Être lettré (Sĩ Phu)

 

 

mandarin

Vietnamese version

English version

Jeune ou âgé, le lettré (Sĩ) est toujours bien considéré dans la société vietnamienne. On lui accorde non seulement tant d’égards mais aussi la première place dans la hiérarchie sociale avant les paysans (Nông), les artisans (Công) et les commerçants (Thương). C’est pourquoi ces derniers ne cessent pas de le ridiculiser à travers les chansons populaires.

Ai ơi chớ lấy học trò
Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm

N’épousez jamais un étudiant
Il a le dos long, cela coûte cher pour le tissu
Une fois repu, le voilà étendu

Muni d’un bagage intellectuel, le lettré ne se laisse pas vexer par ces propos et tente de répliquer avec un air ricaneur:
Hay nằm đã có võng đào
Dài lưng đã có, áo trào nhà vua
Hay ăn đã có thóc kho
Việc gì mà chẳng ăn no lại nằm

 Sĩ phu

Il y a le hamac pour celui qui aime s’étendre
Il y a l’habit octroyé par le roi lorsqu’on a le dos long
Habitué à manger, on a le stock de riz au magasin du roi
Aucune tâche ne se termine par le coucher, une fois repu.

ischol

Cette considération data de l’époque où le confucianisme fut employé comme le modèle unique de l’organisation de l’état.  Le recrutement du lettré en tant que mandarin était basé essentiellement sur les concours littéraires qui avaient lieu tous les trois ans au grand temple de Confucius ou temple de la littérature (Văn Miếu). Celui-ci fut construit par le roi Lý Thánh Tôn en 1070 et fut transformé en 1076 en Collège des Enfants de la Nation (ou Quốc Tự Giám). A partir de 1484, le nom du lettré reçu au concours mandarinal fut inscrit sur le stèle avec la mention de sa date de naissance et de ses exploits.

 

Cette pratique de l’inscription sur stèle ne fut supprimée qu’en 1778. C’est pourquoi le rêve d’être reçu devint une obsession pour la plupart des lettrés. Certains ont été reçus aux concours avec une facilité étonnante (Nguyễn Bĩnh Khiêm, Chu văn An ou Lê Quí Ðôn). D’autres ont échoué plusieurs fois, ce qui a provoqué en eux une amertume virulente. C’était le cas du lettré Trân Tế Xương dont les poèmes avaient toujours une ironie mordante. Son échec sempiternel a influé énormément sur ses œuvres. Outre le savoir littéraire, le candidat reçu ou le futur mandarin devait posséder tous les concepts de mandat céleste, de piété filiale, de fidélité au roi (nghĩa tôi) et toutes les valeurs donnant la cohésion à la vision confucéenne. Doté de ces concepts, le lettré tentait d’honorer sa mission non seulement jusqu’à la fin de ses jours mais aussi au détriment de sa vie.  C’était le cas du lettré Nguyễn Du qui préférait se retirer au lieu de servir la nouvelle dynastie après la chute des Lê. C’était aussi le cas du lettré Phan Thanh Giản décidant de s’empoisonner en recommandant à ses fils de cultiver la terre et de ne postuler aucun poste lors de l’occupation de la Cochinchine par les Français en 1867. Quant au lettré Nguyễn Ðình Chiểu, auteur du best-seller « Lục Vân Tiên » et l’une des plus nobles figures des lettrés, il ne cessa pas d’apporter un soutien moral à la résistance à l’époque coloniale. 

Galerie des photos

Dans sa vision confucéenne, le lettré tentait de maintenir coûte que coûte et d’appliquer strictement ces principes à moins que le roi ne fût plus digne de l’obéissance qui lui était due. Dans ce cas, le lettré épris de justice pouvait renverser le roi car celui-ci était dépossédé du Mandat du Ciel. C’était le cas du lettré Cao Bá Quát qui participa au fameux « soulèvement des Sauterelles » (ou Giặc Châu Chấu) au nom des Lê contre le roi Tự Ðức et qui fut pris et exécuté par ce dernier en 1854. Bien que le lettré fût l’un des piliers fondamentaux de la société sur laquelle tant de dynasties vietnamiennes s’appuyaient, pour gouverner le pays, il était aussi  le défenseur légitime des valeurs morales, en particulier des cinq relations humaines (ou Ngũ Luân c’est-à-dire entre le roi et ses sujets, entre le père et son fils, entre le mari et sa femme, entre le cadet et ses aînés et entre lui et ses amis). Cela permettait d’avoir la cohésion sociale et l’identité nationale à travers des siècles. Pourtant  c’était  le facteur d’immobilisme et d’isolationnisme culturel qui s’avéra mortel pour l’empire des Nguyễn à partir de 1840. En continuant à sous-estimer la puissance étrangère et en maintenant son conservatisme, l’empire des Nguyễn  était incapable de s’adapter aux réformes modernisatrices prônées par le lettré moderniste Nguyễn Trường Tộ. Il devenait ainsi l’obstacle majeur à toute mutation dont le Vietnam avait besoin pour faire face aux ambitions des puissances étrangères, ce qui le condamnait à disparaître  lors de la conquête française.

Le lettré faisait partie d’une population de 40000 personnes dont 20000 environ furent des détenteurs de grades en 1880. Le dernier lettré connu pour son patriotisme et pour son réformisme, était le lettré Phan Chu Trinh (ou Tây Hồ ). Celui-ci était partisan des réformes et prônait la priorité du progrès global de la société et de la diffusion du savoir moderne sur la simple indépendance politique. Sa déportation à Poulo Condor et surtout son décès en 1926 ont mis fin au rêve de tous les Vietnamiens de retrouver le Vietnam indépendant avec une politique de non-violence et de décolonisation graduelle que le lettré a prônée et défendue avec acharnement et conviction pendant tant d’années.

Phan Chu Trinh

phanchutrinh

Son état d’âme, il essayait de révéler à travers son poème intitulé

Le Cierge

 

Il veut de sa flamme luire jusqu’au fond des ténèbres
Car son cœur est brûlé du souci d’éclairer
Mais la porte entrouverte laisse filtrer la bise 
Dans la nuit qui finit, à qui confier ses larmes ?

Đèn Sáp

Cháy đầu bởi đỡ cơn tăm tối,
Nóng ruột càng thêm sự sáng soi.
Mở cửa vì đâu nên gió lọt,
Trót đêm nhỏ giọt tỏ cùng ai.

Ce sont les larmes d’un grand lettré vietnamien. Mais c’est aussi le cri du désespoir d’un grand patriote vietnamien

face au destin de son pays.

Être jeune au Vietnam (Thời thiếu niên)

etrejeune

Sống thời thiếu niên

French version

English version

Mặc dù  chiến tranh đã tàn phá đất nước này bao nhiêu năm qua, những đứa  trẻ Việt vẫn tiếp tục mong muốn khát khao được sống. Ở đất nước này, «Sống trẻ» luôn luôn  là một kỳ tích bởi vì điều kiện sinh sống rất cực kỳ  khó khăn cũng như  thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt nhất là ở các vùng núi miền Bắc và các  vùng đất  Tây Nguyên. Phải biết chịu đưng được thời tiết khắc nghiệt  của thiên nhiên mà còn phải biết tinh ranh và hoà  mình sống chung với những sinh vật hoang dã nhất là phải biết khắc phục được chúng. Các thiếu nhi bắt đầu đi làm việc rất «sớm» ở Việt Nam.

Ngay từ khi còn lúc nhỏ ở các vùng nông thôn, các đứa trẻ biết chăn trâu, thả trâu ăn cỏ  trên các bờ đê trong khi các thiếu nữ lo giúp việc nhà. Tuy còn nhỏ tuổi, các thiếu  nữ mới sáu, bảy tuổi mà đã biết nấu cơm, bế em trai, cho heo vịt ăn, biết múc nước cho gia súc uống hay là  tham gia vào các nghề thủ công của gia đình.

Trong những năm chiến tranh leo thang, các thiếu niên còn có nhiệm vụ đào các hầm hào  dọc theo bờ đê để  ẩn trốn khi có các máy bay tiến đến gần, sống trong các đường hầm nhầm để tránh khỏi các trận oanh tạc. Các thiếu nữ thì có công việc làm nhiều gấp đôi hơn các thanh niên. Đôi khi  các thiếu nữ  còn  là những nạn nhân  đầu tiên bị  bán làm nô lệ hoặc làm  vợ với giá tiền vài kilô gạo khi chúng không có thể tiếp nuôi gia đình nhiều con vào những năm 1930 và 1940. Cuốn tiểu thuyết “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố xuất bản năm 1930 đã nhắc nhở chúng ta về thực tế này. Nếu ngày nay, tuy cái thói quen này bị cấm, chúng ta vẫn còn thấy một số lượng không ít  các cô gái trẻ bán mình  trên vỉa hè ở các thành phố lớn. Ở  các nơi nầy, mặc dù giáo dục được miễn phí ngày nay, nhiều đứa bé trẻ tuổi, phải đi làm những công việc lặt vặt, bán thuốc lá, bán báo, nhặt túi ni lông,  vân vân .. để phụ giúp gia đình. Các điều kiện sinh sống cũng còn tồi tệ. Nhiều thiếu  niên xuất thân từ những gia đình nghèo khó vẫn  tiếp tục sống trong những căn lều tồi tàn, tăm tối và  bẩn thỉu kinh khủng. Có ít  nhất 67.000 nhà  ổ chuột ở Sàigòn vào cuối năm 1994. Đây là con số mà  được chính quyền công bố và báo chí đăng tải. Chúng ta vẫn tìm thấy những cảnh tượng mà được tiểu thuyết gia Khái Hưng miêu tả trong quyển có tựa đề  « Đầu Ðường Xó Chợ » với  các vỉa hè và các rãnh nước ngổn ngang rác rưới  vỏ rau, lá chuối và những mảnh vải vụn trong những xóm nghèo ở các thành phố lớn.

Trước sự thờ ơ của xã hội, tiểu thuyết gia Duyên Anh đã không ngần ngại tố giác sự nghèo khó của những đứa trẻ này trong các tiểu thuyết của ông mà trong đó được nổi tiếng nhất vẫn là quyển có tựa đề « Ngọn đồi của Fanta« . Lấy cảm hứng từ cuốn tiểu thuyết này, đạo diễn Rachid Bouchareb đã  kể  lại câu chuyện về những đứa con lai phải trả giá cho sự điên rồ của các người lớn và chiến tranh trong phim có  tựa đề tên là  « Bụi đời  (hay Poussières de vie)»  vào năm 1994.

Bất chấp những thiếu thốn trong cuộc sống, các đứa trẻ vẫn thích sống ở đất nước này vì nếu chúng không có  được  cả núi đồ chơi và quà tặng mà các trẻ em ở phương Tây được có gần đến lễ Noël thì  chúng lại có những trò chơi phổ biến, những kỷ niệm của tuổi thơ khó mà quên được. Ở nông thôn, chúng có thể đi câu cá trên cánh đồng lúa và đặt bẫy trong các kênh rạch  để bắt tôm cá. Chúng có thể  săn  bướm và bắt chuồn chuồn bằng cách  làm bẫy  từ các thanh tre. Có thể trèo cây để tìm tổ chim. Săn dế vẫn là trò chơi yêu thích của hầu hết các đứa trẻ Việt lúc còn bé.

Chia ra từng  nhóm, đôi tai mở to lắng nghe tiếng kêu của dế, mắt nhìn chăm chú  mọi ngóc ngách, chúng cố gắng xác định vị trí các hang ổ chứa mà từ đó  ra tiếng dế gáy. Chúng hay thường làm cho dế chui ra khỏi lỗ bằng cách cho nước vào  hay nước tiểu, sau đó nhốt nó trong hộp diêm, làm cho nó gáy với những chiếc lông nhỏ hoặc cho nó uống một chút rượu đế  để kích thích nó trong các trận chọi dế.

Ở các thành phố, chúng  chơi đá  bóng bằng chân trần, ở giữa đường phố. Các trận đấu thường bị gián đoạn bởi những chiếc xe đạp vượt qua. Chúng cũng hay chơi đá cầu  trên các đường phố.

Sinh ra trong thời  chiến tranh, các đứa trẻ  Việt không hề coi thường các trò chơi  chiến tranh. Chúng tự làm súng bằng các bìa cứng hoặc gỗ hay  chúng  chiến đấu bằng kiếm với  các nhánh cây. Chúng cũng có thể chơi trò thả diều. Tuổi thơ này, tuổi trẻ này, người Việt nào cũng từng có, kể cả tiểu thuyết gia Marguerite Duras.

Bà không ngần ngại nhớ lại thời thơ ấu ở Đông Dương của mình trong cuốn tiểu thuyết  « Các nơi (Les lieux) »: Tôi và anh trai, chúng tôi ở cả ngày, không phải ở  trên cây mà ở trong rừng và trên sông, nơi được gọi là rạch. Đấy là những dòng nước nhỏ này được chảy xuống biển. Chúng tôi không bao giờ mang giày cả, chúng tôi sống một nửa khỏa thân, chúng tôi thường  tắm ở sông.

Ở  một đất nước mà chiến tranh đã tàn phá quá nhiều  với  13 triệu tấn bom và sáu mươi triệu lít chất gây rụng lá được trút xuống, « sống  trẻ » trong những năm 60-75 đã là một sự ưu ái của số mệnh. Những đứa  trẻ Việt ngày nay không còn biết sợ hãi và căm thù như những đàn anh của họ, nhưng họ vẫn tiếp tục có một tương lai quá bấp bênh.

Mặc dù vậy, trong cái nhìn của họ, lúc nào vẫn luôn luôn có  một tia sống mãnh liệt, một tia hi vọng tràn trề. Đấy thường được gọi là “kỳ  diệu của tuổi thơ và tuổi trẻ Việt Nam”. Phải sống thời niên thiếu ở đất nước nầy mới có  sự quyến luyến, một  ấn tượng mãi mãi  thấm thía.

ijeune

Être jeune

Malgré la guerre qui a ravagé ce pays depuis tant d’années, les jeunes vietnamiens continuent à avoir ardemment la rage de vivre. Dans ce pays, « Etre jeune » relève toujours de l’exploit car les conditions de vie sont extrêmement dures comme la nature aussi  rude et impitoyable, en particulier dans les régions montagneuses du Nord Vietnam et sur les Hauts Plateaux du Centre. Il faut savoir résister vaillamment aux intempéries de la nature mais il faut apprendre à vivre et à ruser aussi avec les créatures sauvages et surtout à les combattre.  

On commence à travailler « très jeune » aussi au Vietnam. Dès leur plus jeune âge dans les zones rurales, les garçons savent garder les buffles et  les font paître sur les diguettes tandis que les filles aident aux travaux de la maison. Très jeunes, à six ou sept ans, elles savent faire cuire du riz, porter leur petit frère, nourrir les cochons et les canards, porter à boire aux animaux familiers ou participer aux travaux artisanaux familiaux. Dans les années où la guerre a pris de l’ampleur, les jeunes étaient chargés aussi de creuser des tranchées le long des diguettes pour s’y jeter à l’approche des avions et  vivaient dans des souterrains et des tunnels pour échapper aux bombardements. Les filles ont deux fois plus de travaux que les garçons. Ce sont elles qui étaient les premières victimes  à être proposées et vendues comme esclaves ou concubines pour quelques kilos de riz lorsqu’on n’arrivait plus à nourrir une famille de plusieurs enfants dans les années 30-40. Le roman de Ngô Tất Tố  «Quand la lampe s’éteint», paru en 1930, nous rappelle cette réalité. Si de nos jours, cette pratique est interdite, on constate quand même un grand nombre de jeunes filles prostituées sur les trottoirs des grandes villes. Dans ces dernières, malgré l’enseignement gratuit aujourd’hui, pour pourvoir à la subsistance de leur famille, beaucoup de jeunes doivent vaquer encore  à leurs petits boulots, vendre des cigarettes ou des journaux, ramasser des sacs en  plastique etc. Les conditions de vie sont aussi lamentables. Beaucoup de jeunes issus des familles de traîne-misère et de la guerre continuent à grouiller toujours dans des enchevêtrements de baraques mal consolidés, sombres et affreusement sales. Il y aurait 67000 taudis à Saigon fin 1994. C’est le chiffre retenu par les autorités et diffusé par la presse. On retrouve encore les scènes décrites par le romancier Khái Hưng dans son ouvrage intitulé « Les bas-fonds (Ðầu Ðường Xó Chợ) » avec des trottoirs et des rigoles encombrés en permanence de déchets, d’épluchures de légumes, de feuilles de bananiers et des lambeaux de chiffons dans les quartiers pauvres des grandes villes. 

Face à l’indifférence de la société, le romancier Duyên Anh n’a pas hésité à dénoncer l’indigence de ces jeunes dans ses romans dont le plus connu reste le best-seller « La Colline de Fanta ». En s’inspirant de ce roman, le réalisateur Rachid Bouchareb a retracé l’histoire des amérasiens qui paient le prix de la folie des adultes et de la guerre dans son film « Poussières de vie » en 1994.  

Malgré les carences de la vie, on aime à être jeune dans ce pays car si on n’a pas les montagnes de jouets et de cadeaux qui submergent nos enfants en Occident à l’approche de Noël, on a en revanche des jeux populaires, des souvenirs d’enfance inoubliables. Dans les campagnes, on peut aller pêcher dans les rizières et poser les nasses dans les arroyos pour attraper les crevettes et les petits poissons. On peut chasser les papillons et attraper les libellules avec des pièges faits avec les tiges de bambou. On peut grimper dans les arbres pour chercher des nids d’oiseaux. La chasse aux grillons reste le jeu préféré de la plupart des jeunes vietnamiens lorsqu’ils sont encore jeunes.

En se promenant en groupe, les oreilles grandes ouvertes au chant  des grillons, les yeux scrutant les moindres recoins, on essaie de repérer les tanières d’où sort le chant. On a l’habitude de faire sortir le grillon de son trou en l’inondant de l’eau ou de son urine, puis de l’enfermer dans des boîtes d’allumettes, de le faire chanter avec des petites plumes ou de lui faire boire un peu d’alcool de riz pour l’exciter lors des combats des grillons.

Dans les villes, on joue au foot avec les pieds nus, au milieu de la rue, les poteaux des buts étant constitués par les vêtements entreposés. Les matchs sont souvent interrompus par le passage des vélos. On joue aussi au jeu de volant au pied (ou Ðá Cầu) dans la rue.

Nés dans la guerre, les jeunes vietnamiens ne dédaignent pas les jeux de la guerre. On fabrique soi-même les fusils en carton ou en bois, on se bat avec des épées en branches. On peut jouer aussi aux jeux des cerfs-volants. Cette enfance, cette jeunesse, tous les Vietnamiens l’ont eue même la romancière Marguerite Duras. Celle-ci n’hésitait pas à rappeler son enfance indochinoise dans son roman « Les lieux »: Mon frère et moi, on restait partis des journées entières pas dans les arbres mais dans la forêt et sur les rivières, sur ce qu’on appelle les racs (rạch), ces petits torrents qui descendent vers la mer. On ne mettait jamais de souliers, on vivait à moitié nus, on se baignait dans la rivière. 

Dans ce pays où la guerre a tant ravagé et où les treize millions de tonnes de bombes et soixante millions de litres de défoliants ont été versés, être jeune dans les années 60-75 était déjà une faveur du destin. Les jeunes du Vietnam actuel ne connaissent plus la peur et la haine de leurs aînés mais ils continuent à avoir un avenir incertain.

Malgré cela, dans leur regard, il y a toujours une lueur de la vie intense, une lueur d’espoir débordante. C’est ce qu’on appelle souvent « la magie de l’enfance et de la jeunesse vietnamienne. Il faut être jeune dans ce pays pour avoir un tel attachement, une impression toujours poignante. 

Le vieux quartier de Hànội (Phố Cổ Hànội)

 

English version

Version vietnamienne

Le « vieux quartier de Hanoï »  confère au fil du temps une impression d’enchantement romantique et charmant malgré la vétusté de ses maisons tubulaires (nhà ống) et de son vieux quartier de 36 rues et corporations. Ce dernier qui s’étend sur une surface de 82 ha, fut établi à cette époque selon les critères mentionnés par la géomancie, une discipline asiatique permettant de trouver les conditions idéales dans la recherche de l’équilibre et l’harmonie entre l’eau et la terre et surtout entre le souffle bienfaisant (Dragon Bleu) et le souffle malfaisant (Tigre Blanc). Chaque rue a sa spécialité: rue de la soie aux écharpes multicolores, rue des médicaments au parfum d’herbes aromatiques etc., c’est ce qu’a raconté Roland Dorgelès dans son livre  » Sur la Route mandarine« . Dans son livre intitulé « Une description du royaume de Tonkin », le commerçant anglais Samuel Baron en a parlé avec ses illustrations et ses descriptions intéressantes. 
Malgré sa taille insignifiante par rapport à celle du Vietnam, le vieux quartier de Hanoï témoigne incontestablement de la culture commerciale et urbaine des Vietnamiens au fil de plusieurs siècles. C’est un modèle dont on a besoin pour connaître d’une manière approfondie la structure traditionnelle de la « ville » dans le monde rural des Vietnamiens.

Phố Cổ Hànội

Galerie des photos

titre_vieux_hanoi_1

Vieux  quartier de Hanoï

Le vieux quartier de Hanoï a mille ans d’histoire même si ce dernier  est chaotique. Hanoï  a été prévue par le roi Lý Thái Tổ pour dix mille générations à venir lors du transfert de la capitale. Hanoï reste non seulement la capitale éternelle des Vietnamiens mais aussi la seule ville de l’Asie du Sud-Est ayant  réussi à garder sa cité marchande au fil des siècles.

Au fil de la nuit

Thu Quyến Rũ (La séduction de l’automne) de Đoàn Chuẫn-Từ Linh. 

Saxophoniste Quyền Văn Minh.

Ce morceau est extrait de l’album  » Hànội mùa thu và em » (Hànội, l’automne et mon amour).

Version vietnamienne

Trãi qua nhiều thế kỷ, dù  rất cũ kỹ với các căn nhà ống và khu 36 phố phường, phố cổ Hànội vẫn lưu lại đươc  cho những  ai có dịp đến tham quan một cái cảm giác lãng mạn và thú vị không sao diễn tả được. Tuy có một diên tích quá nhỏ hẹp 82 ha, phố cổ buôn bán Hànội đựợc xây cất ở thời kì phong kiến dựa trên các tiêu chí đựơc giãi bày theo khái niệm Phong Thủy để có được những điều kiện thuận lợi trong việc tìm kiếm sự thăng bằng và hoà điệu giữa nước và đất,  nhất là giữa dương và âm khí. Đặc trưng của mỗi con đường ở phố cổ là nó có nghề nghiệp riêng biệt: Hàng Đào với các khăn quang cổ bằng tơ lụa đủ màu, Hàng Thuốc Bắc với mùi hương của các loại thảo mộc vân vân… đó là những lời đựọc ghi kể lại của nhà văn hào Pháp Roland Dorgelès trong quyển sách truyện  » Sur la Route mandarine« . Trong quyển được mang tên là  » Une description du royaume de Tonkin ( Miêu tả  về vương quốc Bắc Kỳ ) », ông Samuel Baron, một thương gia người Anh có nhắc đến phố cổ qua một số tài liệu hình ảnh và những mô tả thú vị. Tuy rằng nhỏ hẹp so với diện tích của Việtnam, khu phố cổ Hànội nó là một minh chứng tiêu biểu của  nền văn hóa thương mại và đô thị của người Việt qua nhiều thế kỷ. Đây là một kiểu mẫu mà cần thiết phải biết tường tận để hiểu được cái cấu trúc truyền thống của đô thị trong thế giới làng mạc của người Việt.

Phố cổ Hànội đã có nghìn năm lịch sữ dù nó trãi qua bao nhiêu biến cố thăng trầm. Với chiếu dời đô, Lý Thái Tổ trù liệu Hànội sẻ là kinh đô của muôn đời sau. Hànội không những là thủ đô đời đời của người Việt mà  nó còn là  một thành phố duy nhất ở Đông Nam Á còn giữ được một khu phố buôn bán qua nhiều thế kỷ.

 

 

Les fleurs dans la culture vietnamienne

English version
Vietnamese version

img_6909
Les fleurs dans la culture vietnamienne

Dans leur tradition culturelle, les Vietnamiens accordent une grande importance aux fleurs. On constate leur préférence marquée pour les noms des fleurs dans le choix des prénoms féminins. On a même une anecdote sur le prénom que le grand roi Lý Thánh Tôn de la dynastie des Lý a choisi pour sa concubine impériale Ỷ Lan connue plus tard sous le nom Linh Nhân Hoàng Hậu. Un jour, sur le chemin de retour dans la capitale, le roi fut accueilli par les villageois en liesse. Il s’aperçut qu’il y avait une jeune paysanne d’une beauté extraordinaire continuant à l’observer timidement de loin tout en s’adossant à un magnolia. Désireux de la connaître, il la fit venir devant lui. Épris de sa beauté et de son intelligence, le roi lui demanda de l’épouser et lui accorda le prénom  » Ỷ Lan  » (Ỷ Lan càd s’adosser à un magnolia). Elle fut connue plus tard dans l’histoire du Vietnam comme l’une des plus grandes reines prenant un grand nombre de mesures sociales pour les déshérités et les femmes surtout.

Par contre, il y a un prénom « Hoa (ou Fleur en français) » que personne n’avait le droit de prendre sous la dynastie des Nguyễn. C’est celui de la favorite Hồ Thị Hoa du prince héritier Nguyễn Phước Ðảm, le futur empereur Minh Mạng. Etant morte de façon prématurée, celle-ci était la fille du mandarin Hồ Văn Bôi et servait pieusement ses beaux- parents, l’empereur Gia Long et l’impératrice Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu.

Pour immortaliser l’affliction qu’ils continuaient à porter à leur bru, ils interdirent désormais à leurs proches et à leurs sujets l’usage du mot « Hoa » non seulement dans le choix des prénoms mais aussi dans l’attribution des noms aux édifices publics. À cause de cette interdiction, le marché Ðông Hoa de Huế devint ainsi le marché central Ðông Ba. La province Thanh Hoa fut appelée désormais la province Thanh Hoá. Le pont enjambant la rivière Thị Ghè à Saigon changea de nom et prit le nom Cầu Bông à place du nom Hoa Bắc . Pourtant « Hoa » est le mot le plus employé dans le chef d’œuvre de la littérature vietnamienne Kim Vân Kiều de Nguyễn Du. Sans compter les noms des fleurs évoqués, on y recense au moins 130 vers portant le mot « Hoa ». De plus, ce dernier figure dans un grand nombre de termes et d’expressions ayant des connotations florales dans la littérature vietnamienne:

  • Hoa diện, mặt hoa : visage fleuri (Avoir un beau visage)
  • Hoa chúc: Fleur de la torche (la lampe de la chambre nuptiale)
  • Hoa niên: Fleur de l’âge (la jeunesse)
  • Hoa tay: Avoir la pulpe des doigts en forme de la fleur (être très adroit)
  • Số đào hoa: être né sous l’étoile de la fleur de pêcher (Etre le préféré des femmes)
  • Nguoi tài hoa: Homme de talent à l’image d’une fleur (Etre talentueux et distingué)
  • Hoa tai : Fleur de l’oreille (Boucle d’oreille)
  • Hoa đèn: Fleur de la lampe (charbon de la mèche d’une lampe à huile)
  • Hoa khôi: Fleur de premier rang (Être la plus belle fille)
  • Hoa đá: Fleur de pierre (Corail)
  • Hoa vương: Reine des fleurs (Pivoine)

 

Những loại hoa trong nền văn hóa Việtnam

En ce qui concerne la fleur de pierre, il y a une anecdote rappelant l’époque où le Vietnam fut troublé par les guerres internes incessantes entre les deux familles gouvernantes, les Trịnh et les Nguyễn. C’est l’une des farces d’un mandarin de nom Nguyễn Quỳnh servant le seigneur Trịnh Cương et connu fréquemment sous le pseudonyme « Cống Quỳnh » ou « Trạng Quỳnh ». Le seigneur Trịnh Cương était très gourmand. Il ne pensait qu’à vivre dans l’opulence et dans la débauche. C’était pour cela que Cống Quỳnh tenta de le ramener à la raison et à la sagesse. Il lui dit qu’il savait préparer un petit plat très délicieux connu sous le nom Hoa đa’ (Fleur de pierre).

Le seigneur Trinh Cương lui demanda de le préparer. Mais il précisa au seigneur qu’il fallait attendre au moins deux jours pour pouvoir savourer ce plat car il devait le mijoter durant cette période. Le seigneur Trịnh Cương accepta cette proposition. Rentré chez lui, il demanda au serviteur d’aller chercher au marché les algues comestibles et de les mijoter avec de l’eau. Affamé par cette longue attente, le seigneur Trịnh reconnut que le plat préparé par Cống Quỳnh était délicieux même s’il ne contenait que des légumes après l’avoir goûté et mangé. On trouve quelques romans célèbres classiques portant les noms des fleurs. C’est la cas du roman Nhị Ðộ Mai (Les pruniers ont refleuri) et Hoa Tiên (Les feuillets fleuris). Le premier écrit par un auteur anonyme  contient 2826 vers écrits en nôm et il provient d’une oeuvre chinoise. C’est l’histoire de fidélité au roi ainsi que la piété filiale, la loyauté, la gratitude et l’amour. Quant au deuxième roman, il a été composé par le lettré Nguyễn Huy Tự. Ce roman comprend plus de 1770 vers écrits en Six-Huit pieds (lục bát). C’est le premier poème romantique vietnamien tout en restant fidèle à la pensée confucéenne.

 

 

Malgré une grande variété d’espèces florales trouvées sur cette terre des légendes, les Vietnamiens ne cachent pas leur préférence à certaines plantes. Ils n’hésitent pas à classer quelques-unes dans la catégorie des plantes nobles. Parmi celles-ci, on peut citer :
 
Mai (Fleur d’abricotier)
Lan (Magnolia)
Cúc (Chrysanthème)
Sen (Lotus)
Mẫu đơn (Pivoine)
Hoa hồng (Rose)

Ces plantes ou leurs fleurs ont chacune une signification particulière et éthique dans la tradition vietnamienne. L’abricotier (mai) est le symbole de l’homme supérieur. Il arrive à résister au froid et aux intempéries de la nature et continue à fleurir au mois de février, ce qui le permet de symboliser le printemps dans la représentation des quatre saisons (Tứ Thì). A l’occasion du Tết, pour un Vietnamien, il ne manque jamais sur l’autel des ancêtres quelques branches de l’abricotier (ou de pêcher) en fleurs qui sont choisies de manière que les fleurs éclosent jusqu’au moment de la fête. La fleur d’abricotier est très adorée par les lettrés et les intellectuels vietnamiens. Un homme de caractère et indépendant comme Cao Bá Quát, qui ne sachant pas se plier aux servitudes mandarinales, dut reconnaître que, durant toute sa vie, il ne courbait que sa tête devant la fleur d’abricotier.

Nhất sinh đê thủ bái hoa mai
Suốt đời chỉ cúi đầu trước hoa mai
Toute ma vie, je ne courbe que ma tête devant la fleur d’abricotier.

Un autre lettré Ðào Tấn, le père des pièces de théâtre de la région Bình Ðịnh dans le Centre du Vietnam, nourrissait aussi l’espoir de mourir un jour auprès des pruniers. C’était pourquoi, de son vivant, il a choisi son pseudonyme « Mộng Mai (Rêver aux fleurs de prunier) et a eu l’occasion de révéler son état d’âme à travers les deux vers trouvés dans l’un de ses poèmes :

Núi mai rồi giữ xương Mai nhé
Uớc mộng hồn ta là đóa Mai

C’est la montagne des pruniers où sera enterré ma squelette d’abricotier.
Je continue à rêver que mon âme serait la fleur d’abricotier.

Ce n’était pas une utopie pour lui car lors de sa mort (juillet 1907) on l’a enterré à la montagne Huỳnh Mai qui est éloignée du jardin des pruniers de quelques kilomètres. Contrairement aux Chinois, ce sont les fleurs d’abricotier  et de lotus qui sont plus appréciées que la pivoine. C’est pour cela qu’on les appelle Hoa Khôi (Fleurs de premier rang).

On a une préférence pour la fleur d’abricotier car le lotus est réservé plutôt au bouddhisme bien qu’il soit aussi le symbole de l’homme de qualité confucéen (junzi). C’était la plante choisie par le lettré Mạc Ðỉnh Chi pour révéler son talent inouï et son génie indescriptible lorsque le roi Trần Anh Tôn hésita à le nommer « Premier docteur » en le trouvant trop laid au moment de la remise du diplôme. Pour convaincre le roi, il se compara au lotus dans un puits en jade en composant devant le roi le poème intitulé « Ngọc tỉnh liên phú (Le lotus dans un puits de jade) ».

Giống quý ấy ta đây có sẳn
Tay áo nầy ta chứa đã lâu
Phải đâu đào , lý thô màu
Phải đâu mai, trúc dãi dầu tuyết sương
Cũng không phải tăng phường câu kỷ
Cũng không là Lạc Thủy mẫu đan
Cũng không là cúc, là lan
Chính là sen ở giếng vàng đầu non.

Cette espèce précieuse, je l’ai eue à ma disposition
La manche de cette veste l’a contenue depuis longtemps
Elle n’est ni le pêcher, ni le jambosier perdant l’éclat de la couleur
Elle n’est ni l’abricotier ni le bambou exposés aux intempéries de la neige et des rosées
Elle n’est pas non plus la baie dont l’odeur doit être évitée
ou la pivoine de Lạc Thủy (1),
ou le chrysanthème ou la fleur du magnolia
mais c’est le lotus dans un puits en or au sommet de la montagne.

Mạc Ðỉnh Chi a eu l’occasion de composer une oraison funèbre en l’honneur de la disparition d’une princesse mongole lorsqu’il avait été envoyé en Chine comme l’ambassadeur du Vietnam. Ce jour là, devant la cour impériale, on lui a donné un papier sur lequel il y avait quatre lignes, chacune contenant un seul mot « premier » ( một ). C’était à lui l’honneur de composer le poème et de compléter le reste des lignes pour rendre un vif hommage à la mémoire de cette princesse. Imperturbable, il réussît à le faire à la surprise et à l’admiration de toute la cour impériale mongole en désignant la princesse comme une fleur:

Trời xanh một đám mây
Lò hồng môt giọt tuyết
Vườn thượng uyển môt cành hoa
Cung quảng hàn (2) một vầng nguyệt
Than ôi! Mây tan! Tuyết tiêu!
Hoa tàn! Trăng khuyết !

Le ciel d’azur a un amas de nuages
La poutre de couleur rose a une goutte de neige 
Le jardin impérial a une branche de fleur 
Le palais Quảng Hàn (2) a un disque lunaire
Dommage ! Les nuages disparaissent ! La neige fond !
La fleur se fane ! La lune est incomplète!

Quant au chrysanthème, il est non seulement l’apanage de l’automne mais aussi le symbole de la sérénité et l’indifférence des gens aux honneurs et à la gloire . Analogue à la fleur d’abricotier, la fleur du magnolia est le symbole de la beauté féminine. Elle désigne souvent une jeune fille dans les compositions poétiques.

Bien que la pivoine soit considérée comme une fleur noble, elle n’a pas la portée significative comme elle continue à l’avoir en Chine (3). Probablement, à cause de l’influence chinoise, on continue à garder cette coutume. La pivoine est évoquée souvent dans l’art ornemental vietnamien ou dans les légendes (Histoire du mandarin Từ Thức et de l’Immortelle Giáng Hương par exemple).

Quant à la rose, elle est le symbole de l’amour et de l’affection. Pour connaître la valeur et la portée de signification que les Vietnamiens accordent à cette fleur, il faut lire le roman « Bông Hồng cài áo (Une rose agrafée sur la veste) » du moine zhen vietnamien Thích Nhất Hạnh. Il tente de nous rappeler à travers sa narration que chacun de nous a une mère unique à laquelle nous négligeons de penser à cause des aléas de la vie. Nous oublions souvent que si nous avons encore aujourd’hui chacun de nous, une mère, c’est que Dieu nous laisse encore un trésor inestimable. Nous avons encore la chance de pouvoir l’aimer et de lui montrer notre affection. C’est pour cela que nous pouvons continuer à agrafer une rose sur notre veste car seuls, nous avons encore cette joie immense, intime et indescriptible que tant de gens n’ont plus eu depuis longtemps. Sur cette terre des légendes on ne voyait plus  des fleurs blanches de myrte (Hoa Sim) déposées par les jeunes filles sur les tombes de leurs amants ayant succombé vaillamment pour défendre leur idéal et leur patrie. Ceux-ci n’avaient pas la chance d’y voir revenir un jour la paix. Ils n’avaient pas l’occasion d’agrafer sur leur veste une rose même si leur mère serait encore en vie. C’est à ces gens valeureux que tous les Vietnamiens veulent offrir une rose pour l’amour qu’ils ont eu vraiment pour ce pays. Ils veulent leur montrer leur sincère affection et leur profonde reconnaissance. Sans la bravoure, le sacrifice et la grandeur d’âme de ces gens, le Vietnam ne pourrait pas garder jusqu’à aujourd’hui son indépendance, son identité culturelle et  ses traditions millénaires.


(1) Lạc Thủy : un fleuve connu en Chine.
(2) Cung quảng hàn : le palais mythique chinois trouvé sur la lune.
(3): Une anecdote sur la pivoine de Luoyang avec l’impératrice Wu Ze Tian ( Võ Tắc Thiên) de la dynastie des Tang.

Capitale Hanoï (Thủ đô)

 

Thăng Long muôn thưở 

English version
Version française
Galerie des photos

Đúng như tên được gọi trong chữ Hán, Hà Nội có nghĩa là « thành phố ở  phiá bên sông » (Hà có nghĩa là sông,  nội là ở trong). Không tựa như các thành phố khác ở Việt Nam, Hà Nội có một lịch sử lâu dài và nhiễu nhương. Định mệnh của nó cũng là định mệnh của dân tộc Việt Nam. Nó  có một thời kỳ  bị thất sủng khi Nguyễn Ánh thành công trong việc thành lập triều Nguyễn vào năm 1802 sau 20 năm chiến đấu chống với nhà Tây Sơn và quyết định dời  thủ đô về Huế (hay Phú Xuân).

Nó đã chứng kiến ​​nhiều trận chiến quyết định trong cuộc giành lại độc lập, đặc biệt là trận Đống Đa do hoàng đế Quang Trung lãnh đạo vào năm 1789. Nhờ cuộc chiến  chớp nhoáng chống lại quân Thanh (Trung Quốc) và nhờ  chiến lược tài ba  của Quang Trung chọn ngày Tết của người  dân Việt để tập kích bất ngờ  quân thù Trung Hoa, Hà Nội  được giải phóng cũng toàn thể nước Việt Nam. Đây cũng là  thành phố mà được Hồ Chí Minh chọn để tuyên bố  sự độc lập của Việt Nam vào ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình. Cũng tại Hà Nội, một ngôi chùa  một cột được xây dựng vào năm 1049 bởi vua  Lý Thái Tôn  theo phong cách của những ngôi đền cổ xưa.

Hànội vắng những cơn mưa

Saxophoniste Quyền Văn Minh

Theo truyền thuyết, nhà vua đau buồn vì không có hậu duệ,  nằm mơ thấy được Phật bà Quan Âm ngồi trên một  toà sen trao cho ông một đứa con trai. Ít lâu sau, một phụ nữ nông dân trẻ mà ông yêu thích, đã sinh cho ông một người thừa kế. Để bày tỏ lòng biết ơn, ông dựng ngôi chùa này ở giữa một cái ao có hình bông hoa sen.

Tọa lạc gần sông Hồng, mỗi năm Hànội là nạn nhân của  các lũ lụt của sông và các  mưa gió mùa và các trận bão lớn. Mặc dù vậy, Hà Nội vẫn tiếp tục là thủ đô của Việt Nam thống nhất mãi mãi. Không ai dám tranh cãi di sản chính trị và văn hóa mà thủ đô đã để lại cho người dân Việt Nam.  Đối với tất cả người dân Việt Nam Hà Nôi  không chỉ là một biểu tượng đoàn kết dân tộc mà còn là niềm tự hào của một dân tộc nông dân dũng cảm hiên ngang chống lại thời tiết khắc nghiệt và tham vọng của quân xâm lược.

Trước khi trở thành kinh đô của Việt Nam, Hà Nội là trụ sở hành chánh của quân xâm lược Trung Quốc vào năm 607 và mang tên « Tống Bình ». Vào năm 866, nơi  này có được  một bức tường của Đại La,  hiện nay còn  có một số dấu tích. Thành phố nầy được chọn bởi người sáng lập triều đại Lý, nhà vua Lý Công Uẩn vào năm 1010 và trở thành là  kinh đô mới của Việt Nam thay thế kinh đô Hoa Lư. Theo truyền thuyết, trong giấc mơ, nhà vua nhìn thấy một con rồng vàng bay lên  ở khu vực này. Chính vì lý do này mà Hà Nội được gọi vào thời điểm đó là « Thăng Long » (con rồng bay lên). Địa điểm này được xem thuận lợi so với các địa điểm khác bởi vì nó nằm giữa hà và sơn, nước và núi, ở giữa những cánh đồng lúa và được bảo vệ tránh các lũ lụt nhờ các con  đê. Vào thế kỷ 15, Hà Nội lấy tên là Đông Kinh. Sau đó, lấy lại tên Thăng Long cho đến khi kinh đô được dời  về Huế. Sau đó, nó được đặt tên là Thành Tích, rồi đến tên  Bắc Thành trước khi trở lại với tên  Hà Nội chỉ vào năm 1931. Nó trở thành thủ đô của Bắc Việt Nam sau hiệp định Genève năm 1954 và trở thành từ  sau biến cố  năm 1975, là thủ đô của Việt Nam thống nhất. 

Hànôi  gồm có 913  cây số vuông. Nội thành của nó (40 cây số vuông) được chia thành bốn quận: Quận Hoàn Kiếm, Quận Hai Bà Trưng, ​​Quận Đống ĐaQuận Ba Ðình. Nó cũng có 6 huyện ngoại thành và nhiều ngôi làng nằm ở trong  phạm vi ranh giới của nó.

Linh hồn Hà Nội được thấy  thông qua  phố cổ của nó. Bà Huyện Thanh Quan, một nhà thơ của thế kỷ 19 có nhắc đến Hànội trong một tác phẩm của bà. Điều mà được thấy ở khu phố cổ này là 36 phố (hay đường) mà đặc trưng là mỗi phố nó có một  nghề nghiệp riêng biệt: hàng đào với các khăn quàng cổ bằng tơ lụa đủ màu, hàng thuốc bắc với mùi hương của các loại thảo mộc vân vân…Nhà văn Thạch Lam của nhóm Tự Lực Văn Đoàn đã từng nói đến « Hànôi ba mươi sáu phố phường » qua  cái ăn uống của người Hà Thành.

Hà Nội cũng là thành phố của Việt Nam còn lưu giữ nhiều dấu vết của thời thuộc địa hơn so với các thành phố khác. Chúng ta có thể nói rằng đây là bản sao chính xác của một ngôi làng theo phong cách  Arcachon với cung điện của thống đốc, nhà hát opera, nhà bưu điện lớn và công viên của nó. Cầu Long Biên (hay Paul Doumer) nhắc lại không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật đầu tiên của các nhà xây dựng Pháp trên sông Hồng vào năm 1902 mà còn là dấu vết của  các vụ đánh bom của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Mặc dù vậy, Hà Nội, trong những năm gần đây, bắt đầu thay đổi diện mạo và mặt tiền. Các công trình xây cất đã được tăng lên với một tốc độ đáng ấn tượng  đến nỗi không còn thấy một mét vuông nào trống cả.

Comme son nom l’indique, Hanoï veut dire « la ville en deçà du fleuve » (Hà signifiant le fleuve, Nội l’intérieur »). Contrairement à d’autres villes du Vietnam, Hanoï  a une longue histoire mouvementée. Son destin est celui du peuple vietnamien. Elle connut une période de disgrâce lorsque l’empereur  Nguyễn Anh parvint à fonder la dynastie des Nguyễn en 1802 après 20 ans de combat acharné contre les Tây Sơn et décida de transférer la capitale à Huế (ou Phú Xuân). 

Elle fut témoin de plusieurs batailles décisives dans la reconquête de l’indépendance, en particulier la bataille Ðống Đa menée par l’empereur Quang Trung en 1789. Grâce à la guerre éclair contre les troupes chinoises des Qing et grâce au stratagème de ce dernier de choisir la fête du nouvel an vietnamien pour surprendre les ennemis chinois, Hà Nội fut ainsi libérée ainsi que le Vietnam. Elle fut aussi la ville choisie par Hồ Chí Minh pour proclamer le 2 septembre 1945 l’indépendance du Vietnam sur la place de Ba Ðình. Ce fut aussi à Hanoï que la pagode au pilier unique (Chùa Một Cột) fut élevée en 1049 par le souverain Lý Thái Tôn sur un pilier en bois puissant dans le style des anciens temples des ancêtres.

Selon la légende, le roi affligé de ne pas avoir de descendance, rêva de Quan Âm, la déesse de la Miséricorde. Assise sur une fleur de lotus, elle lui tendit un fils. Peu après, une jeune paysanne dont il fit  sa favorite, lui donna un héritier. En témoignage de sa gratitude, il fit ériger cette pagode au milieu d’un étang en forme de fleur de lotus

A cause de sa proximité du fleuve Rouge, elle est victime tous les ans des inondations provoquées par les crues de ce fleuve et par les violentes pluies de mousson et les typhons. Malgré cela, Hanoï continue à rester éternellement la capitale du Vietnam réunifié. Personne n’ose contester l’héritage politique et culturel qu’elle a laissé au peuple vietnamien. Elle représente non seulement pour la plupart des Vietnamiens le symbole de l’unité nationale mais aussi la fierté d’un peuple de paysans sachant résister vaillamment aux intempéries de la nature et aux ambitions des envahisseurs.

Avant d’être la capitale du Vietnam, Hanoï fut le siège de l’administration chinoise en l’an 607 et porta le nom  » Tống Bình « . En 866, ce siège fut doté d’une muraille de Ðại La dont il subsiste actuellement quelques vestiges. Il fut choisi par le fondateur de la dynastie des Lý, le roi Lý Công Uẩn, en 1010 comme la nouvelle capitale du Vietnam à la place de Hoa Lư. Selon la légende, dans le songe, le roi a vu un dragon d’or s’envoler de cette localité. C’est pour cette raison que Hanoï fut appelée à cette époque  » Thăng Long« (le dragon prenant son essor)« .

Ce site fut jugé favorable par rapport à d’autres sites car il est entre Hà et Sơn, les eaux et les montagnes, au milieu des rizières et protégé des inondations par les digues. Au XVème siècle, Hanoï prit le nom Ðông Kinh. Puis elle reprit le nom Thăng Long jusqu’au transfert de la résidence royale à Huế. Elle prit ensuite le nom de Thành Tích puis Bắc Thành avant de devenir Hanoï seulement en 1931. Elle devint la capitale du Nord Vietnam après les accords de Genève en 1954 et devint depuis les événements de 1975, la capitale du Vietnam réunifié.

Hànôi couvre 913 km2. Son intérieur (ou nội thành (40 km2) est divisé en quatre districts (ou Quận): Quận Hoàn Kiếm, Quận Hai Bà Trưng, Quận Hai Bà Trưng, Quận Ðống Ða et Quận Ba Ðình. Elle compte aussi 6 quartiers suburbains (ou huyện) et de nombreux villages situés à l’intérieur de ses limites.

On trouve l’âme de Hanoï à travers son vieux faubourg.  Huyện Thanh Quan, une poétesse du XIXème siècle l’a évoqué dans l’une de ses œuvres. Ce qui retient le plus dans ce vieux faubourg, ce sont les 36 rues connues souvent sous le nom  Phố (ou đường en vietnamien) dont chacune a sa spécialité: rue de la soie aux écharpes multicolores, rue des médicaments au parfum d’herbes aromatiques etc…Le célèbre romancier Thạch Lam a  eu l’occasion d’évoquer ce faubourg à 36 rues à travers la cuisine vietnamienne.

Hanoï est aussi la ville vietnamienne qui garde plus de traces coloniales par rapport à d’autres villes. On peut dire qu’elle est la copie conforme d’une bourgade au style d’Arcachon avec son palais de gouverneur, son opéra, sa grande poste et son parc. Le pont Long Biên (ou Paul Doumer) rappelle non seulement le premier ouvrage d’art des bâtisseurs français sur le fleuve Rouge en 1902 mais aussi les traces des bombardements américains durant la guerre du Vietnam.

Malgré cela, Hanoï, depuis quelques années, commence à changer de visage et de façade. Les constructions se sont multipliées à un rythme effarant tel qu’il ne reste pas un mètre carré inoccupé. 

Galerie des photos

[RETURN]

Civilisation Óc Eo (Versions française, anglaise et vietnamienne)

poster_oc_eo

Version vietnamienne

English version

Galerie des photos

En raison de l’abondance des trouvailles archéologiques en étain à Óc Eo dans le delta du Mékong (An Giang), l’archéologue français Louis Malleret n’hésite pas à emprunter le nom Óc Eo pour désigner cette civilisation de l’étain. On commence à avoir désormais une vive lumière sur le royaume du Founan ainsi que sur ses relations extérieures lors de la reprise des campagnes de fouilles menées tant par des équipes vietnamiennes( Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải , Lê Xuân Diêm) que par l’équipe franco-vietnamienne dirigée par Pierre-Yves Manguin entre 1998 et 2002 dans les provinces An Giang, Đồng Tháp et Long An où se trouve un grand nombre de sites de culture Óc Eo. On sait que Óc Eo était un grand port de ce royaume et une plaque tournante dans les échanges commerciaux entre la péninsule malaisienne et l’Inde d’un côté et le Mékong et la Chine de l’autre. Comme les bateaux de la région  pouvaient  couvrir de longues distances et devaient suivre la côte, Óc Eo devint ainsi un passage obligatoire  et une étape stratégique importante   durant les 7 siècles de floraison et de prospérité du royaume du Founan.

 

Bảo tàng lịch sử Hà Nội

Cette civilisation de l’étain se distingue non seulement par sa culture du riz flottant mais aussi par son commerce avec l’extérieur. On a découvert un grand nombre d’objets autres que ceux de l’Inde trouvés  sur les rives du Founan: fragments de miroirs en bronze datant de l’époque des Han antérieurs, statuettes bouddhiques en bronze attribuées aux Wei, un groupe d’objets purement romains, des statuettes de style hellénistique en particulier une représentation de Poséidon en bronze. Ces objets étaient échangés probablement contre des marchandises car les Founanais ne connaissaient que le troc. Pour l’achat des produits de valeur, ils se servaient des lingots d’or et d’argent, des perles et des parfums. Ils étaient connus comme d’excellents bijoutiers. L’or était finement travaillé avec de nombreux symboles brahmaniques (Vishnu, Nandin, Vahara, Garuda, Shesha, Kurma etc…). Les bijoux (boucles d’oreilles en or au fermoir délicat,  filigranes d’or admirables, perles de verre, intailles etc… ) exposés dans les musées de Đồng Tháp, Long An et An Giang témoignent non seulement de leur savoir-faire et de leur talent mais aussi de l’admiration des Chinois dans leurs récits durant leur contact avec les Founanais. 

 

Galerie des photos

Bảo tàng lịch sử Saigon

Văn Hóa Óc Eo

Au Musée  national de l’histoire (Saïgon) 

Version vietnamienne

Vì lý do tìm ra được nhiều  các di vật cổ bằng thiếc  ở Óc Eo vùng châu thổ  sông  Cửu Long (An Giang),  nhà khảo cổ học Pháp Louis Malleret không ngần ngại mượn tên Óc Eo để chỉ định nền « văn hóa đồ thiếc ».  Chúng ta mới bất đầu từ đó  có cái nhìn sáng tỏ  về vương quốc Phù Nam  và các mối quan hệ bên ngoài  trong các  chiến dịch khai quật  kế tiếp lại  sau nầy với sự điều khiển  của nhóm người  Việt (Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải, Lê Xuân Diêm) và  nhóm người Việt  Pháp do ông Pierre-Yves Manguin đảm nhận giữa năm 1998 và 2002 ở An Giang, Đồng Tháp và Long An, các nơi mà có nhiều hiện vật của nền văn hóa Óc Eo. Chúng ta biết rằng Óc Eo là một thương cảng trọng đại và  trung tâm vận chuyển trong việc trao đổi hàng hóa   giữa  một bên  bán đão Mã Lai và Ấn Độ và bên kia  Trung Hoa và  đồng bằng sông Cửu Long. 

founan_collier

Thông thường  các thuyền bè trong vùng cần  đi xa và phải  dọc theo bờ  biển, Óc Eo trở thành vì thế  một địa điểm phải đến  và chặn đường chiến lược quan trọng suốt 7 thế kỷ phồn thịnh cho vương quốc Phù Nam. Nền văn hóa Óc Eo được xem nổi bật không những trong việc trồng lúa nước mà còn luôn cả quan hệ buôn bán với các nước ngoài khu vực. Chúng ta khám phá được một số di  vật khác hẳn với những đồ  vật  có nguồn gốc  văn hóa Ấn Độ  ở các lưu vực sông  của  vương quốc Phù Nam: những mảnh gương  đồng có từ thời Tây Hán, các tượng đồng  thì đời nhà Tùy, hạt chuổi La Mã,  một số đồ vật thời kỳ Hy Lạp hóa nhất là có  một biểu tượng Poseidon bằng đồng. Các hiện vật nầy chắc chắn có được nhờ sự trao đổi hàng hóa vì người dân Phù Nam chỉ biết giao dịch trao đổi. Để mua các sản phẩm có giá trị, họ thường dùng thỏi vàng hay bạc, các hạt chuổi và nước hoa. Họ có tiếng là  những thợ kim hoàn xuất sắc. Các hiện  vật  bằng vàng được làm một cách tinh xão với các biểu tượng của  đạo Bà La môn (hình thần Vishnu, bò thần Nandin, lợn thần Vahara, chim thần Garuda, rắn thần Shesha, rùa thần Kurma…). Các trang sức  (như khuyên tai bằng vàng hay có cái móc tinh vi, dây chuyền vàng tuyệt vời, hạt cườm, đá màu etc…) thường thấy trưng bày  ở các bảo tàng viện An Giang, Đồng Tháp hay Long An nói lên  không những sự khéo léo của người Óc Eo trong nghề làm kim hoàn mà luôn cả  sự ngưỡng mộ  cũa người Trung Hoa qua các câu chuyện kể lại  trong thời gian giao thương với người dân Óc Eo.


Version anglaise

 

Because of the abundance of  tin archaeological finds  at Óc Eo in the Mekong delta (An Giang), French archaeologist Louis Malleret does not hesitate to borrow the name Óc Eo for designating this tin civilization. We begin to have now a deep light on this kingdom as well as its external relations during the resumption of excavations undertaken both by Vietnamese teams (Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải, Lê Xuân Diêm) and French-Vietnamese team led by Pierre-Yves Manguin between 1998 and 2002 in An Giang, Ðồng Tháp and Long An provinces where a large number of sites of Óc Eo culture are located. We know  Óc Eo was a major port of this kingdom and  a transit hub in trade exhanges between  Malaysian peninsula and India on one hand and the  Mekong and China on other one. As the boats of the region could  cover long distances and had to follow the coast, Óc Eo thus became a mandatory stop and a important strategic step  during the 7 centuries of blooming and prosperity for Funan kingdom. 

This tin civilization is distinguished not only by the floating rice cultivation but also its external trade. We have discovered a large number of objects other than that of India found on Funan shores: fragments of bronze mirrors dating from the Han anterior period, Buddhist bronze statuettes attributed to Wei dynasty, a group of purely Roman objects, statuettes of Hellenistic style in particular a Poseidon  bronze representation. These objects were probably exchanged for goods because Funan people only knew the barter. For the purchase of valuable products, they used golden and silver ingots, pearls and perfumes. They were known as excellent jewelers. The gold was finely worked with numerous Brahmanic symbols. The jewels (golden earrings with the delicate clasp, admirable golden filigrees, glass pearls, intaglios etc.) exposed in the museums of Đồng Tháp, Long An and An Giang testifies not only of their know-how and their talent but also the  the Chinese’s admiration in their narratives during their contact with Funan people.

 

Culte des ancêtres (Thờ cúng tổ tiên)

culte_des_ancetres

Version vietnamienne

English version

Au Vietnam, la piété filiale est l’une des notions fondamentales dans la famille vietnamienne.

Celle-ci est réglée par le culte des ancêtres. Ces derniers apportent de bons conseils et leur aide seulement aux descendants vivants s’ils sont respectés et honorés, en particulier leurs tombes bien entretenues. On trouve dans la plupart des foyers vietnamiens un petit autel familial sur lequel sont posées des tablettes de bois, une pour chaque  ancêtre décédé, jusqu’à la cinquième génération. On trouve sur chaque tablette l’inscription du nom du défunt mais aussi celle de tous les titres possédés et acquis durant sa vie active. D’une manière générale, ces inscriptions ont été écrites en caractères chinois. Dans chaque famille vietnamienne, c’est l’aîné des enfants qui a la charge d’entretenir l’autel domestique. Il est possible que ce soit la personne la plus âgée de la branche aînée de la famille qui ait cette responsabilité lorsqu’il s’agit d’une « grande famille ». Aucune importance n’est imposée en ce qui concerne le sexe du responsable. Une femme  peut assumer cette responsabilité aussi bien qu’un homme. 

Le culte des ancêtres est mis plus spécialement à l’honneur lors de la fête du Tết, le nouvel an vietnamien. On se sert de cette occasion pour offrir aux défunts non seulement des repas mais aussi de l’encens et des faux billets qui seront brûlés durant la fête.

Galerie des photos

Version vietnamienne

Ở Việt Nam, lòng hiếu thảo là một trong những quan niệm cơ bản ở trong gia đình. Điều này được quy định qua việc thờ cúng tổ tiên. Các ông bà nầy đem lại những lời khuyên hữu ích và giúp đỡ các con cháu còn sống nếu họ được kính trọng và tôn vinh, nhất là các mồ mả của họ được giữ gìn một cách chu đáo.
 
Hầu hết trong các ngôi nhà của người dân Việt đều có một bàn thờ gia đình trên đó thường thấy các bài vị bằng gỗ, mỗi bài dành cho mỗi người đã khuất, cho đến đời thứ năm. Được thấy trên mỗi bài vị khắc tên người đã khuất cũng như tất cả các chức vị mà có được trên bước đường sự nghiệp. Nói chung, những bản khắc này được viết bằng chữ Hán. Trong mỗi gia đình Việt Nam, con trưởng là người có trách nhiệm giữ gìn bàn thờ tổ tiên. Có thể là một người lớn tuổi nhất trong dòng họ có trách nhiệm này khi nhắc đến một “đại gia đình”. Không có sự quan trọng nào được áp đặt lên giới tính của người có trách nhiệm. Một người phụ nữ có thể đảm nhận trách nhiệm này cũng như một người đàn ông.
 
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đặc biệt được tôn vinh trong dịp Tết đến. Thường hay lợi dụng lễ này không chỉ để cúng cho người đã khuất các buổi cơm mà còn thắp hương và biếu những tờ tiền giả được đốt trong
những ngày lễ.

Chapeau conique (Nón lá)

Version française
Version anglaise

Cho đến ngày nay chưa có tài liệu lịch sử nào xác định rõ ràng thời gian nào cái nón lá được ra đời  nhưng chỉ  thấy dạng thức thô sơ tiền thân của nó (mũ lông chim) được khắc trên  các cổ vật Đồng Sơn (như  trống đồng Ngọc Lữ hay thạp đồng Đào Thịnh) cách đây 2500-3000 năm trước Công Nguyên. Từ ngàn xưa,  để chống nắng và che mưa nhất là sống trong khu vực khí hậu nhiệt đới, nắng lắm mưa nhiều nên  ông cha ta đã nghĩ ra  để tận dụng những nguyên liệu dễ kiếm từ thiên nhiên (như lá cọ, lá buông, lá hồ, lá cối, lá dừa, lá dứa  rơm vân vân) và sáng chế ra chiếc nón lá. Rồi  nó trở thành từ  đó  vật dụng cần thiết trong cuộc sống bình dị  thường ngày của người  dân Việt. Ở khắp mọi miền đất nước, đâu đâu cũng có hình dáng của nó. Trên đê dưới ruộng, trên bờ dưới sông, lúc nào nó cũng dãi nắng dầm mưa  cùng  người nông dân. Đôi khi  nó còn trở thành dụng cụ tạo gió cho người nông dân  giữa lúc hè nóng oi bức. Nó cũng  theo chân gót của người bán hàng rong ở khắp nẽo đường thành phố. Nón lá đã từ lâu  trở thành một biểu tượng đặc trưng  trong nền văn hóa Việt. Nó còn  tô thêm nét  đẹp duyên dáng cho  người phụ nữ  Việt  dịu dàng với chiếc áo dài hay chiếc áo bà ba.  

Dựa  trên các nguồn sử liệu  thì nguời  đầu tiên đề cập chiếc nón Việt là Chu Khứ Phi  thời Nam Tống trong  cuốn: Lĩnh Ngoại Đại Đáp (嶺外代答序) viết về  phong tục nhà Lý của chúng ta vào khoảng năm 1178. Nguời Giao Chỉ  đầu đội nón trôn ốc [nguyên văn là 螺笠  cái loa lạp, cái nón có hình như trôn ốc].  Sau đó, dựa theo  Lĩnh Ngoại Đại Đáp của  Chu Khứ Phi, sử gia nhà Nguyên Mã Đoan Lâm có miêu tả lại trong “Văn hiến thông khảo” vào năm 1307 như sau: nón hình xoắn ốc, hình dáng của nó giống như những con ốc… được làm rất khéo từ lạt tre mỏng. […] Hình ảnh sớm nhất về nón lá của người Việt được ghi nhận là trong bức họa “Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ” của Trần Giám Như vào khoảng năm 1363. Trong bức họa này,  được thấy rõ có  hai người đàn ông đội nón có hình dáng khác nhau. Người thứ nhất đội chiếc nón vành xòe rộng, bên trên lại có cái chũm nhô cao. Còn người kia cũng đội chiếc nón cũng rộng vành nhưng chớp nhọn.   Như vậy thời đó  nón đã dành cho  nhiều tầng lớp người khác nhau, từ giàu sang đến kẻ nghèo, từ quan trên đến người hầu hạ rồi. Dưới thời nhà Trần, ở làng Ma Lôi (Hải Dương ngày nay) đã sản xuất chiếc nón lá. Lúc đầu nón Ma Lôi chỉ lưu hành ở trong dân gian nhưng về sau vua Trần trông thấy đẹp mắt nên cải tiến một loại nón để  cung tần mỹ  nữ  dùng  trong hoàng cung và được gọi là nón thượng. Nón Ma Lôi được dùng sau đó  trong lực lựợng thủy quân do tướng Trần Khánh Dư chỉ huy nhầm để phân biệt với quân lính phương Bắc.

Qua bức họa trên “Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ” của Trần Giám Như cho ta thấy rõ rệt thứ nhất  là thân phận, giai cấp  của mỗi người đội nón  thứ hai là  nón nó có một hành trình biến đổi qua nhiều thế kỷ với nhiều kiểu dáng khác nhau và mang đậm về sau dấu ấn văn hoá điạ phương  (như nón ba tầm hay nón quai thao  ở miền bắc Việt Nam, nón Huế, nón Bình Định, nón Quảng Nam  vân vân)  để rồi  ngày nay  cái nón lá lại trở  thành vật dụng thân thiết và bình dị  của mọi tầng lớp nhân dân, một bạn đồng hành thường ngày của người dân Việt. Không chỉ trong đời sống hằng ngày, hình ảnh của nón lá còn được phổ biến  trên các sàn diển thời trang và trở thành nguồn cảm hứng thiết kế  hiện nay cho các nhà mốt. Nó còn là món quà lưu niệm mà  được các du khách nước ngoài hay thường mua khi trở  về nước.

Jusqu’à ce jour, il n’existe pas de documents historiques précisant  clairement la  période de la  création  du chapeau conique. Par contre seule sa forme primitive (chapeau de plumes) a été vue gravée sur les artefacts de la culture de  Đồng Sơn  (comme le tambour de bronze  Ngoc Lũ ou la situle de  bronze  Đào Thịnh) il y a 2500 à 3000 ans avant J.-C.

Depuis l’Antiquité, pour  vivre et se protéger du soleil et de la pluie dans un climat tropical,  nos ancêtres ont pensé à utiliser des matériaux facilement trouvables dans la nature  comme les feuilles de certaines plantes (pandan, cocotier, buông, hồ,  cối) et  de la paille et ont réussi à inventer le chapeau conique. Ce dernier est  devenu dès lors  un élément indispensable à la vie quotidienne des Vietnamiens. On le voit partout  dans tous les recoins du pays. Il devient inséparable du paysan, de la digue jusqu’à la rizière ou du rivage jusqu’au fleuve. Parfois le paysan s’en sert comme un éventail pour se détendre sous un soleil accablant. On le voit suivre souvent le marchand ambulant dans les rues de la ville. Il devient depuis longtemps un symbole caractéristique de la culture vietnamienne. Il ajoute une touche d’élégance à la femme vietnamienne à travers sa tunique ou à son veste à amples manches.

D’après des sources historiques, la première personne à mentionner le chapeau conique vietnamien était Zhou Qunfei (Chu Khu Phi)  de la dynastie des Song du Sud dans son  livre intitulé :Lĩnh Ngoại Đại Đáp (嶺外代答序), retraçant les  coutumes de notre dynastie Lý en  1178. Les habitants de Giao Chi portaient des chapeaux  coniques [le texte original est 螺笠 le  loa lap, un chapeau en forme de coquille conique].  Plus tard, en se basant sur le livre   Zhou Qunfei, l’historien de la dynastie des Yuan Ma Duanlin  (Mã Đoan Lâm)  le décrit dans «Văn hiến thông khảo » en 1307 comme suit: le chapeau  ressemblant à la forme de l’escargot etc. est fabriqué d’une manière très méticuleuse  à partir de fines bandes de bambou. […] La plus ancienne image des chapeaux coniques vietnamiens se trouve dans le tableau «Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ  évoquant le  retour du roi moine Trần Nhân Tôn à la vie royale, illustré  par le moine dessinateur chinois   Trần Giám Như   en  1363. Dans ce tableau, on voit apparaître deux hommes portant des chapeaux de formes différentes. La première personne portait un chapeau à large bord au milieu duquel on fait ressortir sa portion saillante. L’autre personne portait également un chapeau à large bord  très pointu. À cette époque, les chapeaux étaient destinés à de nombreuses catégories  de personnes différentes, des riches aux pauvres, des fonctionnaires aux domestiques. Sous la dynastie des  Trần, le village de Ma Lôi (aujourd’hui Hải Dương)  fabriquait  des chapeaux coniques. Au début, ceux-ci étaient populaires et connus seulement par le peuple, mais plus tard, le roi des Trần a trouvé  qu’ils étaient  tellement beaux. Il n’a pas tardé  à apporter des améliorations à ces chapeaux en vue de leur usage par les concubines dans le palais royal.  Dès  lors ces chapeaux étaient connus sous le nom « nón thượng ». Le chapeau de Ma Lôi  était utilisé  plus tard dans la marine nationale  commandée par le général Trần Khánh Dư pour se différencier de celui  porté par  les soldats  venant du Nord.

À travers le tableau ci-dessus «Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ» de Trần Giám Như, on peut repérer premièrement le statut social de chaque personne portant le chapeau. Puis deuxièmement le chapeau a connu un long parcours de transformation au cours de nombreux siècles avec de nombreux modèles différents portés chacun par la culture locale (comme le chapeau Ba Tầm ou Quai Thao dans le nord du Vietnam, le chapeau Huế, le chapeau Bình Định, le chapeau Quảng Nam, etc.) de sorte qu’aujourd’hui le chapeau conique est devenu un objet familier et simple de toutes les classes de la société, un compagnon inséparable du peuple vietnamien. Étant connue non seulement dans la vie quotidienne, l’image du  chapeau conique est également exhibée lors des défilés de mode et  est devenue aujourd’hui une source d’inspiration pour les maisons de mode. C’est aussi un objet de souvenir que les touristes étrangers  aiment acheter souvent lors du retour dans leur pays.

En portant  la tunique vietnamienne avec son chapeau conique, Miss Isabelle Menin
   honore la beauté  de la culture traditionnelle lors du concours de

Miss Grand International  2023 au Vietnam

 

Laquage des dents (Nhuộm răng)


Version française
English version

Có thể vẫn còn  gặp ở các vùng quê Việt Nam, nhất là ở miền Bắc những người phụ nữ có nụ cười đôn hậu, răng khểnh mặc áo đen. Kỹ thuật nhuộm răng đen là một phong tục cổ truyền phổ biến ở châu Á (Nhật Bản, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân vân vân …). Ở Việt Nam, phong tục này có từ thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên. Nó có quan hệ đặc thù đến người Việt ở miền Bắc và miền Trung, những người nầy có bản chất truyền thống hơn người Việt ở miền Nam và một số dân tộc thiểu số ở miền núi.

Nguyên tắc  nhuộm răng vẫn như cũ và bao gồm hai giai đoạn: cạo sạch răng và đánh véc ni.  Nhưng các phương pháp được sử dụng một cách  đặc biệt nhất là màu sắc và các sản phẩm dùng rất riêng biệt cho mỗi dân tộc. Ở Việt Nam, sự bảo dưỡng nhuộm răng là điều cần thiết cứ hai hoặc ba năm một lần.

Ở Việt Nam, ngoài phẩm chất  thẩm mỹ, nhuộm răng còn được sử dụng để  phòng ngừa sâu răng. Phong tục này ngày càng ít được thấy ở Việt Nam vì các sản phẩm được sử dụng rất độc hại và việc nhuôm răng là không thể thay đổi lại được.  Chính điều này khiến giới trẻ nản lòng và ít còn thấy phong tục nầy ở thành thị.

Version française

Il est possible de rencontrer encore dans les campagnes du Vietnam surtout dans le Nord des femmes aux sourires joviaux et aux dents habillées de noir. Cette technique de noircir les dents ou « laquage des dents » est une coutume ancienne répandue en Asie (Japon, Malaisie, Indonésie, Philippines etc…). Au Vietnam, cette coutume remonte au IIème millénaire avant J.C. Elle concerne surtout les Vietnamiens du Nord et du Centre qui sont de nature plus traditionalistes que les Vietnamiens du Sud et certaines minorités des régions montagnardes.

Le principe de laquage des dents reste identique et comprend toujours deux phases: décapage des dents et application d’un vernis. Mais les méthodes employées, surtout les couleurs et les produits sont spécifiques et propres à chaque peuple. Au Vietnam, l’entretien du laquage est indispensable tous les 2 ou 3 ans.

Au Vietnam, outre ses qualités esthétiques, le laquage des dents est également utilisé pour ses vertus prophylactiques vis à vis de la carie dentaire. Cette coutume est de moins en moins respectée au Vietnam car on sait que les produits utilisés sont toxiques et que le noircissement des dents est irréversible, ce qui décourage les jeunes et fait disparaitre cette coutume dans les villes.

Teeth lacquering

It is also possible to meet in the countryside of Vietnam especially in the North, women with jovial smile and teeth stained in black. This technique of blackening of teeth or « teeth lacquering » is an ancient custom widespread in Asia (Japan, Malaysia, Indonesia, Philippines etc…). In Vietnam, this custom dated back to the 2nd millennium BC. It concerns most North and Central Vietnamese who by nature are more traditional than South Vietnamese and certain minorities in mountain regions. The principle of teeth lacquering remains identical and composed of two phases: teeth scouring and varnishing. But the methods used, mainly the colors and the products are specific and characteristic of each people. In Vietnam, the maintenance of lacquer is essential every 2 or 3 years.

In Vietnam, besides it aesthetic qualities, teeth lacquering is also used for prophylactic purposes against tooth decay. This custom is less and less followed in Vietnam because people know that the products they used are toxic and that teeth blackening is irreversible, which discourages young people.This tradition disappears in the cities.