Vestiges d’une époque (Di tích của một thời)

di_tich_cua_mot_thoi

Version française

English version

Rất đáng ngạc nhiên khi thấy Việt Nam ngày nay đã sát nhập những thành tựu kiến trúc của Pháp quốc từ thời thuộc địa vào di sản quốc gia. Các công trình nầy  không trở  thành những dấu vết  cần phải  xóa bỏ  từ  cuộc  chiến tranh  đau thương mà giờ đây  là một phần bền vững  của di sản kiến ​​trúc và văn hóa mà Việt Nam cố gắng bảo tồn trong việc tôn trọng môi trường đô thị và xây dựng một bản sắc lịch sử. Một số thành tựu kiến  trúc nầy  được  xây dựng dựa trên mô hình  từ các kiệt tác kiến trúc của mẫu quốc Pháp. Đây là trường hợp với nhà hát lớn Hà Nội, được xây cất dựa theo kiểu mẫu của nhà hát nổi tiếng Opera Garnier ở  Ba Lê. Ga Đà Lạt trông thật giống với ga Deauville-Trouville. Ngay cả đài truyền hình sơn phết đỏ trắng cũng  mang đậm nét đẹp của Pháp với một ngọn tháp nhỏ tượng tự như tháp Eiffel Paris ở giữa thành phố Đà Lạt. Còn có các công trình khác được trông thấy dựng với phong cách kiến trúc cổ điển ở giữa trung tâm thủ đô Hà Nội với mặt tiền đồ sộ.   Như dinh của toàn quyền Đông Dương được xây dựng vào năm 1901-1905, trở thành thành hiện nay là phủ chủ tịch hay là bảo tàng viện mỹ thuật (Hà Nôi)

Nhà thờ Saint Joseph thường được du khách viếng thăm ngày nay lấy nguồn cảm hứng từ nhà thờ Đức Bà ở Paris nổi tiếng được dựng lên với phong cách tân cổ điển trên  chổ  của chùa Báo Thiên cũ, được xây dựng dưới triều đại nhà Lý và bị phá hủy vào năm 1883 bởi chính quyền Pháp.Được biết đến ngày nay « Cầu Long Biên », cái cầu nổi tiếng của ông toàn quyền  Paul Doumer vẫn còn tiếp tục đứng vững mặc dù bị phá hủy dữ dội (14 lần trong tất cả) trong những năm chiến tranh. Ngày nay nó là biểu tượng cho sự đoàn kết và bền bỉ của người dân Việt Nam.

Ngoài ra còn có các tòa nhà được thiết kế bởi kiến ​​trúc sư Ernest Hébrard, người đã không ngần ngại lấy nguồn cảm hứng đặc biệt từ các nguyên tắc cấu tạo của  các chùa và đình  để lựa chọn một kiến ​​trúc hỗn hợp (phong cách Đông Dương) có tính cách mang cả  ảnh hưởng của phương Tây và Châu Á. Đối với kiến ​​trúc sư người Pháp Christian Pédémusore de Loddis, Ernest Hébrard đã thành công trong việc tổng hợp giữa ảnh hưởng Đông và Tây bằng cách kết hợp kỹ thuật hiện đại và phong cách phương Tây với những kỹ năng cơ bản của ngành xây dựng  và các không gian của truyền thống Á Châu. Bằng cách cho phép Ernest Hébrard biểu lộ được  năng lực sáng tạo và đổi mới  trong kiến ​​trúc, Việt Nam đã làm biết đến một phong trào trở lại với  sự hiện đại của nền văn minh và kiến ​​trúc truyền thống thông qua các công trình vĩ đại.

Trong các công trình này, chúng ta có thể trích dẫn Bảo tàng của trường Viễn Đông Pháp (hay là Louis Finot) mà ngày nay trở thành bảo tàng Lịch sử, toà nhà  tài chính chung (1925-1928), đã trở thành trụ sở  ngày nay của bộ ngoại giao hoặc đại học Đông Dương cũ ngày nay là Đại học Quốc gia Hà Nội.

Đối với hòn ngọc Viễn Đông (hay Sài Gòn) ở miền nam Việt Nam, một số di tích thuộc địa vẫn còn nhìn thấy ở trung tâm thành phố. Nhà thờ Đức Bà là một nhà thờ kiểu La Mã mới được thiết kế bởi kiến ​​trúc sư Jules Bourard và có bức tường bên ngoài được xây dựng bằng gạch đỏ nhập khẩu từ Pháp quốc. Tòa đô chính, nơi  mà ủy ban  của thành phố Hồ Chí Minh tọa lạc, minh họa một thiết kế hợp lý tựa như các tòa nhà công cộng của Pháp dưới thời Cộng hòa thứ ba. Nhà hát lớn Sài Gòn (Nhà hát lớn Thành phố Hồ Chí Minh), nằm cách khách sạn Caravelle nổi tiếng không xa, không che giấu phong cách lòe loẹt của nó  đến từ Đệ tam Cộng hòa Pháp.

Chỉ có những công trình kiến ​​trúc này biểu lộ cho chúng ta thấy được  sự hiện diện của Pháp ở Việt Nam vào thời điểm xa xôi vì ở Việt Nam hiện nay, ít người còn có thể nói tiếng Pháp, một thứ tiếng mà đối với người dân Việt  là  một ngôn ngữ văn học dành cho  giới thượng lưu  địa phương và chỉ được biết đến với những người lớn tuổi. Theo điều tra dân số gần đây, có hơn 70.000 người nói tiếng Pháp trong tổng số hơn 100 triệu dân. Pháp đã không  biết khai thác những ưu thế lịch sử, văn hóa và kinh tế của mình ở thời điểm mà Việt Nam thống nhất. Trong văn hóa Việt Nam,  còn có nhiều yếu tố ảnh hưởng của Pháp quốc. 

Đây là những gì chúng ta thấy được  trong lĩnh vực ngôn ngữ ở cấp độ từ điển và trong thuật hùng biện. Bất chấp sự gắn bó mật thiết của người dân  Việt  với văn hóa Pháp và tiếng Pháp  vẫn được  Việt Nam lựa chọn làm ngôn ngữ nói ở Liên Hiệp Quốc, Pháp đã không lấy lại được vai trò ưu thế của mình. Ngày nay  tiếng Pháp được thay thế ở mọi nơi bằng tiếng Anh, một  ngôn ngữ giao tiếp quốc tế và  sau đó bởi tiếng Trung Hoa. Sự nhận xét nầy không còn là ảo tưởng.

Vestiges d’une époque.

Il est surprenant de voir le Vietnam d’aujourd’hui intégrer dans son patrimoine national les réalisations françaises de l’époque coloniale. Celles-ci ne constituent pas des vestiges encombrants issus d’un conflit douloureux mais elles font désormais partie d’un héritage architectural  inaltérable et culturel que le Vietnam tente de bien préserver dans le respect de l’environnement urbain harmonieux et dans la construction d’une identité historique. Certaines ont été réalisées  directement  en miniature sur le modèle des bâtisses métropolitaines. C’est le cas de l’Opéra de Hanoï, une réplique fidèle de l’opéra Garnier de Paris. La gare de Dalat ressemble énormément à celle de Deauville-Trouville. Même la petite dame de fer rouge et blanche, l’antenne relais ou la petite tour d’Eiffel (Dalat) gardant le  trait très fort de la France est là pour rappeler sa consœur parisienne au cœur de la ville. D’autres ont surgi en plein cœur de Hanoï avec leurs façades imposantes et leur style néo-classique. C’est le cas du palais du gouverneur général de l’Indochine (construit en 1901-1905), devenu aujourd’hui le Palais présidentiel ou celui du musée des beaux-arts.

L’église Saint Joseph fréquemment visitée de nos jours et inspirée par la célèbre église Notre Dame de Paris a été érigée avec son style néo-gothique sur l’emplacement de l’ancienne pagode Báo Thiên, construite sous la dynastie des Lý et détruite en 1883 par les autorités françaises. Connu aujourd’hui sous le nom de « Cầu Long Biên », le fameux pont du gouverneur  Paul Doumer continue à tenir toujours debout malgré les bombardements acharnés (14 fois en tout ) durant les années de guerre. Il est aujourd’hui le symbole de l’unité et de l’endurance du peuple vietnamien

Il y a aussi des bâtisses conçues par l’architecte Ernest Hébrard n’ayant pas hésité de s’inspirer notamment des principes de composition des pagodes et des đình (maisons communales vietnamiennes) pour opter une architecture mixte (style indochinois) qui prend en compte à la fois les influences occidentales et asiatiques. Pour l’architecte français Christian Pédélahore de Loddis, Ernest Hébrard a réussi à faire la synthèse entre Orient et Occident en associant la modernité technique et stylistique occidentale avec les savoir-faire de construction  et les espaces de la tradition asiatique. En permettant à Ernest Hébrard de révéler ses capacités créatrices et innovatrices en architecture, le Vietnam a fait connaître dans un mouvement de retour la modernité de sa civilisation et de son architecture traditionnelle par le biais de ses œuvres grandioses.

Parmi celles-ci, on peut citer le Musée de l’Ecole Française d’Extrême-Orient ou Louis Finot qui devient aujourd’hui le Musée d’Histoire ( Bảo tàng lịch sữ), la Recette Générale des finances (1925-1928), devenue le siège du Ministère des Affaires étrangères ou l’ancienne université d’Indochine (aujourd’hui l’université nationale de Hanoi).

Quant à la perle de l’Extrême Orient (ou Saigon) dans le sud du Vietnam, quelques vestiges coloniaux sont encore visibles dans le centre ville. La cathédrale Notre Dame est une église néo-romane conçue par l’architecte Jules Bourard et dont le mur extérieur a été  construit avec des briques rouges importées de France. L’hôtel de ville abritant le comité populaire de Ho Chi Minh Ville illustre bien une conception rationnelle à l’instar des édifices publics français sous la IIIème république. L’opéra de Saigon ( Nhà hát lớn Thành phố Hồ Chí Minh ), situé non loin du fameux hôtel Caravelle ne cache pas son style flamboyant de la IIIème république.

Il n’y a que ces ouvrages architecturaux permettant de témoigner de la présence française au Vietnam à une époque lointaine car dans le Vietnam actuel, peu de gens savent parler encore le français qui est pour la plupart des Vietnamiens la langue de la littérature réservée à une élite locale et connue seulement par les gens assez âgés. D’après le recensement récent, on dénombre plus de 70.000 francophones sur une population de plus de 100 millions d’habitants. La France n’a pas su exploiter à temps ses atouts historiques, culturels et économiques au moment de la réunification. Dans la culture vietnamienne, il y a des éléments d’influence française. C’est ce qu’on a constaté dans le domaine linguistique au niveau lexicographique et dans la rhétorique. Malgré l’attachement des Vietnamiens à la culture française et le français choisi par le Vietnam à l’ONU, la France n’a pas réussi à retrouver son rôle prépondérant. Aujourd’hui le français est remplacé partout par l’anglais, la langue de communication internationale et régionale et au delà par le chinois. Le constat est sans illusions.

 

Cholon: pagode Quan Thánh

La pagode Quan Thánh (ou Chùa Quan Công) est située au cœur du quartier chinois à Saigon.

Cholon: temple Nhị Phủ

.

Version française

Miếu Nhị Phủ được tọa lạc ở số 264 đường Hải Thượng Lãn Ông trong  khu Chợ Lớn quận năm ngày nay. Chùa nầy hay thường được gọi là chùa ông Bổn mà cũng là hội quán  của người Hoa gốc Phúc Kiến. Ông Bổn chỉ là một biểu tượng, không phải là một nhân vật cụ thể. Đa số người Hoa đều quan niệm rằng « Ông Bổn »  là một vị thần bảo vệ đất đai và con người. Mỗi bang người Hoa đều có quan niệm và tín ngưỡng riêng về Ông Bổn. Như ông Bổn ở Miếu Nhị Phủ là Châu Đạt Quan, một vị quan dưới thởi nhà Nguyên. Chùa nầy tuy trãi qua ba lần sùng tu vào những năm 1805, 1901 và 1990 vẫn giữ được nét cổ kính qua phong cách kiến trúc và trang trí truyền thống của  người Phúc Kiến. Ngoài kiến trúc độc đáo, Miếu Nhị Phủ còn  được xem là ngôi chùa có lịch sử  lâu đời nhất ở thành phố Saïgon vì nó được dựng lên ở  vùng Đề Ngạn (nay là vùng Chợ Lớn)  vào khoảng đầu thế kỷ 18.

Version française

Le temple Nhi Phu est situé aujourd’hui au  numéro 264 rue Hải Thượng Lãn Ông dans le quartier de  Cholon (district 5). Il est souvent appelé  sous le nom de la pagode « Ông Bổn » mais  il est également le siège de la congrégation des gens issus de  Fujian.  Le nom  « Ông Bổn » n’est qu’un symbole mais il n’est pas concrètement un personnage physique. La plupart des Chinois ont une notion très précise sur « Ông Bổn ».  Pour eux,  Ông Bổn  est celui qui protège la terre et les gens. Chaque congrégation chinoise a son propre concept et ses propres croyances concernant Ông Bổn. Par exemple, Ông Bổn au temple Nhi Phủ est Zhou Daguan (Châu Đạt Quan), un mandarin de l’époque des Yuan. Bien que ce temple  ait subi trois rénovations en 1805, 1901 et 1990, il continue à  conserver  toujours ses caractéristiques anciennes grâce au style architectural et décoratif traditionnel  des gens de Fujian.

Outre son architecture originale, le temple est considéré comme la pagode la plus ancienne  de Saïgon, car il a été érigé dans la région de Đề Ngạn  ( devenue aujourd’hui la région de Cholon) au début du 18ème siècle.

 

Cholon: pagode Thiên Hậu

 

Chùa bà Thiên Hậu (Chợ Lớn, Saigon)
Temple Thiên Hậu (Cholon, Saïgon)

Version française

Nơi nào có người Hoa sinh sống thì nơi đó thường có chùa thờ bà Thiên Hậu. Trong tính ngưỡng của người Trung Hoa, bà được xem như là nữ thần bảo trợ của ngư phủ và người đi biển. Theo học giả Vương Hồng Sển, bà có tên là Lâm Mặc Nương, người gốc đảo Mi Châu, Bồ Dương, Phúc kiến. Lâm Mặc Nương lượm được một ngày 2 miếng « Đồng phù » (bùa vẽ trên miếng đồng) ở dưới giếng nước và tập luyện theo đó nên trở thành có phép lạ và nổi danh từ đó qua những sự việc được cứu người vượt biển và thu phục và cảm hóa các vị hung thần Thiên lý nhãn và Thuận phong nhĩ được kể lại trong dân gian.

Được toạ lạc ở tại số 710 đường Nguyễn Trãi, quận 5, Saïgon, giữa trung tâm Cho Lớn, chủa bà Thiên Hậu được xem là nơi du khách nước ngoài đến tham quan nhiều nhất mà cũng là địa điểm chụp hình của giới trẻ Việt Nam cũng như trước chợ Bến Thành, bảo tàng Mỹ Thuật hay nhà hát thành phố.

Partout où il y a la communauté chinoise, il y a aussi souvent la présence d’une pagode ou un temple dédié à la déesse Thiên Hậu. Dans la croyance populaire chinoise, elle est considérée comme la déesse protectrice des pêcheurs et des marins. Selon l’érudit Vương Hồng Sển, elle s’appelle Lâm Mặc Nương issue des îles Micho, Boyan, Fujiang. Lâm Mặc Nương a ramassé un jour deux morceaux de  » Đồng phù  » (amulettes dessinées sur des morceaux de cuivre) dans un puits. Elle a réussi à s’entrainer suivant la méthode indiquée, à s’illustrer plus tard dans le sauvetage des gens traversant la mer avec la magie et à soumettre deux génies malfaisants Thiên lý nhãn et Thuận phong nhĩ, c’est ce qu’on a raconté dans le folklore.

Situé au numéro 710 de l’avenue Nguyễn Trãi au cœur du quartier chinois Cholon, la pagode Thiên Hậu est considérée comme le site le plus visité par les touristes étrangers mais elle est aussi le lieu adoré par la jeunesse vietnamienne pour faire des photos comme le marché central, le musée des Beaux-Arts ou l’opéra de Saïgon.

Cholon , quartier chinois de Saïgon

 

saigon_cholon

Pagode Thiên Hậu

Temple Nhi Phủ

Pagode Quan Thánh

Temple Minh Hương Gia Thạnh

 

Lac de l’épée restituée (Hồ Hoàn Kiếm)

Le lac de l’épée restituée

Version vietnamienne

Étant lié étroitement à l’histoire du peuple vietnamien, ce lac situé au cœur de la capitale est un lieu incontournable pour la plupart des Hanoïens. Il est le symbole de l’indépendance nationale car c’est ici que selon la légende, le roi Lê Lợi , après avoir vaincu les Ming, a restitué à la tortue dorée la précieuse épée qu’il avait reçue auparavant. Il est le lac des souvenirs car il garde le secret des amours intenses et des douleurs nées des sentiments perdus, ce qui le rend plus romantique et plus languissant avec ses saules pleureurs, ses eaux vertes colorées par une algue, son temple Ngọc Sơn plongé souvent dans des brumes matinales. Les mots ne suffisent plus. Il n’y a que les photos qui permettent d’immortaliser ces rêveries romantiques.

  • Khả liên ngũ bách văn chương địa
  • Thượng hữu cô sơn thạch nhất quyền
  • Năm trăm năm cũ nơi văn vật
  • Còn sót hòn non non một nắm trơ

        Nguyễn Khuyến

Traducteurs: Lê Tư Thục, Nguyễn văn Tú

  • C’est ici que furent établies les traditions culturelles,
  • Il y a cinq cents ans.
  • Il ne reste qu’aujourd’hui une petite motte de terre.   

 Hồ gươm

Version vietnamienne

Được xem  có  liên quan mật thiết với lịch sữ Việtnam và  nằm ở trung tâm thủ đô, hồ nầy  là một địa điểm  mà người Hànội không thể không biết đến  được.  Hồ còn  là một biểu tượng độc lập quốc gia  vì chính ở nơi nầy, theo truyền thuyết, vua Lê Lợi  sau khi thắng được quân Minh, trả lại gươm báu cho Rùa thần mà ông đã nhận được trước đó. Với  bao nhiêu kỷ niệm vui buồn, hồ nầy   âm thầm chôn vùi  biết  bao nhiêu mối tình nồng nàn và đau đớn khi tình yêu  nó bị rạn nứt  càng làm nó   lãng mạn và tương tư với các thùy liễu rũ rượi,  màu nứớc xanh biếc  từ các rong biển, đền Ngọc Sơn chìm đắm trong sương mù buổi sáng. Dù có bao  từ diễn tả chăng nửa cũng không bằng những ảnh chụp để nó gợi đến muôn thưở những mơ mộng lãng mạn.

Temple Ngọc Sơn (Đền Ngọc Sơn)

Le temple Ngọc Sơn

au cœur du vieux quartier Hồ Hoàn kiếm

Đền Ngọc Sơn   

Version française

Ai đến thủ đô Hànội cũng có dịp đến tham quan đền Ngọc Sơn. Đền nầy nó nằm ở trên gò đất nổi của Đảo Ngọc  ở giữa Hồ Gươm hay Hồ Hoàn Kiếm. Đền nầy đã có từ lúc Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long với cái tên là  Ngọc Tượng rồi sau đó đổi tên là Ngọc Sơn dưới đời nhà Trần nhầm để tôn vinh và tưởng niệm Đức Trần Hưng Đạo và  các anh hùng liệt sỹ đã bỏ mình trong cuộc chiến chống Nguyên Mông của Hốt Tất Liệt. Ở đây còn có thấy thờ về sau  Văn Xương đế quân,  Phật A-di-đà, Lã Động Tân, Quan Vân Trường khiến thể hiện được tinh thần đoàn kết, hòa hợp tam giáo (Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo)  của người dân Việt.

Chính ở nơi nầy ở hai bên cửa của cổng chính còn có hai chữ Hán « Phúc » và « Lộc » được dựng và tạc theo mô hình do danh sĩ của thế kỷ 19 Nguyễn Văn Siêu. Chính ông trùng tu lại đền Ngọc Sơn dưới thời vua Tự Đức 18 của nhà Nguyễn  (1865)  mà chúng ta  vẫn còn giữ được nguyên vẹn công trình kiến trúc  như ngày hôm nay.  Ông có công dựng thêm tháp bút, đài nghiên, đình Trấn Ba để ngăn chặn làn sóng văn hoá, cổng Đắc Nguyệt Lâu. Có bút thì phải có nghiên mà có luôn ở trên thân nghiên  bài thơ của  ông thể hiện được tư tưởng của con người ở thời phong kiến theo sự nhận xét của nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc nhưng dù sao đi nữa cũng mang đậm màu sắc của Đạo giáo qua hai câu đối: 

Đêm trăng, ngờ bay qua hạc ấy là tiên
Cầu hào, tin niềm vui người không phải cá.

cho thấy rõ tâm tư của ông  như nhà thơ Tô Đông Pha của  thời nhà Tống là không có cuộc sống nào như ý, chỉ có thể tự mình nhìn thấu cõi đời mà sống với một tâm hồn cao thượng của một người trí thức chân chính dùng văn hóa làm trụ cột cho tinh thần dân tộc. Ông có công khôi phục lại diên mạo của Hà Nôi, có công tạo nên sự hài hoà giữa môi trường thiên nhiên của Hồ Hoàn Kiếm  và một công trình kiến trúc độc đáo  khiến người Hà Thành  có  được một không gian tâm linh, văn hoá và lịch sử có một không hai làm họ muôn đời ghi nhớ. Tài năng của ông khiến vua Tự Đức phải thốt lên: « Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán »  có nghĩa là « Tài văn của Nguyễn văn Siêu  và Cao Bát Quát thì đời Tiền Hán phải chịu » vì thời Tiền Hán rất nổi tiếng về văn, nhất là lối văn chép sử như Tư Mã Thiên, Ban Cố (hay Mạnh Kiên).

Sau cổng chính lại có ngôi tháp bút gồm có ba chữ Hán « Tả Thanh Thiên » (viết lên trời xanh) được  thấy ở trên thân. Sau đó đến cổng có bảng Rồng và bảng Hổ ở hai bên tượng trưng cho hai bảng cao quý dùng  để  nêu tên những người thi  khoa đỗ rồi lại có cổng  thứ  ba thường được gọi là  cổng đài nghiên, nơi có tường cao, có  một cửa  cuốn, có một  mái  mà trên đó  có một nghiên đá xanh được ba con cóc đội trên lưng, hình nữa trái đào  nhầm tôn vinh nền văn hiến của dân tộc Việt và  sau cùng là đến cái cầu sơn màu đỏ sẫm, được biết đến với cái tên thơ mộng « Thê Húc (cầu đón nắng ban mai) » để đi đến cổng đền Ngọc Sơn. Theo nhà văn Hoàng Đạo Thúy trong quyển sách tựa đề là: « Người và cảnh Hà Nội » thì khi mặt trời  mọc lên thì bóng ngọn bút tháp sẽ chấm vào nghiên mực. Cầu Thê Húc có hình dáng cong cong như cầu vồng xưa với màu sơn đỏ sẫm khiến làm cầu nổi bật hơn. Có người cho rằng tựa như tấm dải lụa đào vắt qua làn nước xanh thổ của Hồ Gươm. Qua cầu thì đến cổng đền Ngọc Sơn. Cổng nầy được gọi là Đắc Nguyệt Lâu gồm có hai tầng, có hai cửa sổ  tròn và có hai mái ở tầng hai.  Đấy là  tên được lấy từ câu thơ cổ: Cận thuỷ lâu đài tiên đắc nguyệt, (Ở cận bên nước nên  toà lầu đài đón được trăng trước cả). Còn có  hai bức tranh được gắn bằng mảnh sứ vỡ, bên trái là Thần Quy Lạc Thư và bên phải là Long Mã Hà Đồ ám chỉ  đến nguồn gốc văn hoá  của dân tộc Bách Việt hay người Việt cổ.

Đền Ngọc Sơn nầy được xây dựng theo mô hình chữ Tam .  Trước đền thì  có một kiến trúc có kích thước và quy mô nhỏ so với các đại đình  ở  các làng và được gọi là phương đình. Đây là đình Trấn Ba được Nguyễn Văn Siêu xây dựng trong khoảng thời gian từ năm 1865 đến 1866  trước kề bề nước nhầm ngụ ý là phương đình nầy như cột trụ đứng vững giữa các làn sóng văn hóa.  Có  người cho rằng nhầm chặn đứng các làn sóng du nhâp của thời đó .Trong đền Ngọc Sơn thì có hai khu thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và  Văn Xương đế quân (chủ quản văn chương, khoa cử). Ngoài ra còn thấy thờ cả Phật A-di-đà, Lã Động Tân, Quan Vân Trường vân vân… Còn có luôn con ngựa xích thố của Quang Vân Trường  và con rùa của Hồ Gươm. Đền Ngọc Sơn không những là một quần thể kiến trúc cổ kính có lâu đời  và mơ mộng ở phố cổ được du khách ngoại quốc  đến tham quan nhiều nhất mà cũng là nơi sĩ tử thường xuyên lui tới mỗi khi có mùa thi cử. Không nên bỏ qua nơi nầy khi có dịp đến Hà Nôi.

Le temple Ngọc Sơn au fil de la nuit

 

 

Version française

 

 

Le temple du mont de jade

Quiconque débarque à la capitale Hanoï a l’occasion de  visiter le temple Ngọc Sơn (ou le temple du mont de jade). Situé sur l’ilôt de Jade (Đảo Ngọc) au milieu du lac de l’épée restituée (ou Hồ Hoàn Kiếm), ce temple exista de l’époque du transfert de la capitale à Thăng Long par le roi Lý Thái Tổ (le fondateur de la dynastie des Lý) avec le nom qu’il porta, Ngọc Tượng. Celui-ci fut remplacé plus tard par le nom Ngọc Sơn sous la dynastie des Trần dans le but d’honorer la gloire du généralissime Trần Hưng Đạo et ses héros martyrs ayant laissé leur vie sur le champ de bataille dans la guerre contre les Mongols Kubilai Khan. C’est ici qu’on trouve plus tard  non seulement la vénération d’un personnage mythique et gardien de la littérature de nom Văn Xương  mais aussi Bouddha Amitâbha, l’alchimiste taoïste Lü Dongbin (Lã  Động Tân), ou le héros  Gwanu Unjang (Quan Vũ Vân Trường) des Trois Royaumes (Tam Quốc), ce qui montre l’esprit de solidarité et l’entente harmonieuse entre les trois religions (bouddhisme, taoïsme et confucianisme) trouvés chez le peuple vietnamien.

C’est ici qu’on trouve sur les deux côtés de l’entrée principale du temple les deux idéogrammes chinois « Phúc (Bonheur)» và « Lộc (Prospérité) » gravés selon le modèle établi par l’illustre lettré Nguyễn Văn Siêu d’époque 19ème siècle. C’est lui qui  fut chargé par l’empereur Tự Đức de superviser la restauration de ce temple en  1865, ce qui nous permet de garder encore intact aujourd’hui son état architectural.  Il eut le mérite d’y ajouter aussi  la tour de pinceau, le socle de l’encrier, le pont  de couleur pourpre Thê Húc,  le belvédère Trấn Ba  destiné à  empêcher les  flots de la culture, la porche Đắc Nguyệt Lâu. Quand on a le pinceau on doit posséder également l’encrier. De plus on trouve sur le corps de l’encrier son poème évoquant la pensée de l’homme à l’époque féodale selon l’observation du chercheur vietnamien Nguyễn Vinh Phúc mais l’empreinte de religion taoïste y est présente à travers les deux sentences suivantes:

Đêm trăng, ngờ bay qua hạc ấy là tiên
Cầu hào, tin niềm vui người không phải cá.

La nuit au clair de lune, on croit aux fées en voyant les grues s’envoler.
Sur le pont du fleuve Hào, c’est une bonne nouvelle que les hommes ne soient pas des poissons.

Cela permet d’élucider sa pensée  analogue à celle du poète chinois Su Dongpo (Tô Đông Pha) de l’époque de la dynastie des Song: Il n’y a aucune vie qui donne  satisfaction à notre souhait. C’est à nous de transpercer le monde par nous-mêmes et vivre avec l’âme noble d’un vrai intellectuel employant la culture comme le pilier de l’esprit national.

Il a le mérite d’avoir restauré le visage de la capitale Hanoï et de créer une harmonie entre l’environnement naturel du lac de l’épée restituée (Hồ Hoàn Kiếm)  et son œuvre architecturale inégalée, ce qui permet aux Hanoïens d’avoir un espace spirituel, culturel et historique unique et de garder pour toujours une profonde reconnaissance envers lui.

Son talent a fait s’exclamer l’empereur Tự Đức: « Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán ». Cela  signifie que les styles littéraires de Nguyễn Văn Siêu et Cao Bát Quát sont reconnus volontiers par la dynastie des Han car celle-ci s’est distinguée par son art littéraire, en particulier celui d’écrire l’histoire comme Sima Qian (Tư Mã Thiên), Pan Gu (Ban Cố hay M ạnh Kiên).

Derrière le portail principal se trouve la tour du pinceau ayant sur son corps  les trois idéogrammes chinois  « Tả Thanh Thiên (Ecrire sur l’azur du ciel). Puis le portail suivant  est flanqué de chaque côté un bas-relief, l’un portant l’image du tigre et l’autre celle du dragon pour faire allusion aux deux  tableaux destinés à relever  les noms des candidats ayant réussit aux concours mandarinaux. On se retrouve ensuite avec le troisième portail. C’est ici qu’on trouve le socle vert de l’encrier porté par les trois crapauds sur leur dos au sommet de ce  portail et en forme d’une demi-poire, une porte roulante, un mur assez haut, le tout étant destiné à  honorer les belles traditions de la culture vietnamienne. Enfin on arrive au pont célèbre de couleur pourpre connu sous le nom romantique « Thê Húc (cầu đón nắng ban mai ou pont recevant des lueurs matinales) » pour  donner accès au porche du temple Ngọc Sơn. D’après le livre intitulé « Người và cảnh Hà Nội (L’homme et les paysages de Hanoï)  de l’écrivain Hoàng Đạo Thúy, quand le soleil se lève, l’ombre de la tour de pinceau va pointer sur le creux de l’encrier. Le pont Thê Húc  a la forme incurvée  comparable à un vieil  arc-en-ciel  avec une peinture rouge foncé  le rendant plus embellissant.

Certains prétendent que ce pont ressemble à une bande de tissu en soie traversant par-dessus les flots d’un bleu turquoise du lac de l’épée restituée. En prenant ce pont, on arrive devant le porche du temple. Connu sous le nom Đắc Nguyệt Lâu, celui-ci  a deux fenêtres rondes, l’une se trouvant sur la face devant et l’autre sur la face derrière et deux étages dont le deuxième  comporte deux toits. Son nom est emprunté  dans le vers d’un ancien poème : Cận thuỷ lâu đài tiên đắc nguyệt, (Ở cận bên nước nên  toà lầu đài đón được trăng trước cả). Étant situé à proximité de l’eau, le bâtiment reçoit en premier la lumière du clair de lune. De plus il y a deux bas-reliefs en céramique relatant la culture de Bai Yue dont font partie des Proto-Vietnamiens. 

Le temple Ngọc Sơn a été construit selon l’idéogramme chinois  Tam (Trois). C’est pourquoi on le voit réparti en trois parties. La première partie est occupée par un édifice  architectural de petite taille connu sous le nom «phương đình ou belvédère » si l’on compare avec la maison communale des villages.  C’est le pavillon Trấn Ba que le lettré  Nguyễn Văn Siêu a construit  à proximité de l’eau du lac durant la période  1865-1866  et a considéré comme le pilier solide au milieu des flots de culture. Quant aux deux parties restantes, on les retrouve dans le temple lui-même.  Elles sont destinées à vénérer  le généralissime Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn et l’empereur Văn Xương. Celui-ci est le patron de la littérature  et des concours.  En outre, on voit aussi les autels dédiés au bouddha Amitâbha,  à l’illustre alchimiste taoïste Lã Động Tân (ou Lü Dongbin),  au général de l’époque des Trois Royaumes, Gwanu Unjang (Quan Vũ Vân Trường) etc… Même son cheval de bataille légendaire (Xích Thố)  y figure  aussi ainsi que la tortue géante du lac de l’épée restituée. 

Le temple du mont de jade  (Ngọc Sơn) n’est pas non seulement un complexe architectural très ancien et très pittoresque du vieux quartier de Hanoï que la plupart des touristes étrangers  fréquentent  le plus mais aussi le lieu où les candidats vont venir souvent lors de la saison des examens.  Ce temple fait partie de la liste des sites à visiter et à ne pas manquer si on a l’occasion de venir à la capitale Hanoï.

 

Buôn Ma Thuộc (sur les Hauts Plateaux)

English version

Etant connue pour la beauté de la nature caractérisée par ses cascades et ses lacs, Buôn Ma Thuộc est la capitale de la province Dak Lak sur les hauts plateaux du centre. Le développement du  tourisme est axé essentiellement sur la balade à dos d’éléphant, la visite des villages des minorités ethniques et des cascades. Autrefois, c’est le pays des Êdê et des Bahnar. Elle se distingue des autres régions par ses plantations de café, des hévéas, du poivre,  de la noix de cajou et des durions.

Pays des minorités montagnardes