Les bronzes de Sanxingdui (Part 2)

Version vietnamienne (2ème partie)

English version (Part 2) 


D’autres traits caractéristiques trouvés à Sanxingdui n’ont pas d’équivalent dans l’art des Shang. C’est le cas de la décoration végétale illustrée par le martelage des feuilles en or ou en cuivre et par la forme d’arbres ou de boutons de fleurs. Une autre source d’inspiration majeure se retrouve dans le thème de l’oiseau. Qu’il s’agisse d’hommes ou d’animaux, l’artiste de Sanxingdui réussit à leur donner avec agilité non seulement une stylisation assez poussée mais aussi des formes d’expression très naturalistes. Ce n’est le cas de l’art des Shang où l’artiste tend à transformer l’aspect ou la forme de l’animal par une stylisation assez excessive, loin de la réalité


 

 

Repères chronologiques

 

Vers 1900-1500: culture d’Erlitou. Début de l’âge du bronze en Chine. Période des Xia? (Nhà Hạ)

Vers 1500-1300: phase Erligang de la dynastie des Shang (Nhà Thương)

Vers 1300-1050: phase Anyang de la dynastie des Shang (Nhà Ân)

Vers 1200 av. J.C: Fosses n°1 et n°2 de Sanxingdui. Sichuan

Vers 1200-1000 av. J.C: phase d’occupation du site de Jinsha, Chengdu, Sichuan.

Vers 1050-256 av. J.C.: dynastie des Zhou (Nhà Châu).

316 av. J.C.: conquête du Sichuan par les armées de la principauté de Qin (Nhà Tần).


Trouvailles archéologiques de la dynastie des Shang

 Musée Cernusci

Lors de la fouille des fosses n°1 et n°2, on s’aperçoit que malgré la période contemporaine des Shang, la tradition de Sanxingdui diffère complètement de celle de ces derniers car elle présente plusieurs traits spécifiques et originaux. D’abord les élites de Sanxingdui n’ont pas utilisé les vases zun de la même manière que les Shang. Elles s’en ont servi pour stocker certains biens de prestige et de valeur comme les cauris marins, une sorte de monnaie d’échange en raison de leur rareté.                 

C’est ce qu’on a découvert grâce à la statue d’un personnage portant une vase zun trouvée dans la fosse n°2. Ce n’est pas le cas des Shang dont les vases zun aux formes diverses possèdent chacune un rôle très précis afin d’honorer le culte de leurs ancêtres: servir et boire du vin, présenter les mets, cuire les offrandes de viande etc. Puis la représentation de la figure humaine fait partie de l’art de Sanxingdui. Le nombre de têtes et de masques est impressionnant et ne peut pas passer inaperçu pour les visiteurs et les archéologues lors de la première découverte de cet art. Par contre, dans l’art des Shang, l’homme n’est pratiquement pas représenté.

Contrairement aux bronziers des Shang qui étaient connus pour la fabrication des vases rituels dont certaines pouvaient atteindre 1 mètre de hauteur, ceux de Sanxingdui ont préféré les sculptures souvent audacieuses à la demande des élites locales. Ils ont été obligés d’adapter les techniques importées et de créer de nouveaux procédés, en particulier la soudure pour leurs propres réalisations.

En examinant les objets trouvés dans les fosses de Sanxingdui, les archéologues ont été amenés à la conclusion que les traditions de Sichuan et d’Anyang s’opposent nettement dans leurs pratiques sacrificielles respectives. Contrairement aux dirigeants d’Anyang honorant seulement le culte des ancêtres, les élites de Sanxingdui vénéraient à la fois les ancêtres et le soleil. Le fait de découvrir plus tard à Jinsha considéré par les archéologues comme le site assumant la continuité de la culture de Sanxingdui, le regroupement de quatre oiseaux entourant le soleil sur un ornement en or ou la statue debout en bronze ayant sa coiffe en forme du soleil, atteste incontestablement le culte du soleil. Celui-ci était une pratique très courante dans les anciennes civilisations du monde.

Selon le chercheur chinois Shi Jingsong, toutes les trouvailles de la fosse n°2 peuvent se répartir en deux groupes: le premier ayant trait à des objets dont les motifs sont similaires à ceux trouvés sur les récipients en bronze dans la plaine centrale des Shang, le second identifié par des figurines ou par des motifs décoratifs relatant le soleil. Pour lui, il n’y a aucun doute sur le partage du pouvoir entre le roi et le prêtre et la coexistence des temples religieux et ancestraux dans la civilisation de Sanxingdui.

Il s’agit probablement d’un royaume civilisé investi de pouvoirs théocratiques, ce qui permet de supposer un système religieux et social à échelons multiples à travers ses vestiges découverts.

[Retour]

[Return MUSEUM]

English version (2nd part)

Other characteristic features found in Sanxingdui have no equivalent in Shang art. This is the case of plant decoration illustrated by the hammering of leaves in gold or copper and by the shape of trees or flower buds. Another major source of inspiration is found in the theme of the bird. Whether it is humans or animals, the artist of Sanxingdui succeeds in giving them with agility not only a fairly advanced stylization but also very naturalistic forms of expression. This is not the case in Shang art where the artist tends to transform the appearance or form of the animal by a rather excessive stylization, far from reality.

During the excavation of Pits 1 and 2, it was discovered that, despite the contemporary period of the Shang, the Sanxingdui tradition differs completely from that of the Shang, as it presents several specific and original features. First, the elites of Sanxingdui did not use zun vessels in the same way as the Shang. They used them to store certain prestigious and valuable goods, such as sea cowries, a kind of currency due to their rarity.
This was discovered thanks to the statue of a figure carrying a zun vessel found in Pit 2. This is not the case for the Shang, whose zun vessels of various shapes each had a very specific role to honor the cult of their ancestors: serving and drinking wine, presenting food, cooking meat offerings, etc. Moreover, the representation of the human figure is part of the art of Sanxingdui. The number of heads and masks is impressive and cannot go unnoticed by visitors and archaeologists when this art is first discovered. On the other hand, in Shang art, humans are practically not represented.

Unlike Shang bronze workers, who were known for crafting ritual vessels, some of which could reach a height of one meter, those of Sanxingdui preferred the often bold sculptures requested by local elites. They were forced to adapt imported techniques and develop new processes, particularly welding, for their own creations.

By examining the objects found in the Sanxingdui pits, archaeologists concluded that the traditions of Sichuan and Anyang contrasted sharply in their respective sacrificial practices. Unlike the Anyang rulers, who honored only ancestor worship, the Sanxingdui elites venerated both ancestors and the sun. The later discovery at Jinsha, considered by archaeologists to be the site that represents the continuity of the Sanxingdui culture, of the grouping of four birds surrounding the sun on a gold ornament, or of the standing bronze statue with its headdress in the shape of the sun, undeniably attests to sun worship. This was a very common practice in the ancient civilizations of the world.

According to Chinese researcher Shi Jingsong, all the finds from Pit No. 2 can be divided into two groups: the first relating to objects whose motifs are similar to those found on bronze vessels in the central plain of the Shang, the second identified by figurines or decorative motifs depicting the sun. For him, there is no doubt about the sharing of power between king and priest and the coexistence of religious and ancestral temples in the Sanxingdui civilization. It was probably a civilized kingdom invested with theocratic powers, which allows us to suppose a multi-level religious and social system through its discovered remains.

Chronological benchmarks

Around 1900-1500: Erlitou culture. Beginning of the Bronze Age in China. Xia period? (Nhà Hạ)

Around 1500-1300: Erligang phase of the Shang dynasty (Nhà Thương)

Around 1300-1050: Anyang phase of the Shang dynasty (Nhà Ân)

Around 1200 BC. B.C.: Pits No. 1 and No. 2 of Sanxingdui. Sichuan

Around 1200-1000 BC. J.C: occupation phase of the site of Jinsha, Chengdu, Sichuan.

Around 1050-256 BC. BC: Zhou dynasty (Nhà Châu).

316 BC 1500 BC: conquest of Sichuan by the armies of the principality of Qin (Nhà Tần).

Références bibliographiques

Les bronzes du Sichuan. Chine

Connaissance des Arts

Alain Thote.

Paris Juillet 2017

[Return]

[Return MUSEUM]

Bông Súng (Nénuphar)

 

Dans le jardin de Claude Monet (Givenchy)

Version française
Version anglaise

Được xem là biểu tương sự  tinh khiết và yên tĩnh, cây bông súng thường  mọc hoang dã trong bùn. Ở nam bộ Vietnam,  người ta thường ăn mắm kho với bông súng hay  dùng nó để làm món  gỏi  tuyệt vời. Để  bảo vệ một cách hữu hiệu các bộ phận  tựa như nhụy và nhị,  cây bông súng có  được một cơ chế  hóa lý rất tinh vi khi  trời về đêm lạnh rét hay  có độ ẩm cao.  Nhờ có nước  lan tràn vào  các không bào và  có sự biến  đổi của ánh sáng  và nhiệt độ khiến có sự thay đổi ở nơi có  tập trung nhiều ion canxi của các tế bào và dẩn đến việc tạo ra áp suất trên các mặt trong và ngoài của các tràng hoa.  Vì vậy các cánh hoa hay bị méo mó  nhưng không vì thế mà  bị hư hỏng. Chiều  tối lại,  cây bông súng dựng đứng lên các cánh hoa để che chở các bộ phận sinh sản bằng cách làm phòng ra các tế bào của nó. (sự trương nước) Còn sáng lại nó buông lơi  xuống các cánh hoa và làm co lại các tế bào  (sự co lại gọi  là plasmolyse) bằng cách làm bốc hơi nước và giảm đi áp xuất trên các vách tế bào. Tùy thuộc  dáng vóc mà hoa súng có nhiều cánh hoa hay không để nó có thể  dễ dàng đóng khép và bảo trợ  các bộ phận sinh sản.  Đối với các nhà nghiên cứu khoa học, đây không những là chuyện  thăng bằng mà còn là một phát minh tuyệt vời được  tìm thấy  ở các thực vật trước khi con người khám phá ra được các máy bơm nước và cái kích.

Etant le symbole de paix et de pureté, le nénuphar est habitué à pousser sauvagement dans la boue. Au Vietnam, on s’en sert dans le Sud soit pour accompagner la soupe aux poissons (mắm kho) soit pour faire une salade  délicieuse. Le nénuphar possède un mécanisme physique et chimique  très ingénieux permettant de protéger ses organes reproductifs  (étamines, pistils) contre le froid et l’humidité nocturne. Grâce à la pénétration de l’eau dans les vacuoles et aux variations de la lumière et de la température modifiant ainsi la concentration en ions calcium des cellules,  cela provoque la pression sur les faces interne et externe de ses corolles et facilite  la déformation de ses  pétales  sans que ces derniers soient abîmés.  Le soir, le nénuphar  redresse  ses pétales pour protéger ses appareils reproducteurs  par le gonflement de ses cellules (turgescence)   tandis que le matin il les fait retomber  par le dégonflement de ces  mêmes cellules  (plasmolyse) en diminuant la pression sur leurs parois cellulaires  et en perdant de l’eau par évaporation. En fonction de la taille, la fleur du nénuphar doit avoir un certain nombre de pétales  afin de mieux  se refermer et protéger ses organes reproductifs.  Pour les chercheurs, c’est non seulement une affaire d’équilibre mais aussi une invention géniale chez les plantes avant la découverte des pompes hydrauliques  et des vérins par les hommes. 

Galerie des photos

Lis d’eau

Tableau nénuphar de Monet

Version anglaise

Being the symbol of  peace and purity, the water lily is accustomed to grown savagely in the mud. In Vietnam, it is used either by accompagnying the fish soup in the South region or by making a delicious salad. The water lily has a chemical and physical mechanism very ingeniuos allowing to protect its reproductive organs (stamen, pistil)  against the cold and  night humidity. Thanks the water penetration in vacuoles and  variations in light and temperature, thereby altering  calcium ion concentration in cells, it causes  the pressure on the internal and external faces of its corollas  and facilitates  the deformation of its petals without  the latter being damaged. At night, the water lily adjustes its petals for protecting its  reproductive system by the swelling of its cells (turgor) while in the morning, its petals fall down by the  deflation of these same cells thanks to the  pressure reduction applied on their cell walls (plasmolysis)  and the loss of water by evaporation.

Depending on size, the flower of water lily must have a certain  number of petals for being closed again and protecting its reproductive organs. For scientists, it is not only the balancing act but also an ingenious invention in plants before the discovery of hydraulic pumps and cylinders by men.

 

[Return FLEURS DU MONDE]

 

Một thoáng trở về với Luông Phạ Băng (Luang Pra Bang)

Những khoảnh khắc Luông Phạ Băng

 

Từ thế kỷ 14 đến 1946, Luông Pra Băng hay Mường Luông là kinh đô của một vương quốc đuợc mang tên là Lan Xang hay là vuơng quốc triệu voi. Luang Pra Bang được UNESCO công nhận là một di sản thế giới (văn hóa). Nằm bên cạnh sông huyèn thoại  Cửu Long, Luông Phạ Băng cách xa Viên Chăn (Vientiane) 425 cây số về phía Bắc. 

Depuis le 14 ème siècle jusqu’à l’année 1946, Luong Pra Bang fut la capitale du royaume de Lan Xang (ou royaume du million d’éléphants). Luang Pra Bang est reconnue par UNESCO comme le patrimoine culturel de l’humanité. Longeant le  fleuve mythique Mékong, elle est  située à 425 km de  la capitale Vientiane  dans la direction nord.

Nguyễn An Ninh (Version anglaise)

Version vietnamienne
Version française

Sống sao không thẹn với đời
Chết sao để tránh ngàn lời mĩa mai
Sống vỉ thế hệ tương lai
Chết vì đất nước tù đày không than

A great homage to Nguyễn An Ninh

through my  Six-Eight verses:

To live in such a way one has no shame of living
To die in such a way to avoid thousands of ironies
Is to live for future generations
And to die for one’s country without complaining days in imprisonment.

Facing Nguyễn An Ninh’s flat refusal to repent and the alarming situation caused by the imminent landing of the Japanese army in Indochina in 1943, his jailer, the warden of the Poulo Condor prison, Mr. Tisseyre decided to eliminate this burdensome prisoner who was sick and potentially dangerous in his view because the Japanese could later use him as a pawn on the Indochina chessboard.

Nguyễn An Ninh since his coming back to Vietnam, became not only, as time went by, an idol for the Vietnamese youth but also one of the most respected leaders among Vietnamese intellectuals in Cochinchina. Even during his imprisonment in Poulo Condor, he was the only one to have received the esteem of all political prisoners no matter they are communists, nationalists, Trotskists or other etc.  and to have brought peace in case of stormy debates or virulent altercations between prisoners.

How come a young man like Nguyễn An Ninh arrived at becoming a « bête noire  » of the colonial authorities? However at the beginning he did not have intention to resort to violence like the Nguyễn Thái Học nationalists or the Vietnamese communists. He supported himself with his pen and the newspaper « La cloche fêlée » whose director was a longtime friend of his, a French of the name Eugene de Jean de la Bâtie. He made a mistake to have dared demand with fanfare for his compatriots the freedom of expression and fundamental rights which he had fully enjoyed during his years of study at the Sorbonne in Paris, and which were lacking then in Vietnam, by using his caustic and careless critics, and succinct analyses in his newspaper. He did not even conceal his sympathy that his has always had for the leader Phan Chu Trinh, a friend of his father Nguyễn An Khương. He was the translator of Jean Jacques Rousseau‘s « Social Contract ». By means of seminars and public debates, he succeeded in provoking a collective awareness among Vietnamese intellectuals of the 1920’s and 1940’s who up until then were asleep in a seemingly happiness, freedom and justice created by the colonial authorities.

Those young intellectuals only bothered with universally human subjects such as love, family, sadness of separation etc… Although they are often alongside with the rural area, they never asked any questions about what was going on there. Not that they ignore the poverty outside urban areas but they never lived there. Even though they were not issue of large estate bourgeoisie or sons of collaborators, they nourished the dream of becoming government officials.
From his return to Vietnam in 1922, instead of going into this traditional mould like others of his age, his generation, Nguyen An Ninh, this young man of 22 years of age, with rounded hairdo, law graduate from the Sorbonne, made his way in the opposite direction by advocating the method of the Indian poet Tagore. The latter thought it would be possible to obtain independence without bloodshed from the British by means of straightening up to the intellectual level of the Indian people. That was why with the help of some of his friends he did not hesitate to launch a series of debates on themes such as  » A culture for the Annamites », « The ideal of the Annamite youth » etc…, which provoked from then on visible swirls in a harbor of peace established by the Governor of Cochinchina, Mr. Cognacq.

He was the instigators of several petitions claiming not only freedom of expression but also freedom of education and freedom of the press for the natives. It was a significant worry for this governor because through his tonic speeches, Nguyễn An Ninh arrived at mobilizing and electrifying the intellectual youth of South Vietnam, casting doubts among the Vietnamese intellectuals having at the time total confidence in the French education system in Indochina. Cognacq was compelled to react because each speech animated by Nguyễn An Ninh provided the occasion to mobilize more and more people. Cognacq did not hesitate to remind him several times that there was always room at the prison of Poulo Condor for recalcitrant people like him. On the other hand, he would have access to an important post in the colonial administration if he gave up this suicidal adventure.

Despite this reminder full of threat, Nguyen An Ninh continued persevering in this political involvement, which compelled the colonial authorities to imprison him several times. His first incarceration was shortened thanks to the strong intervention of many French personalities of that time, especially that of Romain Rolland, Nobel Price winner in literature in 1915, before the colonial authorities. From then on, Nguyễn An Ninh became not only a regular visitor of the prison but a man to bring down for the colonial authorities. Having been aware of the impossibility of claiming before the colonial authorities the fundamental rights by peaceful means, he soon undertook secretly the armed struggle. He became thus the leader of the party « Hope of the Youth ( Ðảng Thanh Niên Cao Vọng ) being successful in having more than 7000 adherents during its existence and aiming at redistributing land to poor peasants in 1927.

His renown allowed him to make friend with the leaders of other political movements, especially with trotskist Tạ Thu Thâu, journalist Hồ Hữu Tường, young attorney Trịnh Ðình Thảo, communist Nguyễn Thị Minh Khai etc. He was contacted several times by the communists and the Nguyen Thai Hoc nationalists and asked to join their movements but he took the pretext of being closely watched by the colonial authorities to refuse their proposals with courtesy. Closer to the communists in his ideas and struggle, he knew however how to make a difference. He never concealed that he had in himself the ideas of Jean Jacques Rousseau and Diderot. He loved to be above the melees and political rivalries and considered himself above all a Vietnamese intellectual serving his country.

Taking advantage of the political confusion taking place in France by the dissolution of the French communist party by president Edouard Daladier ( 25 September 1939 ) and of the lack of support from the French intellectuals that Nguyễn An Ninh had up until then, it did not take the colonial authorities long to put their hand on Nguyễn An Ninh and expeditiously sent him to the Poulo Condor prison by charging him with being the troublemaker and instigator of peasant revolts.
Very few Vietnamese dared talk about this prison without emotion. It is all about an archipelago of 14 small islands located at 180km from Vũng Tàu (ex Cap Saint Jacques) and accessible after 12 hours by boat. By the end of 13th century, Marco Polo noted that island Côn Sơn, the greatest of all 14 islands was uninhabited. The Poulo Condor archipelago was the object of secular dispute between the Vietnamese, Khmers and Malays. It was discovered one beautiful morning, 28 November 1861, by the lieutenant of the French Royal Navy of Napoleon III, Lespes Sebastien Nicolas Joachim. It became thus a French possession during colonial time and stood out among famous prisons.

But Nguyễn An Ninh remained the only one capable of wiping out all stormy discussions between protagonists. To relax in jail, Ninh composed many poems but the most famous remains the following found in his pocket at his interment by his prison inmates:

Sống và chết

Sống mà vô dụng sống làm chi
Sống chẳng lương tâm, sống ích gì
Sống trái đạo người, người thêm tủi
Sống quên ơn nước , nước càng khi
Sống tai như điếc, lòng đâm thẹn
Sống mắt dường đui dạ thấy kỳ
Sống sao nên phải cho nên sống
Sống để muôn đời, sử tạc ghi…
….. ….
Chết được dựng hình tên chẳng mục
Chết đưa vào sử chữ không phai.
Chết đó, rõ ràng danh sống mãi
Chết đây, chỉ chết cái hình hài
Chết vì Tổ Quốc, đời khen ngợi
Chết cho hậu thế, đẹp tương lai

Living and Dying

Living useless is not worth living
Living without a conscience is living useless
Living counter to humanism is pitiable
Living forgetting one’s country is despicable.
Living as if deaf is shameful
Living as if blind is embarrassing
Living the way one should would one live
Living as such that history engraves memory

Dying statue erected in one’s name undecayed
Dying legacy entering history unfaded
Dying that way is like living for ever
Dying as such is only physical dying
Dying for one’s country is praised at all time
Dying for posterity is a beautiful dying

His death could have gone unnoticed had there not been the check of prison guard Rognon who by coincidence verified the bag containing the bodies of prisoners dead the day before ( 14 August 1943 ) and scheduled to be sent to the morgue. Taken by pity and admiration he always had for Nguyễn An Ninh, he decided to alert Mr. Tisseyre, the director of the prison and asked him for permission to bury Nguyễn An Ninh in a coffin. But he did not know that Nguyễn An Ninh was liquidated on order of Tisseyre with a shot of arsenic. That was why Tisseyre, embarrassed by that suggestion, did not hesitate to remind Rognon that he was beginning to be interested in businesses that have nothing to do with him. Alerted by the death of her friend Nguyen An Ninh she had known at the time when she was a young student at the Sorbonne, the wife of the director of the electric company at Poulo Condor, Mme Charlotte Printanière insisted at length with Tisseyre that Nguyễn An Ninh be buried with dignity. Facing Tisseyre’s inhuman treatment, she was compelled to to tell him with irritation:

A person like him deserves being respected when it comes to a Vietnamese patriot. You would lose nothing if you bury him the way it should be. Besides, you will be appreciated for your your generosity. For what reasons do you continue to stop showing your admiration toward this true revolutionary? Who dare say in the future you will always be the winner? »

In spite of this remark, Tisseyre remained impassible. He left the body of Nguyen An Ninh in a pitiful condition with his clothes in tatters. He was buried the next day at Hàng Keo by his prison inmates. As for Mme Charlotte Printaniere, she was recalled to Saigon a few days later and was forbidden to return to the island. Her remark became a prophecy a few years later. Tisseyre was imprisoned in his turn by the Japanese army and was sentenced to 20 years in prison by General De Gaulle ‘s court martial for having surrendered without conditions to the Japanese Army.

By means of Tisseyre, the colonial authorities succeeded in killing Nguyễn An Ninh. But they forgot the phrase that Nguyễn An Ninh had recalled well in his poem « Living and Dying« . Dying here is just the physical death of the body. Actually, Ninh has gone but there are many other Ninhs who came to take his place and the torch of the struggle. Since the beginning of time, history has taught us that it is always possible to eliminate all the instigators of revolts but it is impossible to eradicate their ideas, especially those having to do with the defense of a just and legitimate cause.

Nguyễn An Ninh is not only the person having a notable influence on the intellectuals of South Vietnam in the 1920’s and 1940’s but also a person capable of waking up a generation. It was the opinion of historian Daniel Hémery in his work « Saigon 1925-1945 » published in 1972 in Paris.

Nguyễn An Ninh was not only a Vietnamese patriot but also a valiant militant revolutionary who fought for the Country and the People to the last breath of his life. It was the terms used by Phạm văn Ðồng to pay homage to Nguyễn An Ninh in the Liberated Saigon newspaper issue 14 August 1993, no. 571. When he was alive Ngô Ðình Diệm, the ex-president of the Republic of Vietnam, did not even forget what Nguyen An Ninh had done to the country by giving to Admiral Courbet street near the Bến Thành central market the name Nguyễn An Ninh and restoring his tomb in Poulo Condor island.

It is no surprise to see Nguyễn An Ninh succeed in receiving still after so many decades unanimous approvals from all Vietnamese political tendencies. He has always been considered by his compatriots as a Vietnamese intellectual in his service to his country. He had the possibility to become rich with his degree at that time, to put himself on the side of the strongest in the difficult moments of the Vietnam history but he preferred to choose another way, the one to share the misfortune with his people and to engage a political combat in the pursuit of freedom.

How many Vietnamese politicians still have this ideal like Nguyễn An Ninh on this land of legends?

Nguyễn An Ninh (Version française)

 

Vietnamese version

English version

Sống sao không thẹn với đời
Chết sao để tránh ngàn lời mĩa mai
Sống vỉ thế hệ tương lai
Chết vì đất nước tù đày không than

Hommage à Nguyễn An Ninh à travers mes quatre vers en Six-Huit

Comment faut-il vivre pour n’éprouver aucune honte avec cette vie?
Comment faut-il mourir pour ne pas recevoir des milliers de blâmes?
Vivre pour les futures générations
Mourir pour la patrie sans se plaindre un jour dans la prison.

Devant le refus catégorique de Nguyễn An Ninh de se repentir et devant la situation alarmante provoquée par le débarquement imminent de l’armée japonaise en Indochine en 1943, son geôlier, le directeur du bagne de Poulo Condor, Mr Tisseyre décida d’éliminer ce prisonnier encombrant, malade et potentiellement dangereux à ses yeux car les Japonais pourraient s’en servir plus tard comme un pion sur l’échiquier indochinois.

Nguyễn  An Ninh, depuis son retour au Viêt-Nam, devint non seulement. au fil des années, l’idole de la jeunesse vietnamienne mais aussi l’un des leaders les plus écoutés et les plus respectés auprès des intellectuels vietnamiens en Cochinchine. Même durant son emprisonnement au bagne de Poulo Condor, il fut le seul à recevoir l’estime de tous les prisonniers politiques que ce soit communistes, nationalistes, trotskistes ou autres etc. et à ramener la paix en cas de débats houleux ou d’altercations.

Comment un jeune homme comme Nguyễn An Ninh arriva-t-il à devenir la bête noire des autorités coloniales? Pourtant il n’avait pas l’intention de recourir au début à la violence comme les nationalistes de Nguyễn Thái Học ou les communistes. Il ne vivait que de sa plume avec le journal intitulé « La Cloche Fêlée » dont le directeur était son ami de longue date, un Français de nom Eugène Dejean de la Bâtie. Il avait le tort d’oser revendiquer à cor et à cri pour ses compatriotes la liberté d’expression et les droits élémentaires dont il avait bénéficié pleinement durant ses années d’études à la Sorbonne à Paris et qui faisaient défaut jusqu’alors au Viêt-Nam par ses critiques acerbes et sans ménagement et ses analyses succinctes dans son journal. Il ne cachait pas non plus la sympathie qu’il avait eue toujours pour le leader Phan Chu Trinh, un ami de longue date de son père Nguyễn An Khương. Il était aussi l’auteur de la traduction en vietnamien de l’ouvrage « Le contrat social » de Jean Jacques Rousseau. Par le biais des séminaires et des débats publiques, il réussit à provoquer une prise de conscience collective de tous les jeunes intellectuels vietnamiens des années 1920-1940 qui étaient jusque-là endormis au Sud-Vietnam par un semblant de bonheur, de liberté et de justice crée par les autorités coloniales. Ces jeunes intellectuels ne se préoccupaient jusqu’alors que des sujets universellement humains: amour, famille, tristesse des séparations etc.

Bien qu’ils côtoyassent souvent le milieu rural, ils ne se posaient jamais des questions sur tout ce qui touchait de près ou de loin à ce dernier. Ils n’ignoraient rien de la pauvreté périurbaine mais sans jamais y vivre. Bien qu’ils ne fussent pas issus de la bourgeoisie latifundiaire ou des fils des collaborateurs, ils nourrissaient tous leur rêve de devenir fonctionnaires. De son retour au Viêt-Nam en 1922, au lieu d’être rentré dans ce moule traditionnel comme les autres jeunes de son âge, de sa génération, Nguyễn An Ninh, ce jeune homme de 22 ans, à la chevelure bombée, licencié en droit à la Sorbonne, fit le chemin inverse en prônant la méthode du poète indien Tagore. Celui-ci pensa qu’il était possible d’obtenir l’indépendance sans effusion de sang auprès des Anglais par le biais de redressement du niveau intellectuel du peuple indien.  C’était pour cela qu’il n’hésita pas à donner avec l’aide de quelques amis une série de débats sur les thèmes tels que  » Une culture pour les Annamites », « L’idéal de la jeunesse Annamite » etc… , ce qui provoqua dès lors des remous visibles dans un havre de paix établi par le gouverneur de la Cochinchine, Mr Cognacq. Il fut l’instigateur de plusieurs pétitions réclamant non seulement la liberté d’expression mais aussi la liberté d’enseignement et la liberté de presse pour les autochtones.

C’était un souci non négligeable pour ce gouverneur car à travers ses discours toniques, Nguyễn An Ninh arriva à mobiliser et à électriser la jeunesse intellectuelle du Sud Viet-Nam, à semer un doute auprès des intellectuels vietnamiens ayant une confiance totale jusque là dans le système d’enseignement français en Indochine. Cognacq fut obligé de réagir car chaque discours animé par Nguyễn An Ninh donna l’occasion de mobiliser de plus en plus des gens. Cognacq n’hésita pas à lui rappeler plusieurs fois qu’il y avait encore de la place au bagne de Poulo Condor pour les gens récalcitrants comme lui. Par contre, il pourrait accéder à un poste important dans l’administration coloniale s’il renonçait à cette aventure suicidaire. Malgré ce rappel empreint de menaces, Nguyễn An Ninh continua à persévérer dans cet engagement politique, ce qui obligea les autorités coloniales de l’emprisonner à maintes reprises. Son premier internement fut écourté grâce à l’intervention énergique de plusieurs personnalités françaises de cette époque, en particulier celle de Romain Rolland, prix Nobel de la littérature en 1915 auprès des autorités coloniales.

Dès lors, Nguyễn An Ninh devint non seulement un habitué de la prison mais un homme à abattre pour les autorités coloniales. Ayant pris conscience de l’impossibilité de réclamer auprès des autorités coloniales les droits élémentaires par des voies pacifiques, il ne tarda pas à s’engager secrètement dans une lutte armée. Il devint ainsi le leader du parti « Espoirs de la Jeunesse ( Ðảng Thanh Niên Cao Vọng ) » ayant réussi à avoir plus de 7000 adhérents durant son existence et ayant pour but de redistribuer la terre aux pauvres paysans en 1927.

Sa renommée lui permit de se lier d’amitié avec les jeunes dirigeants des autres mouvements politiques, en particulier avec le trotskiste Tạ Thu Thâu, le journaliste Hồ Hữu Tường, le jeune avocat Trịnh Ðịnh Thảo, la jeune communiste Nguyễn Thị Minh Khai etc.

Il était contacté à maintes reprises par les communistes et par les nationalistes de Nguyên Thái Học pour lui demander de rejoindre leur mouvement mais il prit le prétexte d’être surveillé étroitement par les autorités coloniales pour refuser avec courtoisie leur proposition. Plus proche des communistes dans les idées et la lutte, il sut montrer pourtant sa différence. Il ne cacha jamais qu’il avait toujours en lui les idées de Jean Jacques Rousseau et de Diderot. Il aima à être au dessus de toutes les mêlées et des rivalités politiques et se considéra avant tout comme un intellectuel vietnamien au service de la nation.

Profitant de la confusion politique provoquée en France par la dissolution du parti communiste français par le président Edouard Daladier (25 Septembre 1939) et du manque de soutien que Nguyễn An Ninh avait eu jusque-là auprès des intellectuels français, les autorités coloniales ne tardèrent pas à mettre la main sur Nguyễn An Ninh et l’envoyer expéditivement au bagne de Poulo Condor en le taxant d’être le fauteur de troubles et l’instigateur des révoltes paysannes.

Très peu de vietnamiens osaient parler de ce bagne sans émoi. Il s’agit bien d’un archipel de 14 îlots situé à 180 km au large, accessible depuis Vũng Tàu (ex Cap Saint Jacques) en douze heures de bateau. Lors de son passage à la fin du XIIIe siècle, Marco Polo nota que l’île de Côn Son, la plus grande des 14 îles était inhabitée. L’archipel de Poulo Condor fut l’objet de litiges séculaires entre les Vietnamiens, les Khmers et les Malais. Il fut découvert un beau matin, le 28 Novembre 1861, par le lieutenant de la marine royale française de Napoléon III, Lespes Sébastien Nicolas Joachim. Il devint ainsi français durant l’époque coloniale et se distingua par ses célèbres pénitenciers. C’était un passage obligé pour ceux qui osaient parler de la politique sur cette terre des légendes durant la période coloniale. On trouva non seulement parmi les pensionnaires du bagne des communistes célèbres comme Phạm Văn Ðồng, Lê Duẫn,Tôn Ðức Thắng, Nguyễn Văn Tạo, mais aussi des nationalistes, des trotkistes et des partisans du « Grand Viêt-Nam ( Ðại Việt ) « ..

Mais Nguyễn An Ninh resta le seul leader capable d’annihiler toutes les discussions houleuses entre ces protagonistes. Pour se détendre dans la cellule, Ninh composa beaucoup de poèmes mais le plus célèbre restait le suivant trouvé dans sa poche au moment de son enterrement par ses compagnons de prison:

Sống và chết

Sống mà vô dụng sống làm chi
Sống chẳng lương tâm, sống ích gì
Sống trái đạo người, người thêm tủi
Sống quên ơn nước , nước càng khi
Sống tai như điếc, lòng đâm thẹn
Sống mắt dường đui dạ thấy kỳ
Sống sao nên phải cho nên sống
Sống để muôn đời, sử tạc ghi…
….. ….
Chết được dựng hình tên chẳng mục
Chết đưa vào sử chữ không phai.
Chết đó, rõ ràng danh sống mãi
Chết đây, chỉ chết cái hình hài
Chết vì Tổ Quốc, đời khen ngợi
Chết cho hậu thế, đẹp tương lai

Vivre et Mourir

Vivre inutile, ce n’est plus la peine de vivre
Vivre sans conscience, ce n’est plus utile de vivre
Vivre immoral, on se sent plus pitoyable
Vivre sans patrie, on se sent plus méprisable

Vivre sourd aux cris d’injustice, on se sent éprouver de la honte intérieure
Vivre en aveugle, on se sent très gêné
Vivre comment pour se montrer digne de vivre
Vivre comment pour être mémorisé par l’histoire

Mourir c’est avoir une statue érigée et un nom qui ne se décompose pas avec le temps
Mourir c’est laisser dans l’histoire des lettres indélébiles.
Mourir de cette manière c’est faire vivre éternellement le nom
Mourir ici, c’est laisser mourir seulement son corps
Mourir pour la Patrie, c’est mériter de recevoir des louanges pour toujours
Mourir pour la postérité, c’est vouloir rendre radieux l’avenir.

Sa mort pourrait être inaperçue s’il n’y avait pas le contrôle du gardien de prison Rognon. Celui-ci vérifia par hasard le sac contenant les corps des prisonniers décédés la veille (14 Aout 1943) et prévu pour la descente dans la morgue. Saisi par la pitié et par l’admiration qu’il avait eue toujours pour Nguyễn An Ninh, il décida d’alerter Mr Tisseyre, le directeur du bagne et demanda à ce dernier de pouvoir enterrer Nguyễn An Ninh avec un cercueil. Mais il ne savait pas que Nguyễn An Ninh fut liquidé sur l’ordre de Tisseyre avec une piqûre d’arsenic. C’était pourquoi Tisseyre, gêné par cette suggestion, n’hésita pas à rappeler à Rognon qu’il commença à s’intéresser à des affaires qui ne le concernaient pas. Alertée par la mort de son ami Nguyễn An Ninh qu’elle avait connu à l’époque où elle avait été encore une jeune étudiante à la Sorbonne, la femme du directeur de la compagnie d’électricité à Poulo Condor, Mme Charlotte Printannière insista longuement auprès de Tisseyre pour que Nguyễn An Ninh fût enterré avec dignité. Face au traitement inhumain de Tisseyre, elle fut obligée de lui dire avec énervement:

Une personne comme lui mérite d’être respectée lorsqu’il s’agit d’un Vietnamien patriote. Vous ne perdez rien si vous l’enterrez comme il faut. Par contre, vous serez apprécié pour votre générosité. Pour quelle raison continuez-vous à nous empêcher de montrer notre admiration envers ce révolutionnaire authentique? Qui ose dire dans l’avenir que vous serez toujours le vainqueur?

Malgré cette remarque, Tisseyre resta impassible. Il laissa le corps de Nguyễn An Ninh dans un état lamentable avec ses vêtements en lambeaux. Il fut enterré le lendemain à Hàng Keo par ses compagnons de prison. Quant à Mme Charlotte Printanière, elle fut rappelée quelques jours plus tard à Saigon et fut interdite de séjour dans l’île. Sa remarque devint une prophétie quelques années plus tard. Tisseyre fut emprisonné à son tour par l’armée japonaise et fut condamné à 20 ans de prison par le tribunal militaire du Général De Gaulle pour sa lâcheté de capituler sans conditions devant l’armée japonaise.

Par le biais de Tisseyre, les autorités coloniales réussirent à tuer Nguyễn An Ninh. Mais ils oublièrent la phrase que Nguyễn An Ninh avait bien rappelée dans son poème « Vivre et Mourir ». Mourir ici, c’est laisser mourir seulement son corps. Effectivement, Ninh était parti pour toujours mais il y avait d’autres Ninh qui venaient prendre sa place et le flambeau de la lutte.

Depuis la nuit des temps, l’histoire nous avait appris qu’on pouvait éliminer toujours les instigateurs des révoltes mais il était impossible d’extirper leurs idées, en particulier celles ayant trait à la défense d’une cause juste et légitime.

Nguyễn An Ninh était non seulement la personne ayant une influence notable sur les intellectuels du Sud-Vietnam dans les années 1920-1940 mais aussi la personne capable de réveiller une génération. C’était le jugement de l’historien Daniel Héméry dans son ouvrage « Saigon 1925-1945 » paru en 1972 à Paris.

Nguyễn An Ninh était non seulement un Vietnamien patriote mais un militant révolutionnaire vaillant qui s’était battu pour la Patrie et pour le Peuple jusqu’au dernier souffle de sa vie. Ce sont les termes employés par Phạm Văn Ðồng pour rendre hommage à Nguyễn An Ninh dans le journal Saigon libéré paru le 14 Aout 1993 et portant le numéro 571. De son vivant, Ngô Ðình Diệm, l’ex-président de la République du Viêt-Nam, n’oublia pas non plus ce que Nguyễn An Ninh avait fait pour la nation en donnant à la rue d’Amiral Courbet qui est proche du marché central Bến Thành le nom Nguyễn An Ninh et en rénovant sa tombe à l’île Poulo-Condor.

Rien n’est étonnant de voir Nguyễn An Ninh réussir à recevoir encore après tant de décennies les approbations unanimes de toutes les tendances politiques vietnamiennes. Il est considéré toujours par ses compatriotes comme un intellectuel vietnamien au service de la nation. Il eut la possibilité de s’enrichir à cette époque avec son diplôme, de se ranger du côté des plus forts dans les moments difficiles de l’histoire du Viêtnam mais il préféra choisir une autre voie, celle de partager avec son peuple les malheurs et d’engager un combat politique courageux en quête de la liberté.

Combien d’hommes politiques vietnamiens ont-ils encore cet idéal?

Fête des mères ( Lễ Mẹ)

 

A l’occasion de la fête des mères,  je voudrais dédicacer cette page  pour  tous ceux qui ont la chance d’avoir encore une mère, de lui montrer l’affection et de lui dire un GRAND MERCI. Vous pouvez  agrafer une rose sur votre  veste pour témoigner de la reconnaissance mais aussi de la joie immense d’avoir ce trésor inestimable, ce qu’a suggéré le moine zhen Thích Nhất Hạnh dans son best-seller  » Bông Hồng cài áo » ( une rose agrafée sur la veste) .

C’est aussi ce sentiment qu’a ressenti  feu compositeur Trịnh Công Sơn : Si j’avais un bouquet de roses d’une valeur inestimable, j’aimerais bien l’offrir à ma mère. Malheureusement elle n’était plus là pour le recevoir.

Il n’y a que la rose qui peut symboliser l’affection indescriptible que tout Vietnamien aime réserver soigneusement à sa mère, à celle qui lui a donné la vie mais aussi l’amour de ce pays.

Malgré son niveau d’instruction assez peu élevé, le paysan vietnamien arrive à décrire l’amour maternel d’une manière juste et simple à travers le proverbe suivant :

Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau

Ma mère ressemble à une banane parfumée,
Elle est comme du riz gluant cuit à la vapeur ou du sucre provenant de la canne à sucre.

Quand on a l’occasion de goûter une banane « ba hương », on découvre non seulement son saveur mais aussi son parfum et sa substance sucrée. C’est ce que ressent le paysan dans l’amour que sa mère continue à lui donner.

Le suc de cet amour le laisse toujours insatiable. De plus le paysan le trouve exquis comme du riz gluant et mielleux comme du sucre provenant de la canne à sucre.

Mother’s Day


On the occasion of the Mother’s Day, I would like to dedicate this page to those who are lucky to have again a mother. They can continue to pin a rose on their coats with the intention of showing not only the gratitude but also the immense joy to have an priceless  treasure, what has suggested the Vietnamese zen monk Thích Nhất Hạnh in the novel Bông hồng cài áo (A rose pinned on the coat)

It is also this feeling which late talented composer Trinh Công Son felt:

If I had a pink bunch of a priceless value, I would like to offer it to my mother. Unfortunately she was not there to receive it.

There is only the pink which can symbolize the indescribable affection that any Vietnamese likes to reserve to his mother carefully, to the one who   gave him the life but also the love of this country.

In spite of his educational level rather relatively low, the Vietnamese peasant manages to describe the maternal love in a way right and simple through the following proverb:

Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau

My mother resembles a scented banana,
She is as sticky rice cooked with the vapor or sugar coming from the   sugarcane.

When one has the occasion to taste a banana “Ba hương”, one discovers not only his savor but also his perfume and his sweetened substance. It is what the peasant feels in the love that his mother continues to give him.

The juice of this love make  him always insatiable. In addition, the peasant finds it exquisite as glutinous rice and sweeter as sugar coming from the   sugarcane.

 

 

Trần Miếu (Nam Định)

Version française

 

Phủ Thiên Trường

Đây là một quần thể kiến trúc và lịch sữ dành để thờ các vua nhà Trần và các quan có công phù tá. Nằm trên quốc lộ số 10 trong tỉnh Nam Định, đền nầy được xây cất lại năm 1695 trên nền thái miếu cũ được gọi là phủ Thiên Trường mà quân xâm lược nhà Minh phá hủy vào thế kỷ 15.  Cũng ở nơi nầy mà phát tích vương triều nhà Trần.  Các vua nhà Trần tạm về nơi nầy để lánh nạn trong thời gian chống giặc Nguyên Mông của Hốt Tất Liệt.

 

Temple royal  des Trần

C’est un  ensemble architectural et historique remarquable  dédié au culte des  rois de la dynastie des Trần  et de leurs  célèbres  serviteurs.  Situé à la route nationale n°10 dans la province de Nam Định, il fut reconstruit en 1695 sur l’emplacement de l’ancien temple royal  connu sous le nom « phủ Thiên Trường »  détruit complètement par les envahisseurs chinois (les Ming) au XVème siècle. C’est ici qu’est née la dynastie des Trần. Les rois des Trần  y trouvaient refuge durant la guerre contre les Mongols de Kubilai Khan. 

It is a remakable architectural and historic complex dedicated to the cult of the kings and their famous mandarins from the  Trần dynasty. Located on the national road n°10 in the Nam Định province, it was rebuilt on the site of the former royal temple known under the name « Phủ Thiên Đường » . This one was completely destroyed by  chinese invaders, the Ming in the 15th century.  It is here that was born the Trần dynasty.   The Trần dynasty kings took refuge here during the war against the Mongols of Kubilai Khan.

Les chiffres Yin et Yang des Vietnamiens (Con số Âm Dương của người Việt)

 

Version vietnamienne

Version anglaise

On est habitué à dire en vietnamien : sống chết đều có số cả (Chacun a son jour J pour la vie comme pour la mort). Ði buôn có số, ăn cỗ có phần (On a sa vocation au commerce comme on a sa part au festin). Dans la vie courante, chacun a sa taille pour ses vêtements et pour ses chaussures. On s’aperçoit que contrairement aux Chinois qui adorent les nombres pairs, les Vietnamiens privilégient plutôt les nombres impairs (sô’ âm) que les nombres pairs (sô’ dương). 

On trouve l’utilisation fréquente des nombres impairs dans les locutions vietnamiennes : ba mặt một lời ( On a besoin d’être face à face en présence d’un témoin), ba hồn bảy vía ( trois âmes et 7 supports vitaux pour les hommes càd on est paniqué), Ba chìm bảy nổi chín lênh đênh ( très mouvementé), năm thê bảy thiếp ( avoir 5 épouses et 7 concubines càd avoir plusieurs femmes ), năm lần bảy lượt (plusieurs fois), năm cha ba mẹ ( hétéroclite), ba chóp bảy nhoáng (avec précipitation et sans soin ), Môt lời nói dối , sám hối 7 ngày (Une parole mensongère équivaut à sept jours de repentance), Một câu nhịn chín câu lành (Eviter une phrase vexante c’est avoir 9 phrases aimables) etc … ou celle des entiers multiples du nombre 9 : 18 (9×2) đời Hùng Vương ( 18 rois légendaires Hùng Vương ), 27 (9×3) đại tang 3 năm (27 tháng)(ou un deuil porté sur trois ans qui se traduit en fait par 27 mois seulement), 36 (9×4) phố phường Hànội (Hànội avec 36 quartiers ) etc.. On n’oublie pas de citer non plus les chiffres 5 et 9 ayant chacun un rôle très important. Le chiffre 5 est le chiffre le plus mystérieux car tout commence à partir de ce nombre. Le Ciel et la Terre ont les 5 éléments ou agents (Ngũ hành) donnant naissance aux mille choses et êtres. Il est placé au centre du Plan du Fleuve et de l’Ecrit de la rivière Luo qui sont à la base de la mutation des 5 éléments (Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ)( Eau, Feu, Bois, Métal et Terre).

Il est associé à l’élément Terre dans la position centrale dont le paysan a besoin pour permettre de connaître la direction des points cardinaux. Cela revient ainsi à l’homme le centre dans la gestion des choses et des espèces et des quatre cardinaux. C’est pour cette raison que dans la société féodale, cette place est réservée  au roi car c’est lui qui a gouverné les gens. En conséquence, le chiffre 5 lui appartenait ainsi que la couleur jaune symbolisant la Terre. Cela explique la couleur qu’ont choisie les empereurs vietnamiens et chinois pour leurs habits.

Ho Tou Lo Chou

(Hà Đồ Lạc Thư)

Outre le centre occupé par l’homme, un animal symbolique est associé à chacun des quatre points cardinaux: le Nord par la tortue, le Sud par le phénix, l’Est par le tigre et l’Ouest par le dragon. Rien n’est étonnant de trouver au moins dans cette attribution les trois animaux vivant dans une région où la vie agricole joue un rôle considérable et l’eau est vitale. C’est le territoire des Bai Yue. Même un dragon si méchant dans d’autres cultures devient un animal gentil et noble imaginé par les peuples pacifiques des Bai Yue. Le chiffre 5 est connu encore sous le nom « Tham Thiên Lưỡng Đia » (ou ba Trời hai Ðất ou 3 Yang 2 Yin) dans la théorie du Yin et du Yang car l’obtention du nombre 5 provenant de l’assemblage des chiffres 3 et 2 correspond mieux au pourcentage raisonnable du Yin et du Yang que celle résultant de l’assemblage des chiffres 4 et 1.

Dans ce dernier, on s’aperçoit que le nombre Yang 1 est dominé beaucoup par le nombre Yin 4. Ce n’est pas le cas de l’assemblage des nombres 3 et 2 où le nombre Yang 3 domine légèrement le nombre (Yin) 2. Cela favorise le développement de l’univers dans une harmonie presque parfaite. Autrefois, le cinquième jour, le quatorzième jour (1+4=5) et le vingt-troisième jour (2+3=5) du mois étaient  réservés pour la sortie du roi. Il était interdit aux sujets de faire le commerce durant son déplacement et de troubler sa promenade. C’est peut-être la raison qui explique qu’un grand nombre de Vietnamiens d’aujourd’hui, influencés par cette tradition ancestrale continuent à ne pas choisir ces jours pour la construction des maisons, pour le voyage et pour les achats importants.On est habitué à dire en vietnamien : 

Chớ đi ngày bảy chớ về ngày ba
Mồng năm, mười bốn hai ba
Đi chơi cũng lỗ nữa là đi buôn
Mồng năm mười bốn hai ba
Trồng cây cây đỗ, làm nhà nhà xiêu

Il faut éviter de partir le 7ème jour et de rentrer le 3ème jour du mois. Pour le 5ème, le 14ème et le 23ème jour du mois, vous seriez perdant si vous faites une sortie ou le commerce. De même vous verriez la chute de l’arbre ou l’inclinaison de votre maison si vous le plantez ou vous la construisez.

Le chiffre 5 est cité fréquemment dans l’art culinaire vietnamien. La sauce la plus typique des Vietnamiens reste la saumure de poisson. Dans la préparation de cette sauce nationale, on note la présence de 5 saveurs classées selon les 5 éléments du Yin et du Yang: mặn ( salée ) avec le jus de poisson (nước mắm), đắng (amère) avec le zeste du citron (vỏ chanh), chua (acide) avec le jus du citron (ou du vinaigre), cay (piquante) avec les piments pilés en poudre ou coupés en miettes et ngọt (sucrée) avec du sucre en poudre. Ces cinq saveurs ( mặn, đắng, chua, cay, ngọt ) combinées et trouvées dans la sauce nationale des Vietnamiens correspondent respectivement aux 5 éléments définis dans la théorie de Yin et de Yang (Thủy, Hỏa , Mộc , Kim Thổ)(Eau, Feu , Bois, Métal et Terre ).

De même, on retrouve ces 5 saveurs dans le potage aigre-doux (canh chua) préparé avec du poisson: acide avec les graines de tamarin ou avec le vinaigre, sucré avec les tranches d’ananas, piquant avec les piments coupés en lamelles, salé avec le jus de poisson et amère avec quelques gombos (đậu bắp) ou avec les fleurs de fayotier (bông so đũa). Au moment où ce potage est servi, on lui ajoutera quelques herbes parfumées comme le panicaut (ngò gai), rau om (herbe ayant la flaveur proche de la coriandre avec une note citronnée en plus). C’est un trait caractéristique du potage aigre-doux du Sud-Vietnam et différent de ceux trouvés dans les autres régions du Vietnam.

On ne peut pas oublier de citer le gâteau de riz gluant que les Proto-Vietnamiens avaient réussi à léguer à leurs descendants au fil des millénaires de leur civilisation. Ce gâteau est la preuve intangible de l’appartenance de la théorie du Yin et du Yang et de ses cinq éléments aux Cent Yue dont les Proto-Vietnamiens faisaient partie car on retrouve dans la confection de ce gâteau le cycle d’engendrement de ces 5 éléments.

(Feu->Terre->Métal->Eau->Bois)

A l’intérieur du gâteau, on trouve un morceau de viande de porc de couleur rouge (le Feu) entouré par une sorte de pâte faite avec des fèves de couleur jaune (la Terre). Le tout est enveloppé par le riz gluant de couleur blanche (le Métal) pour être cuit avec de l’eau bouillante (l’Eau) avant de trouver une coloration verte sur sa surface grâce aux feuilles de latanier (le Bois).

Il y a un autre gâteau qui ne peut pas être manquant dans les mariages. C’est le gâteau susê ou phu-Thê (mari-femme) ayant la forme ronde à l’intérieur et enveloppé par des feuilles de bananier (couleur verte) en vue de lui donner l’apparence d’un cube ficelé avec un ruban de couleur rouge. Le cercle est placé ainsi à l’intérieur du carré (Dương trong âm)(Yang dans Yin). Ce gâteau est composé de la farine du tapioca, parfumé au pandan et parsemé de graines de sésame (vừng đen) de couleur noire. Au cœur de ce gâteau se trouve une pâte faite avec des haricots de soja cuits à la vapeur (couleur jaune), de la confiture des graines de lotus et de la noix de  coco râpée (couleur blanche). Cette pâte  ressemble énormément à la frangipane trouvée dans les galettes des rois. Sa texture collante rappelle le lien fort qu’on veut représenter dans l’union. Ce gâteau est le symbole de la perfection de l’amour conjugal et de la loyauté en accord parfait avec le Ciel et la Terre et les 5 éléments symbolisés par les cinq couleurs (rouge, verte, noire, jaune et blanche).

Ce gâteau est relaté par le conte suivant : autrefois, il y avait un commerçant s’adonnant aux débauches et ne pensant pas à retourner à la famille bien qu’avant son départ, sa femme lui donnât le gâteau susê et promît  de rester chaleureuse et doucereuse comme le gâteau. C’est pourquoi ayant appris cette nouvelle, sa femme lui envoya d’autres gâteaux phu thê accompagnés par les deux vers suivants :

Từ ngày chàng bước xuống ghe
Sóng bao nhiêu đợt bánh phu thê rầu bấy nhiêu

Depuis ton départ, autant des vagues étaient rencontrées par ton embarcation, autant d’afflictions étaient connues par le gâteau susê.

 
Lầu Ngũ Phụng

Dans l’architecture, le chiffre 5 n’est pas oublié non plus. C’est le cas de la porte méridienne de la citadelle de Huế qui est un puissant massif en maçonnerie percé de cinq passages et surmonté d’une élégante structure de bois à deux niveaux, le Belvédère des Cinq Phénix (Lầu Ngũ Phụng). 

Vu dans l’ensemble,  celui-ci  ressemble à  un groupement   de 5 phénix juchés intimement avec leurs ailes déployées. Ce belvédère possède cent colonnes en bois  de fer et peintes  en rouge permettant de supporter ses neuf toitures. Ce chiffre 100 a été  bien examiné par les spécialistes vietnamiens. Pour l’archéologue renommé Phan Thuận An, il correspond exactement au nombre total obtenu par l’addition des deux nombres trouvés respectivement dans le plan du Fleuve (Hà Ðồ) et l’Ecrit de la rivière Luo (Lạc thư cửu tinh đồ) et symbolisant ainsi l’harmonie parfaite de l’union du Yin et du Yang. Ce n’est pas l’avis d’un autre spécialiste Liễu Thượng Văn. Selon ce dernier, cela représente la force de 100 familles ou du peuple (bách tính) et reflète bien la notion dân vi bản (prendre le peuple comme base) dans la gouvernance de la dynastie des Nguyễn. La toiture du pavillon central est couverte de tuiles jaunes « lưu ly », les autres de tuiles bleues « lưu ly ». La porte principale, juste au milieu, c’est la porte méridienne (Ngọ Môn) pavée de pierres « Thanh » teintées en jaune, et consacrée au passage du roi. Des deux côtés, on trouve la porte de Gauche et la porte de Droite (Tả, Hữu, Giáp Môn) réservées aux mandarins civils et militaires. Puis les deux autres portes latérales Tả Dịch Môn và Hữu Dịch Môn sont prévues pour les soldats et les chevaux. C’est pourquoi on est habitué à dire en vietnamien :

Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Một lầu vàng, tám lầu xanh, ba cửa thẳng, hai cửa quanh

La porte méridienne  possède 5 passages et neuf toitures dont l’une est vernissée en jaune et les 8 huit autres en vert. Il y a trois portes principales et deux latérales.

A l’est et à l’ouest de la citadelle, on trouve la Porte de l’Humanité et la Porte de la Vertu qui sont réservées respectivement pour les hommes et les femmes.
Le chiffre 9 est un nombre Yang (ou impair). Il représente la puissance du yang à son maximum et il est difficile de l’atteindre. C’est pourquoi autrefois l’empereur s’en servit souvent pour montrer sa puissance et sa suprématie. Il monta les neuf marches symbolisant l’ascension de la montagne sacrée où se trouvait son trône. Selon l’on-dit, la cité interdite de Huế comme celle de Pékin possédait 9999 pièces. Il est utile de rappeler que la cité interdite de Pékin a été supervisée par un Vietnamien de nom Nguyễn An exilé très jeune à l’époque des Ming. L’empereur comme chacun de ses palais, est tourné face au sud, à l’énergie Yang, afin que l’empereur reçoive le souffle vital du soleil car il est le fils du Ciel. Au Vietnam, on trouve les neuf urnes dynastiques de la citadelle de Huê, les neuf branches du fleuve Mékong, les neuf toitures du belvédère des Cinq Phénix etc…Dans le conte intitulé « Le génie des Montagnes et le génie des Fleuves (Sơn Tinh Thủy Tinh) », le dix-huitième (2×9) roi Hùng Vương proposa pour la dot du mariage de sa fille Mị Nương: un éléphant à 9 défenses, un coq à 9 ergots et un cheval à 9 crinières rouges. Le chiffre 9 symbolise le Ciel dont la date de naissance est le neuvième jour du mois Février.

Moins important que les chiffres 5 et 9, le chiffre 3 (ou Ba ou Tam en vietnamien) est lié étroitement à la vie quotidienne des Vietnamiens. Ceux-ci n’hésitent pas à l’évoquer dans un grand nombre d’expressions populaires. Pour signifier une certaine limite, un certain degré, ils ont l’habitude de dire:

Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời:
Nul ne peut prétendre s’enrichir jusqu’aux trois générations comme nul n’est  exigeant jusqu’aux trois vies successives.

Il  arrive souvent   aux Vietnamiens de ne pas accomplir une certaine chose en une seule fois, ce qui les oblige d’effectuer l’opération jusqu’à trois fois. C’est l’expression suivante qu’ils emploient fréquemment: Nhất quá Tam. C’est le chiffre trois, une limite qu’ils ne souhaitent pas outrepasser dans l’accomplissement de cette tâche. Pour dire que quelqu’un est irresponsable, ils le désignent sous le vocable « Ba trợn« . Celui qui est opportuniste est appelé Ba phải. L’expression  » Ba đá  » est réservée aux gens vulgaires tandis que ceux qui ne cessent pas de s’enchevêtrer dans de petites affaires ou des ennuis interminables reçoivent le titre  » Ba lăng nhăng« . Pour soupeser ses paroles, le Vietnamien a besoin de plier les trois pouces de sa langue. ( Uốn Ba tấc lưỡi ). 

Le chiffre Trois est synonyme aussi de quelque chose d’insignifiant et sans importance. C’est ce qu’on trouve dans les expressions populaires suivantes:

Ăn sơ sài ba hột: Manger peu. (Manger simplement trois grains).
Ăn ba miếng: idem
Sách ba xu: Bouquin sans valeur. (le bouquin ne valant que trois sous).
Ba món ăn chơi: Quelques plats à goûter. (Trois plats pour se divertir)

Analogue au chiffre 3, le chiffre 7 est cité souvent dans la littérature vietnamienne. On ne peut pas ignorer non plus l’expression Bảy nỗi ba chìm với nước non (Je surnage 7 fois et je sombre trois fois si on la traduit textuellement) que la poétesse Hồ Xuân Hương a employée et immortalisée dans son poème intitulé « Bánh trôi nước » :

Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bây nỗi ba chìm với nước non
……….
pour décrire les difficultés rencontrées par la femme vietnamienne dans une société féodale et confucéenne. Celle-ci n’épargnait pas non plus ceux qui avaient un esprit d’indépendance, de liberté et de justice. C’est le cas du lettré engagé Cao Bá Quát dégoûté de la scolastique de son époque et rêvant de remplacer la monarchie autoritaire des Nguyễn par une monarchie éclairée. Taxé d’être l’auteur de l’insurrection des Sauterelles (Giặc Châu Chấu) en 1854, il fut condamné à mort et n’hésita pas à donner jusqu’à  avant son exécution, sa réflexion sur le sort réservé à ceux qui osaient critiquer le despotisme et la société féodale dans son poème :

Ba hồi trống giục đù cha kiếp
Một nhát gươm đưa, đéo mẹ đời.
Trois coups de gong sont pour ce sort misérable
Une tranche de sabre achève cette vie de chien.

Si la théorie du Yin et du Yang continue à hanter leur esprit pour son caractère mystique et impénétrable, elle reste néanmoins un mode de pensée et de vie auquel un bon nombre des Vietnamiens ne renoncent pas à se référer quotidiennement pour les pratiques courantes et le respect des us et des traditions ancestrales.


Bibliographie

-Xu Zhao Long : Chôkô bunmei no hakken, Chûgoku kodai no nazo in semaru (Découverte de la civilisation du Yanzi. A la recherche des mystères de l’antiquité chinoise, Tokyo, Kadokawa-shoten 1998).
-Yasuda Yoshinori : Taiga bunmei no tanjô, Chôkô bunmei no tankyû (Naissance des civilisations des grands fleuves. Recherche sur la civilisation du Yanzi), Tôkyô, Kadokawa-shoten, 2000).
-Richard Wilhelm : Histoire de la civilisation chinoise 1931
-Nguyên Nguyên: Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương
– Léonard Rousseau: La première conquête chinoise des pays annamites (IIIe siècle avant notre ère). BEFO, année 1923, Vol 23, no 1
-Paul Pozner : Le problème des chroniques vietnamiennes., origines et influences étrangères. BEFO, année 1980, vol 67, no 67, p 275-302
-Dich Quốc Tã : Văn Học sữ Trung Quốc, traduit en vietnamien par Hoàng Minh Ðức 1975.
-Norman Jerry- Mei tsulin (1976) : The Austro asiatic in south China : some lexical evidence, Monumenta Serica 32 :274-301
-Henri Maspero : Chine Antique : 1927.
-Jacques Lemoine : Mythes d’origine, mythes d’identification. L’homme 101, paris, 1987 XXVII pp 58-85
-Fung Yu Lan: A History of Chinese Philosophy ( traduction vietnamienne Đại cương triết học sử Trung Quốc” (SG, 1968).68, tr. 140-151)).
-Alain Thote: Origine et premiers développements de l’épée en Chine.
-Cung Ðình Thanh: Trống đồng Ðồng Sơn : Sự tranh luận về chủ quyền trống
đồng giữa h ọc giã Việt và Hoa.Tập San Tư Tưởng Tháng 3 năm 2002 số 18.
-Brigitte Baptandier : En guise d’introduction. Chine et anthropologie. Ateliers 24 (2001). Journée d’étude de l’APRAS sur les ethnologies régionales à Paris en 1993.
-Nguyễn Từ Thức : Tãn Mạn về Âm Dương, chẳn lẻ (www.anviettoancau.net)
-Trần Ngọc Thêm: Tìm về bản sắc văn hóa Việt-Nam. NXB : Tp Hồ Chí Minh Tp HCM 2001.
-Nguyễn Xuân Quang: Bản sắc văn hóa việt qua ngôn ngữ việt (www.dunglac.org)
-Georges Condominas : La guérilla viêt. Trait culturel majeur et pérenne de l’espace social vietnamien, L’Homme 2002/4, N° 164, p. 17-36.
-Louis Bezacier: Sur la datation d’une représentation primitive de la charrue. (BEFO, année 1967, volume 53, pages 551-556)
-Ballinger S.W. & all: Southeast Asian mitochondrial DNA Analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migration, Genetics 1992 vol 130 p.139-152….

Con số Âm Dương của người Việt ( Les nombres Yin et Yang des Vietnamiens)

 

Version française

Version anglaise

Con số Âm Dương  của người Việt

Người Việt  thường nói : sống chết đều có số cả . Ði buôn có số, ăn cỗ có phần. Trong cuộc sống hằng ngày, mặc quần áo hay mang giày cũng có kích thước. Khác hẳn người Hoa thích số chẵn (hay số Dương), người dân Viêt thường dùng số lẻ thay vì số dương đấy. Bởi vậy  thường thấy trong thành ngữ hay tục ngữ Việt  có sự trọng dụng số lẻ như sau : ba mặt một lời, ba hồn bảy vía, Ba chìm bảy nổi chín lênh đênh, năm thê bảy thiếp,  năm lần bảy lượt, năm cha ba mẹ, ba chóp bảy nhoáng, Môt lời nói dối , sám hối  7  ngày, Một câu nhịn chín câu lành  vân vân …hay là những con số tăng lên nhiều lần từ số 9 mà ra chẳng hạn : 18 (9×2) đời Hùng Vương,  27 (9×3) đại tang 3 năm ( 27 tháng), 36 (9×4) phố phường Hànội  vân vân. Cũng đừng quên rằng người Việt rất  xem trọng con số 5 và số 9 vì hai con số lẻ  nầy  có một vai trò rất quan trọng. Con số 5 là con số thần bí nhất vì tất cả đều khởi đầu từ  con số 5 nầy ra cả. Trời Đất có được vạn vật phát sinh từ 5 yếu tố cơ bản qua 5 trạng thái:  Mộc, Hỏa, Thổ, KimThủy mà thường gọi là ngũ hành.

Lạc Thư Hà Đồ

Con số 5 được đặt ở  trung tâm  của Lạc Thư Hà Đồ, hai bức  đồ nguồn góc của sự biến đổi và vận hành của Âm Dương  Ngũ Hành. « Đất »  là  yếu tố  đuợc gắn liền với   con số 5 và từ   ở trung tâm đất  mà ra,   người nông mới tìm thấy  ra được các phương hướng chủ yếu.  Chính nhờ vậy mà  ở  trung tâm  con người mới quản lý  được vạn vật vạn loại cùng 4 phương trời. Bởi vậy ở trong xã hội phong kiến, vị trí nầy thường dành cho vua. Chính vua là người cai trị quần chúng. Vì thế con số 5 thuộc về sơ hữu  của vua cũng như màu vàng riêng tư, màu biểu tượng của Đất. Bởi vậy các vua chúa ở thời đại phong kiến (Việtnam và Trung Hoa) thường chọn màu nầy cho y phục.  

Ngoài vị trí trung tâm mà con người giữ, mỗi con vật được gắn liền  với mỗi phương: qui với phương bắc, phụng thì phương nam, còn phương  đông dành cho rồng (hay long) và sau cùng phương tây với hổ (cọp). Cũng không có gì ngạc nhiên trong bốn con vật nầy đã có 3 con sống ở vùng nước mà đời sống nông nghiệp là chính. Đó là vùng đất của đại tộc Bách Việt. Luôn cả con rồng thường hung hăng dữ tợn trong các nền văn hóa khác thì nó rất hiền lành dễ thương qua trí tưởng tượng của những bộ tộc hiền hòa Bách Việt. Con số 5 thường được gọi là « Tham Thiên Lưỡng Địa«  (hay là  ba Trời hai Ðất ) trong thuyết  Âm Dương. Với tỷ lệ chí lí   về sự tương xứng  của Âm và Dương , có được nó  từ sự tập hợp của con số 3 và con số 2  hơn là đến từ con số 4 và con số 1 vì với hai con số  nầy , thì nhận thấy con số dương 1 hoàn toàn bị số âm  4 lấn áp và chiếm ưu thế. Còn ngược lại với  con số 2 và và số 3 thì sự  chiếm ưu thế của con số 3 không nhiều chi cho mấy cho nên sự vận động của  vũ trụ  có vẻ hài hoà hơn và gần như hoàn chỉnh. Thưở xưa, ngày thứ năm, ngày 14 (1+4) hay ngày 23 (2+3)  trong tháng là những ngày dành cho vua xuất hành. Cũng là những lúc  không được buôn bán khi vua đi dạo. Chính vì thế người dân Việt hôm nay vẫn còn kiêng cữ  những ngày đó, theo tục lệ dân gian ông bà, việc xây cất  nhà cửa, đi buôn hay đi xa. Bởi vậy người ta thường nghe  nói: 

Chớ đi ngày bảy chớ về ngày  ba
Mồng năm, mười bốn hai ba
Đi chơi cũng lỗ nữa là đi buôn
Mồng năm mười bốn hai ba
Trồng cây cây đỗ, làm nhà nhà xiêu

Con số 5 thường được nhắc đến nhiều trong ẩm thực của người Việt. Nước mắm là loại gia vị phổ biến nhất của người Việt. Trong việc chế biến pha làm nước mắm  dùng thì người ta nhận thấy có sự hiện diện cuả ngũ vị được sắp xếp theo ngũ hành: mặn với nước mắm từ chất muối ra, đắng  từ vỏ chanh,  chua  từ nước chanh hay nước dấm, cay với ớt  thái  khoanh nhỏ và  ngọt với  đường bột. Ngũ vị nầy     mặn, đắng, chua, cay, ngọt  tìm thấy  ở trong nước mắm  phù hợp với  ngũ hành của lý thuyết Âm Dương  ( Thủy , Hỏa , Mộc , Kim Thổ ). Cũng như canh chua  cá của người Nam Bộ cũng có ngũ vị như sau:  chua với me hay dấm, ngọt với những lát khớm hay thơm,  cay với ớt tươi ,  mặn với nước mắm và đắng với đậu bắp  hay bông so đũa.  Truớc khi dùng, người ta thêm vài loại rau thơm như ngò gai, rau om. Đây là đặc tính món canh chua của người Nam Bộ khác biệt với những món canh chua ở các vùng khác của Việtnam.

Chúng ta cũng không quên nhắc bánh chưng mà chúng ta thường đựợc ăn trong  những ngày Tết. Đây là món quà qúi báu  mà tổ tiên ta truyền lại cho dân tộc  qua nhiều thiên kỷ. Đây cũng là bằng chứng cụ thể nói lên lý thuyết Âm Dương ngũ hành thuộc về của đại tộc Bách Việt  (mà trong đó có bộ tộc Lạc Việt) chớ không phải của Hán tộc vì trong công thức làm bánh chưng thì có  quy luật ngũ hành tương sinh như sau:

 Hỏa sinh Thổ
 Thổ sinh Kim.

 Kim  sinh Thủy
 Thủy sinh Mộc
 Mộc sinh Hỏa

Chính giữa của bánh chưng lúc nào cũng có nhân thịt màu đỏ cả (Hỏa) rồi sau đó  nhân được bao kín xung quanh với đậu xanh lột vỏ nấu  chín màu vàng  tượng trưng cho Đất . Kế đó  đổ thêm một lớp gạo trắng  phía trên phần nhân tượng trưng cho Kim rồi đi  hấp với nước sôi (Thủy) để sau cùng bánh nó được chín và nhuộm  màu xanh của lá dừa (tượng trưng cho Mộc hay cây).

Có một loại bánh mà người dân Việt không thể thiếu trong lễ cưới. Đó là bánh xu xê hay phu thê. Bánh nầy có hình tròn ở trong nhưng được gói với lá chuối  bên ngoài với  hình khối của nó màu xanh và buột  với  dây băng màu đỏ. Như vậy cho  thấy Dương (hỉnh tròn của bánh) nằm trọn trong Âm qua hình khối. Bánh nầy thường làm với bột bán, thơm mùi lá dứa và có vừng màu đen. Giữa bánh thường  có nhân đậu xanh hấp chín (màu vàng)  trộn chung với  mứt dừa được nạo nhỏ và hạt sen (màu trắng) tựa như kem mà thường thấy trong bánh của  các vua (hay galette des rois). Tính chất  bột của bánh  rất dính  nói lên đây dây tơ hồng buộc chặt vợ chồng. Bánh nầy biểu tượng tình yêu hoàn hảo,  keo sơn bền vững và  son sắt  phù hợp với Trời Đất và ngũ hành qua 5 màu sắc (xanh, đỏ, đen, vàng và trắng).

Từ ngày chàng bước xuống ghe
Sóng bao nhiêu đợt bánh phu thê rầu bấy nhiêu.

      Lầu Ngũ Phụng

 

 

 

 

 

 

Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Một lầu vàng, tám lầu xanh, ba cửa thẳng, hai cửa quanh

Bên đông và bên tây cửa thành có hai cửa thường được  gọi là Hiển Đức Môn và Hiền Nhân Môn thì dành cho các ông và phụ nữ.

Còn con số 9 là con số dương (hoăc số lẻ). Nó tượng trưng cho quyền lực của khí dương ở tột  đĩnh khó mà ai đạt được lắm. Bởi vậy hoàng đế thường dùng nó để biểu dương   quyền lực. Hoàng đế thường bước lên chín bậc nơi mà có ngai vàng để ngự trị . Nghe nói Tử Cấm Thành ở Huế  cũng như ở Bắc Kinh có đến 9999 căn phòng.  Cũng nên nhắc lại người xây cất Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh là người Việtnam, ông Nguyễn An bị lưu đày từ thưở nhỏ vào  thời nhà Minh.  Hoàng đế cũng như tất cả cung điện đều hướng về phía nam nơi có  khí dương, để có  thể thụ hưởng được sinh khí của mặt trời nhất là hoàng đế là con của Trời. 

Ở Huế, có chín cái đỉnh bằng đồng, đặt ở trước sân Thế miếu trong hoàng thành Huế. Số 9 còn thấy qua như 9 mái  nhà của lầu  Ngũ phụng, 9 khẩu thần công (hay là Cửu vị thần công) xưa đặt  trước Ngọ Môn nay dời về vị trí hiện nay hay là 9 nhánh của sông Cửu Long vân vân…Qua chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh, nhớ lại trong sính lể mà vua Hùng Vương thứ 18 (2×9) đưa ra những điều kiện  để có thể cưới được công chúa Mị Nương thì phải có voi 9 ngà, gà chín cựa, ngựa 9 hồng mao.   Con số 9 nầy còn  tượng trưng Trời mà  ngày sinh của Trời là ngày thứ chín của tháng hai.  

Tuy không bằng sô 5 và số 9 nhưng con   số 3 cũng được trọng dụng thông thường trong đời sống dân Việt qua những thành ngữ chẳng hạn, muốn nói đến một  giới hạn hay mức độ nào không thể vượt qua thì người Việt thường có thói quen nói:

Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời.

Nhất quá Tam. (Tối đa là 3 lần trở lại)

Uốn Ba tấc lưỡi  (đắn đo trước khi nói)  , Ba trợn (trợn quá mức) , Ba phải (kẻ xu thời quá mức ) , Ba đá (thiếu trách nhiệm quá mức) vân vân …

Số 3 còn dùng để ám chỉ một việc gì hay số lượng dùng  không quan trọng:

Ăn sơ sài ba hột, Ăn ba miếng, Sách ba xu,   Ba món ăn chơi vân vân

Con số 3  cũng như con số 7  thường được nói đến rất nhiều trong văn chương Việt Nam. Thành ngữ  « Bảy nổi ba chìm với nước non » mà Hồ Xuân Hương dùng trong bài thơ: « Bánh trôi nước »:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nỗi ba chìm với nước non…

 nói lên những nỗi  gian truân của phụ nữ thời đó sống ở trong một xã hội phong kiến Khổng giáo hay là

Ba hồi trống giục đù cha kiếp
Một nhát gươm đưa, đéo mẹ đời.

đây là những lời cuối của  Cao Bá Quát, một thi sỹ lỗi lạc nhưng vì có tinh thần độc lâp, yêu chuông công bình và tự do mà bị giết trong cuộc khởi nghĩa (giặc Châu Chấu) chống triều Nguyễn dưới thời vua Tư Đức.

Nếu lý thuyết  Âm Dương Ngũ Hành vẫn tiếp tục ám ảnh  người dân Việt bởi tính cách thần bí và khó hiểu của nó nhưng   nó  lúc nào cũng  là một cách suy nghĩ và một lối sống mà phần đông người dân Việt quen giữ  thường ngày  để  thực hành    những việc  thông thường trong cuộc sống và tôn trọng truyền thống của tổ tiên.

[Trở về Âm Dương trong đời sống của người dân Việt]


Bibliographie

-Xu Zhao Long : Chôkô bunmei no hakken, Chûgoku kodai no nazo in semaru (Découverte de la civilisation du Yanzi. A la recherche des mystères de l’antiquité chinoise, Tokyo, Kadokawa-shoten 1998).
-Yasuda Yoshinori : Taiga bunmei no tanjô, Chôkô bunmei no tankyû (Naissance des civilisations des grands fleuves. Recherche sur la civilisation du Yanzi), Tôkyô, Kadokawa-shoten, 2000).
-Richard Wilhelm : Histoire de la civilisation chinoise 1931
-Nguyên Nguyên: Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương
– Léonard Rousseau: La première conquête chinoise des pays annamites (IIIe siècle avant notre ère). BEFO, année 1923, Vol 23, no 1
-Paul Pozner : Le problème des chroniques vietnamiennes., origines et influences étrangères. BEFO, année 1980, vol 67, no 67, p 275-302
-Dich Quốc Tã : Văn Học sữ Trung Quốc, traduit en vietnamien par Hoàng Minh Ðức 1975.
-Norman Jerry- Mei tsulin (1976) : The Austro asiatic in south China : some lexical evidence, Monumenta Serica 32 :274-301
-Henri Maspero : Chine Antique : 1927.
-Jacques Lemoine : Mythes d’origine, mythes d’identification. L’homme 101, paris, 1987 XXVII pp 58-85
-Fung Yu Lan: A History of Chinese Philosophy ( traduction vietnamienne Đại cương triết học sử Trung Quốc” (SG, 1968).68, tr. 140-151)).
-Alain Thote: Origine et premiers développements de l’épée en Chine.
-Cung Ðình Thanh: Trống đồng Ðồng Sơn : Sự tranh luận về chủ quyền trống
đồng giữa h ọc giã Việt và Hoa.Tập San Tư Tưởng Tháng 3 năm 2002 số 18.
-Brigitte Baptandier : En guise d’introduction. Chine et anthropologie. Ateliers 24 (2001). Journée d’étude de l’APRAS sur les ethnologies régionales à Paris en 1993.
-Nguyễn Từ Thức : Tãn Mạn về Âm Dương, chẳn lẻ (www.anviettoancau.net)
-Trần Ngọc Thêm: Tìm về bản sắc văn hóa Việt-Nam. NXB : Tp Hồ Chí Minh Tp HCM 2001.
-Nguyễn Xuân Quang: Bản sắc văn hóa việt qua ngôn ngữ việt (www.dunglac.org)
-Georges Condominas : La guérilla viêt. Trait culturel majeur et pérenne de l’espace social vietnamien, L’Homme 2002/4, N° 164, p. 17-36.
-Louis Bezacier: Sur la datation d’une représentation primitive de la charrue. (BEFO, année 1967, volume 53, pages 551-556)
-Ballinger S.W. & all: Southeast Asian mitochondrial DNA Analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migration, Genetics 1992 vol 130 p.139-152....
 

Village ancien Đường Lâm (Làng cổ)

Portail du village Đường Lâm

Version vietnamienne
English version 
Pictures Gallery

Ayant occupé  à peu près 800 ha, le village  Đường Lâm est localisé approximativement à 4km à l’ouest de la ville provinciale Sơn Tây. Il est consacré pratiquement à l’agriculture. Il est rare de trouver encore  aujourd’hui l’un des villages ayant conservé les traits caractéristiques d’un village traditionnel vietnamien.  Si la baie de Hạ Long est l’œuvre de la nature, Đường Lâm est par contre l’ouvrage crée par l’homme.  Il est plus riche de signification que la baie de Hạ Long. C’est ce qu’a remarqué le chercheur thaïlandais Knid Thainatis. Effectivement Đường Lâm est riche non seulement en histoire mais aussi en tradition.

Dans les temps anciens,  il s’appelait encore  Kẻ Mia (pays de la canne à sucre). Selon  une légende populaire,  le métier de fabriquer de la mélasse de canne à sucre à Đường Lâm rapportait  comment la princesse Mi Ê a trouvé une plante semblable à un roseau. Elle a pris une section de cette plante et a senti sa douceur fraîche et son goût aromatique. Elle a tellement aimé cette plante si bien qu’elle  a conseillé aux gens de la cultiver. Au fil du temps,  la canne à sucre poussait tellement dense qu’elle couvrait une grande surface comme le bois. La population locale a commencé à produire de la mélasse ainsi que des bonbons à partir de celle-ci. D’où le nom « Kẻ Miá ».

Grâce aux fouilles archéologiques aux  alentours des contreforts de la montagne Ba Vi, on découvre que  Đường Lâm était le territoire des Proto-Vietnamiens. Ces derniers y vivaient en grande concentration à l’époque de la civilisation de Sơn Vi. Ils continuaient à s’y établir encore durant les quatre cultures suivantes: Phùng Nguyên (2000-1500 BC), Đồng Dậu (1500-1000 BC), Gò Mun (1000-600 BC) et Đồng Sơn (700 BC-100 AD).

Le village  est aussi  la terre de deux rois célèbres Phùng Hưng et Ngô Quyền. Le premier, connu sous le nom « Bố Cái Đại Vương »  (ou Grand roi père et mère du peuple) est adulé comme le  libérateur de la domination chinoise à l’époque des Tang tandis que le deuxième a réussi à mettre fin à l’occupation chinoise de 1000 ans en défiant la flotte des Han du Sud (Nam Hán) sur le fleuve de Bạch Đằng. C’est aussi ici qu’on retrouve l’autel dédié à l’ambassadeur Giang Văn Minh auprès de la cour de Chine. Ce dernier fut tué par  l’empereur des Ming  Zhu Youjian (Sùng Trinh)  car il a osé l’affronter en lui répondant du tac au tac avec le vers mémorable suivant: 

Ðằng giang tự cổ huyết do hồng (Bạch Đằng từ xưa vẫn đỏ vì máu)
Le fleuve Bạch Ðằng continue à être teinté avec du sang rouge.

pour lui rappeler    les victoires éclatantes et décisives des Vietnamiens contre les Chinois sur le fleuve Bạch Ðằng,  suite au vers arrogant qu’il a reçu de la part de l’empereur chinois: 

Đồng trụ chí kim đài dĩ lục (Cột đồng đến giờ vẫn xanh vì rêu).
Le pilier en bronze continue à être envahi par la mousse verte. (évoquant ainsi la période de pacification du territoire vietnamien par le général chinois Ma Yuan à l’époque des Han).

 Làng cổ Đường Lâm 

L’une des caractéristiques de ce village  antique réside dans la préservation  de son  portail (porte principale) par lequel tout le monde doit passer. Le visiteur peut s’égarer facilement s’il n’arrive pas à repérer la maison communale Mông Phụ.  Celle-ci est un bâtiment colossal édifié au centre du village avec son imposante charpente en bois de fer (gỗ lim). La plupart des maisons sont protégées  par des blocs de murs en   latérite et leurs porches  sont parfois des petits chefs-d’œuvre qui ne peuvent pas laisser indifférent le visiteur.  Le village Đường Lâm continue à garder son charme séculaire face à l’urbanisation galopante qu’on ne cesse pas de voir dans d’autres villages.

Version vietnamienne

Có khoảng chừng 800 mẫu, làng cổ Đường Lâm nằm cách chừng 4 cây số về phiá tây của thị xã Sơn Tây.  Làng nầy chuyên sống về canh nông.  Rất hiếm còn tìm lại được ngày nay một trong những làng cổ còn giữ được những nét cá biệt của một làng Việtnam truyền thống. Nếu vịnh Hạ Long là một tác phẩm của tạo hóa thì làng cổ Đường Lâm ngược lại là một sản phẩm do con người tạo ra. Nó còn giàu có ý nghĩa  nhiều hơn vịnh Hạ Long. Đây là sự nhận xét của nhà nghiên cứu Thái Knid Thainatis. Thật vậy Đường Lâm rất phong phú không những về lịch sữ mà còn luôn cả tập quán. 

 Thời xưa, Đường Lâm  vẫn được gọi là Kẻ Mia (vùng đất trồng mía). Theo truyền thuyết, nghề làm mật mía ở Đường Lâm liên quan đến việc công chúa Mi E tìm thấy một loại cây giống cây sậy. Cô lấy một phần của cây này và ngửi thấy vị ngọt và hương vị thơm mát của nó. Cô rất yêu thích loài cây này nên đã khuyên mọi người nên trồng nó. Theo thời gian, cây mía mọc rậm rạp phủ kín cả một vùng rộng lớn như rừng. Người dân địa phương bắt đầu sản xuất mật mía cũng như kẹo từ nó. Do đó nó có tên là « Kẻ Miá« .

Nhờ các cuộc khai quật khảo cổ xung quanh ở chân núi Ba Vi, người ta phát hiện ra Đường Lâm là lãnh thổ của người Việt cổ. Những người sau này sống tập trung ở đây  trong thời kỳ của nền văn hóa Sơn Vi. Họ  vẫn tiếp tục định cư ở nơi nầy tiếp theo cho bốn nền văn hóa sau đây: Phùng Nguyên (2000-1500 TCN), Đồng Dậu (1500-1000 TCN), Gò Mun (1000-600 TCN) và Đồng Sơn (700 TCN-100 SCN).

Nơi nầy  cũng là đất của hai vua cự phách Phùng Hưng và  Ngô Quyền. Vua đầu tiên thường  gọi là « Bố Cái Đại Vương » rất  đuợc ngưỡng mộ vì ông là lãnh tụ khởi  cuộc nổi dậy chống lại sự đô hộ của nhà Đường còn Ngô Quyền thì có công trạng kết thúc sự đô hộ quân Tàu có gần một thiên niên kỹ qua cuộc thách thức hải quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng.  Cũng chính nơi nầy mà cũng tìm thấy nhà thờ của thám hoa Giang Văn Minh. Ông đuợc đề cử sang Tàu xưng phong dưới thời Hậu Lê. Ông bị trảm quyết bỡi  vua Tàu Minh Tư Tông Chu Do Kiểm (tức hoàng đế Sùng Trinh) vì ông không để vua Tàu làm nhục Việtnam dám đối đáp thẳng thắn  với  một  vế đối lại như sau: Ðằng giang tự cổ huyết do hồng  (Bạch Đằng từ xưa vẫn đỏ vì máu) nhắc lại những chiến công hiển hách trêng sông Bạch Đằng khi nhận một vế  ngạo mạn của vua Tàu:  Đồng trụ chí kim đài dĩ lục (Cột đồng đến giờ vẫn xanh) vì rêu  ám chỉ đến cột đòng  Mã Viện , thời kỳ quân Tàu đô hộ nước Việt dưới thời Đông Hán. 

Một trong những  đặc trưng  của làng cổ nầy là  sự gìn giữ cái cổng làng mà bất cứ ai đến làng cũng phải đi qua cả.  Người du khách có thể bị lạc đường  nếu không nhận ra hướng đi đến đình Mông Phụ.   Đây là một toà nhà to tác được dựng ở giữa trung tâm của làng với một mái hiên oai vệ bằng gỗ lim.  Tất cả nhà ở làng nầy phân đông được bảo vệ qua các bức tường bằng đá ong và các cổng vào thường là những kiệc tác khiến làm du khách không thể thờ ơ được. Làng cổ  Đường Lâm tiếp diễn giữ  nét duyên dáng muôn thưở dù biết rằng  chính sách đô thị hoá vẫn phát triển không ngừng ở các làng mạc khác.

Version anglaise

Occupying about 800 hectares, the village of Đường Lâm is located approximately 4 km west of the provincial town of Sơn Tây. It is practically dedicated to agriculture. It is rare to still find today one of the villages that has preserved the characteristic features of a traditional Vietnamese village. While Ha Long Bay is the work of nature, Đường Lâm, on the other hand, is a creation made by man. It is richer in meaning than Ha Long Bay. This is what the Thai researcher Knid Thainatis noticed. Indeed, Đường Lâm is rich not only in history but also in tradition.

In ancient times, it was still called Kẻ Mia (land of sugarcane). According to a popular legend, the craft of making sugarcane molasses in Đường Lâm tells how Princess Mi Ê found a plant resembling a reed. She took a section of this plant and felt its fresh sweetness and aromatic taste. She liked this plant so much that she advised people to cultivate it. Over time, the sugarcane grew so densely that it covered a large area like a forest. The local population began to produce molasses as well as candies from it. Hence the name « Kẻ Miá« .

Thanks to archaeological excavations around the foothills of Ba Vi mountain, it was discovered that Đường Lâm was the territory of the Proto-Vietnamese. They lived there in large concentrations during the Sơn Vi civilization period. They continued to settle there during the following four cultures: Phùng Nguyên (2000-1500 BC), Đồng Dậu (1500-1000 BC), Gò Mun (1000-600 BC), and Đồng Sơn (700 BC-100 AD).

The village is also the land of two famous kings, Phùng Hưng and Ngô Quyền. The first, known as « Bố Cái Đại Vương » (or Great King Father and Mother of the People), is revered as the liberator from Chinese domination during the Tang dynasty, while the second succeeded in ending 1,000 years of Chinese occupation by defeating the Southern Han fleet on the Bạch Đằng River. It is also here that the altar dedicated to ambassador Giang Văn Minh to the Chinese court is found. He was killed by the Ming emperor Zhu Youjian (Sùng Trinh) because he dared to confront him with a sharp retort in the memorable verse:

Ðằng giang tự cổ huyết do hồng (The Bạch Đằng River has always been red because of blood)
The Bạch Đằng River continues to be stained with red blood.

This was to remind him of the brilliant and decisive victories of the Vietnamese against the Chinese on the Bạch Đằng River, following the arrogant verse he received from the Chinese emperor:

Đồng trụ chí kim đài dĩ lục (Cột đồng đến giờ vẫn xanh vì rêu).

The bronze pillar is still green because of moss.
The bronze pillar continues to be overgrown by green moss. (thus evoking the period of pacification of the Vietnamese territory by the Chinese general Ma Yuan during the Han dynasty).

One of the characteristics of this ancient village lies in the preservation of its main gate through which everyone must pass. Visitors can easily get lost if they fail to locate the Mông Phụ communal house. This is a colossal building erected at the center of the village with its imposing ironwood frame (gỗ lim). Most houses are protected by laterite wall blocks, and their porches are sometimes little masterpieces that cannot leave visitors indifferent. The Đường Lâm village continues to retain its centuries-old charm in the face of the rampant urbanization that is constantly seen in other villages.

Làng cổ Đường Lâm

Bibliographie: 

Lê Thanh Hương: An ancient village in Hanoi, Thế Giới publishers, Hànôi 2012

[RETURN]