

Le bambou  est lié étroitement à la vie journalière des Vietnamiens. Lorsqu’on est en bas âge, on s’endort dans le balancement du berceau en bambou. Une fois devenu vieux et décédé, on repose dans un cercueil descendu dans la fosse avec des cordes de bambou. Le journaliste français  Jean Claude Pomonti, le spécialiste des questions d’Asie du Sud-Est, a nommé souvent et d’une manière humoristique, notre civilisation dans ses rubriques du journal « Le Monde » sous le label « civilisation du bambou » car le bambou est un élément important dans notre culture. Grâce aux recherches scientifiques, on sait que le bambou était la principale ressource utilisée par les groupes humains en Asie du Sud-Est il y avait 39 000 ans mais à cause des conditions de conservation extrêmement défavorables pour les matériaux organiques, cela rendait invisible cette utilisation plusieurs milliers d’années plus tard. Pourtant  le géographe célèbre  Pierre Gourou, en 1948, a parlé d’une « civilisation du végétal » pour l’Indochine, en particulier pour le Vietnam.  

C’est une plante à multiples usages au Vietnam. Grâce à cette plante, tout est possible dans ce pays où rien n’est facile et où on ne se laisse pas rebuter ou arrêter par des obstacles. D’abord,  dans notre histoire, le bambou est évoqué dans le mythe de l’enfant géant du village de Gióng.  Ce bonhomme grandit démesurément en quelques semaines pour chasser les armées venues du Nord (les Shang) et sur son cheval de fer crachant du feu, il réussit à arracher des forêts de bambous pour  abattre ses ennemis. Puis au XIIIème siècle, une victoire éclatante fut dirigée par le généralissime Trần Hưng Đạo contre les hordes mongoles de Kubilai Khan sur le fleuve Bạch Đằng avec les jonques et les barques de bois et de bambou. La victoire de Điện Biên Phủ fut obtenue en 1954 aussi contre le corps expéditionnaire français par l’utilisation massive et astucieuse des palanches de bambou et des bicyclettes à garniture de bambou  dans le ravitaillement du front en vivres et en munitions et dans le déplacement des pièces de canons démontés sur des pentes abruptes aux alentours du camp retranché de Điện Biên Phủ, ce qui facilite ainsi le pilonnage intensif  d’artillerie, de jour comme de nuit.

Par le biais de l’histoire, on s’aperçoit qu’il y a un attachement  profond de longue date du peuple vietnamien à ce bambou. C’est  cette plante que  le poète vietnamien Nguyễn Duy tente d’humaniser et décrire  pour les nobles qualités dans son poème intitulé « Tre Việt Nam (le bambou vietnamien) »dont quelques vers sont extraits ci-dessous:

Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm, tay níu tre gần nhau thêm.
Thương nhau, tre chẳng ở riêng
Luỹ thành từ đó mà nên hỡi người.

Lors de la tempête, les bambous se protègent le corps
Les bras serrés et raccrochés, ils tentent de se rapprocher des autres
Remplis d’affections, ils ne peuvent  pas vivre séparément
C’est ainsi que naît dès lors la forteresse des bambous.

Dans l’alimentation, les pousses de bambou entrent dans la préparation de nombreux plats.  Celles-ci sont nécessairement cuites ou appertisées afin de supprimer les toxines naturelles qu’elles contiennent.  Il y a beaucoup de proverbes et de chansons populaires faisant allusion à l’enfance en évoquant les pousses de bambou.  On dit măng sữa ( pousse de bambou à allaiter) ou tuổi măng sữa (âge tendre) pour faire référence à l’enfance. On a l’habitude de dire: Măng không uốn thì tre uốn  sao được. (Si on ne redresse pas la pousse, comment pourra-t-on redresser le bambou ?). La pousse de bambou nous rappelle la notion de la fuite du temps. Il ne faut pas laisser s’échapper le temps perdu car le bambou pousse un temps et l’homme n’a qu’un âge.  Il faut jouir du temps avant qu’il s’en aille et que la vieillesse à grands pas aille nous rattraper. C’est ce qu’on trouve  dans les chansons populaires ou les adages vietnamiens:

Măng mọc có lứa người ta có thì.

Il y a une saison pour les pousses de bambou comme il y a un temps pour les gens.

Ou

Khi đi trúc chưa mọc măng
Ngày về trúc đã cao bằng ngọn tre.

Le bambou n’avait pas encore de pousse quand je partais
Il a déjà atteint la cime du bambou quand je retourne.

Ou

Tre già măng mọc

Quand le bambou devient vieux, la pousse commence à sortir. 

Cette expression traduit  en quelque sorte notre espoir sur la jeunesse et sur les générations futures. 

Autrefois, les Vietnamiens se servirent de ce bambou creux si solide et si léger pour construire des cloisons, des haies hautes de plusieurs mètres protégeant leur village contre les ennemis et les brigands. On  trouve  ce matériau partout dans  la maison, de la charpente, des murailles, des cloisons jusqu’aux  planchers. Tout y est fait avec ce bois creux (meubles, lits, tables, accessoires divers etc …) même un gobelet à  boire. Déchiré en lanières, il sert de cordages et de ficelles. On se sert des filaments de bambou pour faire des paniers de tout genre pour faciliter les transports sur terre (hottes)  ou sur l’eau (paniers ronds). On en fait aussi des chapeaux coniques pour s’abriter de la pluie et du soleil. Grâce à cette plante, on sait créer des outillages usuels (le seau pour aller puiser de l’eau, la pipe pour les fumeurs, les conduites d’eau etc…). Il sert aussi à la nourriture des animaux et même à celle des villageois. Ceux-ci mangent, en guise d’asperges, les pousses les plus tendres de bambous. Même on déterre les racines de ce bois creux et on les assèche par le soleil durant des semaines entières. A l’approche du Tết, on s’en sert comme bois de chauffage pour cuire les gâteaux de riz gluant ou pour se protéger surtout contre le froid en hiver dans le Nord et le Centre du Vietnam. Le bambou devient ainsi quelque chose « sacrée », intime et propre au village. C’est grâce à ces haies faites avec cette plante que le village retrouve non seulement sa tranquillité et son intimité mais aussi ses traditions et ses mœurs. Le bambou devient ainsi le protecteur des villageois. C’est pourquoi dans un proverbe vietnamien on dit que

L’autorité du roi s’arrête devant les haies de bambous du village. (Phép vua thua lệ làng)

C’est aussi aujourd’hui seulement dans les villages qu’on trouve cette plante incomparable  qui facilite la vie des villageois. Le bambou et le village sont si étroitement liés qu’on les compare souvent à une personne liée à son ombre. C’est pourquoi on retrouve dans  plusieurs poèmes vietnamiens cette évocation. Cette impression, tout Vietnamien l’aura probablement lors de son passage dans son village natal à travers les quatre vers suivants:

Thì bao nhiêu cảnh mơ màng
Hiện ra khi thoàng cỗng làng tre xanh.

Au moment où on s’adonne à rêver, on voit apparaître de loin l’entrée du village ainsi que le bambou.

Dừng bước nơi đây lòng ngỗn ngang
Ngùi trông về Bắc nhớ tre làng

En s’arrêtant ici, on se sent désemparé
En se souvenant de son pays avec émotion, on est rappelé à revoir le bambou du village.

 

Retrouver le bambou c’est retrouver le village. C’est pour cela que le bambou devient ainsi le symbole représentatif du Vietnam

Cây Tre

Cây tre là một loại thực vật được gắn liền đến hoạt động hằng ngày của người dân Việt từ khi còn nằm  trong nôi cho đến khi qua đời được chôn ở dưới nấm mồ. Khi còn nhỏ, ta thường được ru ngủ và  được đu đưa trong chiếc nôi tre. Khi đến tuổi già và qua đời thì ta được an nghỉ trong một quan tài được hạ xuống hố qua các dây tre. Nhà báo Pháp Jean Claude Pomonti, một chuyên gia về các vấn đề Đông Nam Á, đã thường xuyên gọi  nền văn minh của chúng ta   một  cách hóm hỉnh   trong các mục của ông trên tờ báo « Le Monde » dưới cái tên « văn minh cây tre » vì tre là một yếu tố quan trọng trong nền văn hóa của chúng ta. Nhờ các cuộc  nghiên cứu khoa học, chúng ta biết rằng tre là nguồn tài nguyên chính được sử dụng bởi các nhóm người dân ở Đông Nam Á khoảng chừng  39,000 năm trước, nhưng do điều kiện bảo quản cực kỳ bất lợi cho các vật liệu hữu cơ, khiến cho việc sử dụng này không được nói đến có vài nghìn năm sau đó. Tuy nhiên, nhà địa lý học nổi tiếng Pierre Gourou, năm 1948, đã nói đến một nền văn minh thực vật ở  Đông Dương, đặc biệt là ở Việt Nam.

Tre là một loại cây có nhiều công dụng nhất ở Việt Nam. Nhờ có thực vật này, mọi thứ đều có thể thực hiện được ở đất nước này, nơi mà không có gì gọi là dễ dàng cả và cũng là nơi mà không để mình bị cản trở hoặc dừng lại bởi những chướng ngại nào cả. Trước hết, trong lịch sử của chúng ta, cây tre được gợi nhớ đến trong  truyền thuyết,  một đứa trẻ khổng lồ từ làng Gióng lớn lên rất nhanh  chóng trong vài tuần lễ để đánh đuổi quân nhà Ân Thương từ phương Bắc  và trên con ngựa sắt phung lửa,  thánh  thành công nhổ  các bụi tre đánh gục quân thù. Sau đó vào thế kỷ 13, chiến thắng vẻ vang của tướng Trần Hưng Đạo chống lại quân Mông Cổ của Kubilai Khan trên sông Bạch Đằng nhờ sử dụng các thuyền bè  bằng gỗ và tre. Chiến thắng Điện Biên Phủ  vào năm 1954 chống lại quân viễn chinh Pháp  nhờ việc sử dụng khôn khéo  những chiếc xe đạp cùng các đồ trang bị bằng tre trong việc tiếp tế lương thực, đạn dược cho mặt trận và trong việc di chuyển các khẩu đại bác trên những sườn núi có dốc xung quanh đồn lũy Điện Biên Phủ cố thủ khiến  tạo ra điều kiện thuận lợi cho pháo binh đột kích không ngừng cả ngày lẫn đêm. Trải qua quá trình lịch sử, chúng ta nhận thấy rằng có một mối liên hệ sâu sắc lâu đời giữa cây tre và con người Việt Nam. Chính loài cây này mà nhà thơ Việt Nam Nguyễn Duy đã cố gắng nhân hóa và miêu tả lại những phẩm chất cao quý của nó trong bài thơ “Tre Việt Nam” mà được trích ra vài câu thơ như sau:

Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm, tay níu tre gần nhau thêm.
Thương nhau, tre chẳng ở riêng
Luỹ thành từ đó mà nên hỡi người.

Trong chế độ ăn uống, măng được dùng để chế biến nhiều món ăn. Măng cần thiết phải được nấu chín hoặc bảo quản đóng hộp  để loại bỏ các độc tố tự nhiên mà có ở trong măng. Có rất nhiều câu tục ngữ và bài hát phổ biến ám chỉ tuổi thơ bằng cách gợi lên những búp măng. Chúng ta nói măng sữa (măng còn non) hay tuổi măng sữa (tuổi còn non) để chỉ thời thơ ấu. Chúng ta thường nói: Măng không uốn thì uốn sao được. (Nếu không nắn măng thì làm sao nắn được tre?). Cây măng gợi cho ta liên tưởng đến thời gian trôi qua rất nhanh. Chúng ta đừng để lãng phí thời gian trôi đi vì tre mọc một thời và con người cũng  chỉ có một tuổi. Chúng ta phải tận hưởng khoảng thời gian trước khi nó qua đi và tuổi già nhanh chóng bắt kịp được chúng ta. Đây là những gì chúng ta tìm thấy trong các bài ca dao hoặc các câu ngạn ngữ Việt Nam:

Măng mọc có lứa người ta có thì.

Hay

Khi đi trúc chưa mọc măng
Ngày về trúc đã cao bằng ngọn tre.

Hay

Tre già măng mọc

Từ ngữ nầy thể hiện sự  hy vọng của chúng ta ở tuổi trẻ và ở  thế hệ tương lai.

Thưở xưa, người dân Việt hay sử dụng loại tre  rỗng này rất vững chắc và nhẹ nhàng để làm vách ngăn, làm hàng rào cao vài thước  để bảo vệ làng trước kẻ thù địch hay kẻ cướp. Ở làng, tre làm được mọi thứ. Nó cung cấp mọi thứ cho nhà cửa, từ sườn, tường, vách ngăn cho đến sàn nhà đều làm bằng nan tre cả. Mọi thứ đều được làm bằng tre rỗng này (đồ nội thất, giường, bàn, các phụ kiện khác nhau vân vân…), thậm chí còn luôn cả cốc uống nước.  Bị tách ra thành dải, tre dùng  làm dây thừng và dây. Sợi tre được dùng làm các loại thúng thuận tiện cho việc vận chuyển trên đồng cạn (như gùi) hoặc trên mặt nước (như thuyền thúng).  Còn các sợi tre được  làm thành  các nón lá che mưa  hay che nắng. Nhờ có tre này, chúng ta còn  biết cách tạo ra các công cụ thông thường (xô lấy nước, tẩu hút thuốc, các ống nước vân vân…). Nó cũng được sử dụng làm thức ăn cho động vật và thậm chí cho dân làng.  Như măng tây những người  thích hay thường ăn những chồi non mềm mại nhất. Ngay cả phần rễ của tre rỗng này cũng được đào lên và đem đi phơi nắng trong nhiều tuần liền tiếp. Khi Tết về, dùng làm củi để nướng bánh chưng hoặc chống rét, nhất là vào mùa đông ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Tre vì thế trở thành một thứ gì  rất “thiêng liêng”, thân thiết và đặc trưng của làng quê. Chính nhờ những hàng rào làm bằng loại cây tre này mà ngôi làng không chỉ lấy lại được sự bình yên riêng tư mà còn luôn cả truyền thống và phong tục. Cây tre trở thành người che chở dân làng. Đây là lý do tại sao trong tục ngữ Việt Nam người ta thường nói rằng: Phép vua thua lệ làng. 

Ngày nay chỉ có ở các làng quê, chúng ta mới tìm thấy loại cây nầy có một không hai và giúp dân làng có một  cuộc sống dễ dàng hơn. Tre và làng có quan hệ mật thiết với nhau đến nỗi chúng ta thường  so sánh như một con người được gắn bó với cái bóng của mình vậy. Đây là lý do tại sao chúng ta tìm thấy được  sự khơi gợi  này  trong các bài thơ của người dân Việt. Sự cảm nhận này, bất cứ người dân Việt nào cũng có khi trở  về làng quê qua bốn câu thơ sau đây:

Thì bao nhiêu cảnh mơ màng
Hiện ra khi thoàng cỗng làng tre xanh.

Dừng bước nơi đây lòng ngỗn ngang
Ngùi trông về Bắc nhớ tre làng

Tìm  lại được tre là tìm lại được làng quê. Đây là lý do vì sao cây tre trở thành biểu tượng tiêu biểu của Việt Nam.

Civilisation du bambou

[Return CIVILISATION]

Buffle (Con Trâu hay Thủy ngưu)

 

Version vietnamienne

English version

Comme le Vietnam est un pays agricole, le buffle est considéré toujours comme un animal familier pour les Vietnamiens, en particulier pour les paysans.  Analogue aux autres peuples, le Vietnam a aussi beaucoup de légendes parmi lesquelles il y a une concernant le buffle.

Autrefois, pour aider les paysans vietnamiens, l’empereur céleste  chargea un génie de descendre au Vietnam avec deux sacs, l’un rempli de graines de céréales pour nourrir la population et l’autre de graines d’herbes pour le bétail. Il fut conseillé de semer d’abord les graines de céréales puis celles des herbes après. Comme il fut tellement distrait, il oublia les recommandations en faisant le contraire: les graines d’herbes d’abord puis celles de céréales après.

C’est pourquoi le Vietnam était tellement  inondé par des forêts d’herbes que  les plaintes de ses paysans se répercutaient en écho   jusqu’au ciel. Ayant appris cela, l’empereur céleste, furieux, condamna le génie à l’exil en le métamorphosant en un buffle vivant désormais au Vietnam. C’est pourquoi ce ruminant  était obligé de passer toute la journée à brouter l’herbe et à tirer les charrues pour racheter les erreurs commises. 

Le buffle est un animal très utile dans les pays agricoles, en particulier au Vietnam où les technologies agricoles ne sont pas très développées. Dans certains pays, si le chien est le meilleur ami de l’homme, c’est le buffle qui est le compagnon inséparable du paysan vietnamien. Sans ce ruminant, ce dernier serait dépourvu de tout car c’est lui qui l’aide à labourer tous les jours la terre, à charrier les fardeaux, à le remplacer dans des tâches fatigantes et ingrates. Ce ruminant est aussi l’animal que les Montagnards des Hauts Plateaux sacrifient pour demander au dieu de leur accorder la faveur en bénissant leur récolte.

Le buffle est l’animal bienfaiteur des paysans vietnamiens. C’est pourquoi il est l’animal le plus souvent cité dans les chansons populaires et les proverbes. Il est l’un des sujets enrichissants de la poésie vietnamienne.

Pour le paysan, le buffle fait partie de son patrimoine. C’est pourquoi on a l’habitude de dire:

Ruộng sâu, trâu nái
La rizière haute, le buffle étalon

pour désigner une personne aisée dans le village.

L’achat d’un buffle est un sujet aussi important que la construction d’un habitat ou la recherche d’une femme. C’est pourquoi les deux vers suivants illustrent cet état d’esprit chez un paysan vietnamien:

Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà
Trong ba việc đo’ trong là khó thay.

L’achat d’un buffle, la recherche d’une femme et la construction d’un habitat
Parmi ces trois tâches, aucune ne paraît facile.

Comme c’est le cas de la pisciculture, l’élevage des buffles est un moyen de s’enrichir rapidement. C’est pourquoi on a l’habitude de citer souvent dans l’une des chansons populaires les deux vers suivants:

Muốn giàu thì nuôi trâu cái,
Muốn lụn bại thì nuôi bồ câu.

Si on veut s’enrichir, il faut acheter les buffles femelles,
Si on veut s’endetter, il suffit d’élever les pigeons.

Pour désigner le buffle, on a l’habitude d’utiliser le mot « ngưu () » mais cela s’avère incorrect. Selon le chercheur vietnamien Lại Nguyên Ân, c’est une erreur qu’on doit connaître.  Le buffle ne vit que dans les régions tropicales. Dans le nord de la Chine, on ne trouve pas le buffle.  Il semble que  ce mammifère existe seulement  en Kouang Tong et Kouang Si à l’époque où le territoire des Bai Yue était annexé par les Han.  Dans les textes anciens chinois écrits parles Chinois du Nord, on emploie le mot « ngưu » pour faire allusion à un  bœuf. Quant au buffle, dans le dictionnaire chinois, on le désigne par le mot « thủy ngưu (水牛) » car il est un bœuf qui sait bien nager dans l’eau. C’est un fait à connaître.

L’image du buffle est liée étroitement au paysage rural du Vietnam. On a l’habitude de voir souvent les buffles herser le sol  après le labourage dans les rizières.  C’est pourquoi la tâche pénible du buffle est décrite dans l’un des poèmes suivants: 

Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cầy cấy vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.

Ô mon buffle, écoute ce que je te dis
Tu vas à  la rizière, tu  laboures avec moi;  
Labourer et repiquer c’est le métier des laboureurs
Moi que voici, toi que voilà, qui de nous plaint sa peine.

ou 

Trên đồng cạn dưới đồng sâu,
Chồng bừa vợ cấy con trâu đi cày.

Dans la rizière haute et dans la rizière basse,
Le mari herse, la femme repique, le buffle laboure.

Le matin  le buffle est visible de bonne heure dans la rizière.  Le soir, il est ramené au hameau par le bouvier après une journée de labeur.  Le Vietnamien a l’occasion de rappeler le tableau de la vie rustique à la campagne décrit par la poétesse célèbre Huyện Thanh Quan ( la sous-préfète de Thanh Quan (ou Thái Bình d’aujourd’hui)) dans son poème intitulé « Paysage crépusculaire (Cảnh chiều hôm) »: 

Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa lẫn trống đồn.
Gác mái ngư ông về viễn phố,
Gỏ sừng mục tử lại cô thôn…

Le soir ramène les ombres du crépuscule sous un ciel blafard;
On entend de loin le son de la trompe des veilleurs répondant au tam-tam du poste de garde;
Le vieux pêcheur  déposant sa rame regagne sa station lointaine;
Le jeune bouvier frappant les cornes de son buffle regagne son hameau solitaire….

Dans l’histoire du Viet Nam, il y a deux illustres personnages assumant le rôle de bouvier quand ils sont jeunes.  À cause de la pauvreté, ils sont obligés de passer leur journée à garder les buffles bien qu’ils soient bien éduqués. Le premier était Đinh Bộ Lĩnh.  Il avait le mérite de mater les rébellions des douze seigneurs locaux et unifier le pays. Il devenait ainsi le premier empereur d’un  Vietnam indépendant après mille ans de la domination chinoise.  Le second était Đao Duy Từ. Celui-ci se réfugia à une époque dans le sud (Đàng Trong) pour s’occuper d’un troupeau de buffles appartenant à un homme riche dans la région Tùng Châu.  Sachant que Đao Duy Từ n’était pas un personnage ordinaire, cet homme riche le recommanda à Trần Đức Hoà, le conseiller éminent du seigneur Nguyễn Phúc Nguyên. En trouvant en lui les qualités d’un homme instruit et talentueux, Trần Đức Hoà lui donna  sa fille en mariage et le présenta au seigneur  des Nguyễn,   Nguyễn Phúc Nguyên (ou seigneur bonze).  C’est sur ses recommandations que ce dernier réussit à construire deux forteresses « Trường Dục » et « Định Bắc Trường thành » le long du fleuve Nhật Lê qu’on est habitué à appeler « la forteresse du Maître »  à Đồng Hới (Quảng Bình) pour résister aux assauts des armées du seigneur Trịnh. Il était le mandarin méritant de la dynastie des Nguyễn et il était considéré toujours par le seigneur Nguyễn Phúc Nguyên comme son « Maître Vénéré« .

Bref, on trouve en grande partie à travers l’image du buffle celle de notre pays, le Vietnam. Pour les Vietnamiens d’Outre Mer, revoir le buffle c’est retrouver le Vietnam. Cet animal est l’un des symboles représentatifs du Vietnam avec le bambou. Le buffle reflète à la fois la douceur de vivre et la résistance inébranlable du peuple vietnamien.

Version vietnamienne

Galerie des photos

Việt Nam là một nước nông nghiệp nên con trâu vẫn được xem  là  con động vật quen thuộc  của người dân Việt  nhất là với những người nông dân. Tương tự như các dân tộc khác, nước ta cũng có nhiều truyền thuyết, trong đó có một truyền thuyết liên quan đến con trâu.

Thưở xưa, để giúp đỡ những người nông dân Việt, Ngọc Hoàng có sai một vị thần xuống Việt Nam với hai bao tải, một bao đựng ngũ cốc để nuôi dân và một bao đựng cỏ cho gia súc. Theo lời chĩ dẫn thì nên gieo hạt ngũ cốc trước, sau đó mới đến hạt cỏ. Vị thần nầy có tính lo ra nên quên mất làm ngược lại tức là gieo hạt cỏ trước rồi đến ngũ cốc sau.

Bởi vậy nước ta có đầy cỏ rừng thảo mộc khiến người nông dân than thở vang đến tận thiên đình. Khi biết được điều này, Thượng Đế nổi giận lên án đày vị thần  nầy biến thành con trâu xuống sống ở Việt Nam. Đây là lý do tại sao loài nhai lại này phải gặm cỏ cả ngày và kéo cày để chuộc lại lỗi lầm của mình làm ra.

Trâu là một loài động vật rất hữu ích ở các nước nông nghiệp, đặc biệt là ở Việt Nam, nơi mà công nghệ nông nghiệp chưa phát triển mạnh mẽ.Tại vài nước , nếu con chó là người bạn thân thiết nhất của con người thì con trâu lại là bạn đồng hành chí thiết của người nông dân Việt Nam. Nếu không có loài nhai lại này, người dân Việt sẽ  thiếu mọi thứ vì chính trâu giúp họ cày đất mỗi ngày, gánh vác, thay thế họ làm những công việc nặng nhọc và bạc bẽo. Loài động vật nhai lại này cũng là loài vật mà người Thượng Tây Nguyên thường hiến tế để xin thần linh ban ơn cho mùa màng thuận lợi.

Con trâu là loại thú được xem đem lại nhiều lợi ích cho  nông dân Việt. Đây là lý do tại sao nó là con  động vật thường được nhắc đến trong các bài ca dao và tục ngữ phổ biến. Nó là một trong những đề tài làm phong phú thêm nền thi văn Việt Nam. Đối với người nông dân, con trâu là một phần di sản của họ. Bởi vậy ta thường nói: Ruộng sâu, trâu nái để hàm ý chỉ người giàu có trong làng.

Việc tậu trâu là một đề tài quan trọng như cất nhà hay kiếm vợ. Hai câu thơ dưới đây minh họa tâm trạng của người nông dân khó mà chọn lựa :

Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà
Trong ba việc đó trong là khó thay.

Cũng như nuôi cá, nuôi trâu là phương án làm giàu nhanh chóng. Đây là lý do mà tại sao người ta thường có thói quen trích dẫn trong một  của những bài hát nổi tiếng hai câu thơ như sau: 

Muốn giàu thì nuôi trâu cái,
Muốn lụn bại thì nuôi bồ câu.

Để chỉ con trâu, người ta có thói quen dùng chữ Ngưu không thôi nhưng thật sự không đúng. Theo nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân đây là một sai lầm cần phải biết. Trâu duy có xứ nóng mới có. Phương bắc nước Tàu không có trâu, hình như chỉ có Quảng Đông Quảng Tây mới có mà thôi lúc mà người Hoa thôn tính được  Bách Việt. Sách vở Tàu đời xưa toàn do người phương bắc làm, cho nên chỉ nói ngưu để chỉ con bò.  Còn con trâu thì trong tự điển mới gọi là thủy ngưu vì nó là con bò lội nước rất giỏi. Một sự thật  cần phải biết.

Hình ảnh con trâu  thường được gắn liền với phong cảnh nông thôn của nước Việt. Chúng ta hay  quen nhìn thấy trâu thường xới đất sau khi cày trên ruộng lúa. Đó là lý do tại sao nhiệm vụ cực nhọc vất vã của con trâu được miêu tả trong một trong những bài thơ sau đây:

Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cầy cấy vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.

hay là

Trên đồng cạn dưới đồng sâu,
Chồng bừa vợ cấy con trâu đi cày.

Sáng sớm trâu ở ngoài đồng, chiều tối trâu được mục đồng dẫn về nông thôn sau một ngày vất vã. Ai cũng có dịp được biết cuộc sống mộc mạc ở  đồng quê mà  nhà thơ lỗi lạc, bà Huyện Thanh Quan đã mô tả  trong bài thơ Cảnh chiều hôm:

Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa lẫn trống đồn.
Gác mái ngư ông về viễn phố,
Gỏ sừng mục tử lại cô thôn…

Trong lịch sử Việt Nam, có hai danh nhân lúc thưở nhỏ đã từng làm mục đồng tức là làm nghề giữ trâu. Họ vì nghèo chớ không phải thất học dù họ chân lắm tay bùn cần kề với trâu. Đó là Đinh Bộ LĩnhĐào Duy Từ. Đinh Bộ Lĩnh có công dẹp được loạn sứ thần, thống nhất đất nước và trở thành hoàng đế đầu tiên của một nước Việt Nam độc lâp sau một ngàn năm Bắc thuộc. Còn Đào Duy Từ thì có một thời vào nam phải đi chăn trâu cho một phú ông ở xã Tùng Châu nhưng phú ông biết Đào Duy Từ không phải người thường nên giới thiệu ông với Trần Đức Hoà. Nhận thấy ông học rộng tài cao nên  Trần Đức Hòa gã con gái cho ông và giới thiêu ông với chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Nhờ thế ông mới giúp chúa Sãi  đắp lũy Trường Dục  và lũy Định Bắc Trường thành dọc theo song Nhật Lê tục gọi là lũy thầy Đồng Hới để ngăn chặn quân Trịnh. Ông là một công thần của nhà Nguyễn và được chúa Sãi xem như  một người thầy được kính mến.

Tóm lại, qua hình ảnh con trâu chúng ta nhận thấy ra một phần lớn hình ảnh của đất nước Việt Nam chúng ta. Đối với người dân  Việt ở hải ngoại, gặp được lại con trâu là tìm lại được đất nước Việt Nam. Con trâu là một trong những biểu tượng đại diện Việt Nam cùng với cây tre. Con trâu thể hiện  sự dịu dàng của cuộc sống và sự kháng cự kiên định của người dân Việt.

[Return RELIGION]

 

 

 

 

 

Les gongs des Hauts Plateaux: quatrième partie

Quatrième partie

Dans les cérémonies rituelles, les joueurs des gongs se déplacent lentement en file indienne ou se disposent en demi-cercle devant un public admirateur. Ils partent de droite à gauche dans le sens inverse des aiguilles d’une montre pour remonter le temps et revenir à leurs origines. Leurs pas sont lents et rythmés aux battements des gongs dont chacun a un rôle bien déterminé dans le jeu. Chaque gong correspond exactement à une corde de la guitare ayant chacune une note, une sonorité particulière. Quelle que soit la mélodie jouée, il y a la participation active de tous les gongs dans la procession. Par contre un ordre très précis de succession et de composition de battements leur est imposé afin de répondre aux mélodies et aux thèmes propres choisis de chaque ethnie.

Parfois, pour mieux écouter la mélodie, l’auditeur a intérêt à se placer dans un emplacement équidistant de tous les joueurs disposés en demi cercle sinon il ne peut pas l’écouter convenablement à cause de la faiblesse et l’amplification de la résonance de certains gongs dues respectivement à l’éloignement ou au rapprochement excessif de sa position géographique par rapport aux joueurs.

Cồng Chiềng Tây Nguyên

Pour la plupart des groupes ethniques, le jeu des gongs est réservé uniquement aux hommes. C’est le cas des ethnies Jarai, Edê, Bahnar, Sedang, Co Hu. Par contre, pour le groupe ethnique Eđê Bih, les femmes sont autorisées à utiliser les gongs. D’une manière générale, les gongs sont de taille variable. Le disque des grands gongs peut aller de 60 à 90 cm de diamètre avec un bord cylindrique de 8 à 10 cm. Cela ne permet pas aux joueurs de les porter car ils sont trop lourds. Ces gongs sont suspendus souvent aux poutres de la maison par des cordes. Il y a par contre les gongs plus petits dont le disque varie de 30 à 40 cm avec un bord de 6 à 7cm. Ceux-ci sont fréquemment rencontrés dans les fêtes rituelles. Pour l’identification des gongs des Hauts Plateaux, le musicologue vietnamien Trần Văn Khê a l’occasion d’énumérer un certain nombre de caractéristiques dans l’un de ses articles:

  • 1°) Ils sont très variés.
  • 2°) Ils sont liés étroitement à la vie spirituelle des minorités ethniques des Hauts Plateaux. Etant considérés comme des instruments sacrés, ils favorisent la communication avec les esprits et les génies.
  • 3°) Ils accompagnent les gens des Hauts Plateaux, depuis leur naissance jusqu’à leur mort. Leur présence est visible non seulement dans les évènements importants ( mariages, funérailles, guerres etc…) mais aussi dans les fêtes agricoles (germination du paddy, formation de l’épi, fête de la clôture agricole etc..).
  • 4°) La manière de jouer le gong des Hauts Plateaux est très particulière et reflète la structure familiale de chaque minorité ethnique. Cela permet d’identifier facilement l’ethnie en question grâce aux mélodies de timbres jouées.
  • 5°) Le déplacement des joueurs est effectué toujours dans le sens inverse des aiguilles de la montre dans le but de remonter le temps et retourner à la source. Il est identique à la démarche employée par l’école bouddhiste Zen dans sa méditation marchée (thiền hành) et orientée  de « l’extérieur vers le coeur » (từ ngoài vào tim).
  • 6°) La composition de la mélodie jouée est basée essentiellement sur la séquence des battements rythmés selon les procédés originaux de répétition et de réponse.

On ne trouve pas ailleurs autant de gongs comme on les a eus sur les Hauts Plateaux du Vietnam. C’est pourquoi, lors de sa visite au Vietnam sur les Hauts Plateaux, étant en contact avec les gongs et en présence du musicien Tô Vũ,  l’ethnomusicologue philippin José Maceda a eu l’occasion de souligner que les gongs des Hauts Plateaux sont très originaux. Pour lui, en raison du nombre élevé de gongs trouvés, il est possible que les Hauts Plateaux soient peut-être le berceau des gongs de l’Asie du Sud Est.

Au fil des années, le risque de voir disparaître le caractère « original » et « sacré » est réel à cause du trafic illicite de gongs, du manque des accordeurs, du désintéressement des jeunes et de la destruction de l’environnement où les gongs ont été « éduqués ».

gong_dxdung

Photo Đinh Xuân Dũng ( Nha Trang )

Depuis quelques années, étant considérés comme des biens culturels, les gongs deviennent l’objet de convoitises des antiquaires vietnamiens et des collectionneurs étrangers, ce qui amène les autorités locales à un contrôle sévère dans le but de stopper l’hémorragie des gongs (chảy máu cồng chiêng).

L’effort gouvernemental est visible aussi au niveau local par la mise en place des programmes d’incitation à l’apprentissage auprès des jeunes. Mais selon certains ethnomusicologues vietnamiens, cela permet de pérenniser physiquement les gongs sans donner à ces derniers le moyen de posséder une âme, un caractère sacré, une couleur sonore ethnique car ils ont besoin non seulement de la main habile et de l’ouïe fine de l’accordeur mais aussi de l’environnement. C’est ce dernier facteur qu’on oublie de protéger efficacement dans les dernières années. A cause de la déforestation intensive et de l’industrialisation galopante pour les années à venir, les minorités ethniques n’ont plus la possibilité de pratiquer la culture sur brûlis. Elles n’ont plus l’occasion de honorer les fêtes rituelles, leurs génies, leurs traditions. Elles ne savent plus exprimer leurs tristesses et leurs joies à travers leurs gongs. Elles ne connaissent plus leurs épopées orales (sử thi). Leurs champs de riz sont remplacés par les plantations des caféiers et d’hévéas. Leurs jeunes enfants ne sont plus des essarteurs mais ils s’adonnent à des activités industrielles et touristiques leur permettant de procurer des subsistances confortables. Il y a peu de gens  sachant  accorder  aujourd’hui ces gongs.

Le caractère « sacré » des gongs n’existe plus. Ceux-ci deviennent des instruments de divertissement comme d’autres instruments de musique. Ils peuvent être utilisés partout sans avoir besoin des événements importants, des heures bien précises et sacrées (giờ thiêng). Ils sont joués à la demande touristique. Ils ne sont plus ce qu’ils étaient jusqu’alors. C’est pour cette perte irréparable que l’UNESCO n’a pas hésité de souligner le caractère urgent dans la reconnaissance de l’espace de la culture des gongs des Hauts Plateaux (Tây Nguyên) comme le chef d’œuvre du patrimoine immatériel et oral de l’humanité le 25 Novembre 2005. Les gongs ne constituent qu’un élément essentiel dans la réalisation de ce chef d’œuvre mais il faut qu’on sache que d’autres éléments sont aussi importants que ces gongs: l’environnement, les us et coutumes, les ethnies etc.

Sans leur environnement et leur couleur sonore ethnique les gongs ne possèdent plus l’âme sacrée (hồn thiêng) des Hauts Plateaux. Ils perdent le caractère original pour toujours. Il y a toujours un prix à payer dans la préservation de la culture des gongs des Hauts Plateaux mais il est à la portée de nos efforts collectifs et de notre volonté politique. On ne peut pas réfuter que la culture des gongs des Hauts Plateaux fait partie désormais de notre héritage culturel.

Les gongs des Hauts Plateaux (3ème partie)

 

Troisième partiecongchien_4

Grâce à une cordelette ou à une bande de tissu pouvant être plus ou moins serrée par torsion, chaque joueur suspend le gong à l’épaule gauche. Il frappe le dôme central de la face extérieure du gong soit avec un maillet en bois ou en cuir soit avec son poing droit nu ou enveloppé d’étoffe.

La qualité du son du gong dépend non seulement de l’alliage dont le gong a été fabriqué mais aussi de la qualité de l’accordeur. D’autres paramètres entrent en jeu: le maillet en bois ou en cuir, la place et l’action de la main frappant le gong, la tension de l’attache etc.. De plus, le joueur peut moduler habilement les effets du son du gong grâce à l’action de sa main gauche en faisant varier la pression et le relâchement sur le bord recourbé de la face extérieure. Des effets de sourdine peuvent résulter de cette action. Chaque groupe ethnique préfère un type de bois dans la fabrication du maillet. En choisissant le bois dur, les Êđê obtiennent souvent des bruits parasites dans la puissance de la résonance du gong. Par contre, en sélectionnant le bois tendre, les Bahnars réussissent à obtenir la « clarté » du son fondamental malgré la faiblesse d’intensité détectée dans la résonance.

Au moment de l’ achat, le gong est livré à l’état « brut », sans sonorité musicale, sans caractère et sans âme. Sa face extérieure est presque plate. Il est semblable à un objet produisant un signal sonore. (cái kẻng) Grâce aux coups de maillet en bois et à l’ouie fine de l’accordeur, le gong reçoit des petites bosses et des cercles concentriques sur sa bordure et sur ses faces intérieure et extérieure. Le coup du maillet donné sur sa face extérieure augmente sa sonorité. Par contre, la diminution de la résonance est visible inversement avec sa face intérieure. L’accordeur réussit à lui donner une couleur sonore, une note musicale particulière, ce qui fait de lui désormais un instrument de musique à part entière. Selon les gens des Hauts Plateaux, analogue à l’homme, le gong a un visage, un caractère et une âme. Il ne ressemble à aucun autre gong.

On dit qu’on l’éduque car à partir d’un objet qu’on achète à l’état « brut » auprès des Kinh (Quảng Nam) , on lui donne une éducation, une note, une appartenance ethnique, un caractère sacré. Pour le gong acheté au Laos, il a déjà une âme mais c’est une âme laotienne.

Pour le transformer en un gong des Hauts Plateaux, il faut l’éduquer par les coups de maillet en bois pour qu’il connaisse ainsi la langue Bahnar, Stieng, Edê, Mnong etc… Il a désormais l’âme sacrée (hồn thiêng) des Hauts Plateaux. Celle-ci ne disparaît pas tant qu’il y a encore l’environnement où le gong est « éduqué » (la forêt, les ethnies, les villages, les sources d’eau, les animaux etc…). Le caractère sacré du gong ne peut qu’être trouvé dans ce milieu naturel qui lui permet de retrouver son identité ethnique à travers les mélodies variant d’un village à un autre ou d’une ethnie à une autre et les rites agraires. Le gong peut produire une fausse note au fil des années d’utilisation. On dit qu’il est « malade ». Il faut le soigner en faisant venir un médecin (ou un bon accordeur) qu’il est difficile de trouver parfois sur place. Il faut se déplacer à plusieurs kilomètres dans d’autres régions pour arriver à le trouver. Une fois réajusté le son, on dit que le gong est guéri. Lire la suite (Tiếp theo)

congchien5

 

 

Les gongs des Hauts Plateaux: 2ème partie

img_9058

Deuxième partie

Ce général tenta de briser toutes les velléités de résistance vietnamienne en faisant fondre tous les tambours de bronze, symbole de leur puissance au combat. Probablement, dans cette destruction, il y avait aussi les gongs dongsoniens car ils étaient en bronze. Selon Nguyễn Việt, directeur du centre de la Préhistoire d’Asie du Sud Est de Hànội, le couvercle de la situle dongsonienne dont le centre est légèrement renflé et orné d’une étoile, ressemble étrangement au gong à bosse des Hauts Plateaux. Il possède aussi des anses avec lesquelles on peut passer des cordes pour le pendre au mur d’une pièce comme un gong. Il est peut-être le prédécesseur des gongs des Hauts Plateaux.

On n’écarte pas non plus l’hypothèse selon laquelle les Dongsoniens tentaient de les cacher à tout prix et de les écouler dans les régions montagneuses grâce à l’échange culturel et économique avec les peuplades des Hauts Plateaux. En s’appuyant sur les recherches linguistiques en particulier celles du chercheur français Michel Ferguson, un spécialiste des langues austro-asiatiques, on est amené à penser que les Viet-Mường étaient présents à l’est de la Cordillère annamitique et sur les rives de la Mer de l’Est (Biển Đông) avant les débuts de notre ère. Pour ce chercheur, le groupe Viet-Mường vivait ensemble non seulement avec les Tày mais aussi avec les peuplades des Hauts Plateaux (les Khamou, les Bahnar etc …). car il y a l’importance du vocabulaire Tày dans la langue vietnamienne et les similitudes de la structure féodale de Giao Chỉ avec celles des Thaïs actuels (descendants des proto-Tày). De plus, il y a dans le vocabulaire des Khamou une strate d’emprunt à une ou plusieurs langues viet-mường. Selon la suggestion de ce chercheur, le royaume de Tang Ming pourrait être l’ancien habitat du groupe Việt-Mường. Cela conforte l’hypothèse selon laquelle les Dongsoniens pourraient être les pourvoyeurs des gongs aux peuplades des Hauts Plateaux par le biais des trocs car ces dernières ne fabriquaient pas elles-même ces gongs malgré leur caractère sacré. Probablement cela est dû au fait qu’étant des agriculteurs sur brûlis, elles n’avaient pas une industrie métallurgique leur permettant de mouler ces gongs. Jusqu’à aujourd’hui, elles les procurent auprès des Kinh (ou Vietnamiens), des Cambodgiens, des Laotiens, des Thaïlandais etc .. avant de les donner à leur musicien à l’ouïe fine. En les martelant avec des coups de maillets de bois dur, ce dernier réussit à donner à ces gongs de provenance diverse un ensemble d’harmoniques remarquable en accord avec les thèmes villageois et tribaux. Le rajustement du son d’un gong est plus important que son achat car il faut rendre le gong en harmonie avec l’ensemble des gongs de l’orchestre et il faut savoir lui donner une âme, une sonorité particulière. Selon le musicologue vietnamien Bùi Trọng Hiền, le fait de ramasser et d’accorder les gongs d’origine diverse et de les rendre harmonieux et conformes à leur esthétique dans un jeu constitue un art grandiose. Le gong doit être sacré avant son utilisation par une cérémonie rituelle pour permettre à son corps de posséder désormais une âme.

Certaines ethnies bénissent du sang des gongs au même titre que les jarres, les tambours etc.. C’est le cas des Mnong Gar signalé par exemple par l’ethnologue Georges Condominas. Le caractère « sacré » des gongs ne peut pas laisser indifférents les Vietnamiens. Pour donner à ces gongs une portée significative, les Vietnamiens ont l’habitude de dire:

Lệnh ông không bằng cồng bà ( Le tambour d’ordonnance de Monsieur ne résonne pas aussi fort que le gong de Madame). Cela explique aussi que l’autorité de Monsieur est moins importante que celle de Madame.

La culture des gongs est localisée dans les 5 provinces du centre (Đắc Lắc, Pleiku, Kontum, Lâm Đồng et Đắk Nông). Une vingtaine d’ethnies (Bahnars, Sedang (Xơ Đăng), Mnongs, Cơ Ho, Rơ Mam, Êđê, Jarai (Giarai), Radhés etc ..) sont recensées dans l’utilisation de ces gongs. Selon l’illustre musicologue vietnamien Trần Văn Khê, dans les autres pays de l’Asie du Sud Est, le joueur de gong reste toujours assis et peut jouer plusieurs instruments associés en même temps. Ce n’est pas le cas des joueurs des gongs des Hauts Plateaux du Vietnam. Chaque joueur peut jouer un seul gong. Il y a autant de gongs que de joueurs dans un jeu. Lire la suite (Tiếp theo)