Hội An sommaire (2ème partie)

hoian_summary1

English version

Version vietnamienne

Deuxième partie

Contrairement aux Japonais, les Chinois ont connu Hội An depuis longtemps, à l’époque où cette ville appartenait encore au Champa. Ils étaient venus en bateaux pour y chercher du sel, d’or et de cannelle mais ils avaient besoin de se ravitailler aussi en bois de chauffage et en eau potable car Hội An se trouvait  sur leur route maritime. Celle-ci était la route de la soie à travers l’océan. Les vaisseaux marchands arabes et chinois avaient l’habitude de fréquenter, vers le 8ème siècle après J.C., les côtes de la Chine et de l’Asie du Sud-Est. Avant de s’établir à Hội An, les commerçants chinois ont pénétré en nombre limité dans les bras du fleuve Thu Bồn pour construire leurs premiers quartiers soit au port Trà Nhiêu soit à l’embouchure Thanh Hà. Puis survint la menace fréquente de la piraterie japonaise sur les côtes chinoises allant de Shangai jusqu’à l’île de Hainan. En prenant prétexte de cette menace, les empereurs des Ming commencèrent à interdire toutes les communications maritimes excepté l’Asie du Sud Est à partir 1433. Cette politique fut connue en vietnamien sous le nom « Thốn Bản Bất Hạ Bản (Pratiquer la politique de la porte fermée). Malgré cela, les Chinois avaient besoin d’un certain nombre de marchandises de première nécessité. Cela les amenait à se procurer ces produits en Asie du Sud Est, en particulier à Hội An. Il fallait attendre deux événements importants dans la deuxième moitié du XVIIème siècle pour que la communauté chinoise devînt importante à Hội An. D’abord l’avènement des Qing (Mandchous) en Chine provoqua l’exode et l’installation des réfugiés chinois au Vietnam (y comprise la ville Hôi An). En 1679, de nombreuses embarcations des partisans de la dynastie déchue accostèrent Đã Nẵng et Hội An.

Face à l’ampleur de l’exode, le gouverneur Nguyển Phúc Tần, très expéditif en affaires, n’hésita pas à proposer aux partisans des Ming dirigés par les deux généraux Dương Ngạn Địch et Hoàng Tiến de s’installer dans la basse Cochinchine (Mỹ Tho, Thủy Chân Lạp) et de défricher des terres incultes, ce qui lui donna l’occasion d’agrandir son territoire et d’éviter un affrontement éventuel avec une armée décimée comprenant 50 embarcations et 3000 soldats. Puis il permit aux nouveaux réfugiés chinois de fonder Minh Hương (village des Ming) dans le but de remonter leur moral et de leur rappeler qu’ils étaient toujours les partisans émigrés des Ming.

Lire la suite (Tiếp theo)]

img_2658

Quartier français ( Rue Nguyễn Thái Học)

Version vietnamienne

Phần thứ nhì

Ngược lại với người Nhật, người Hoa biết Hội An từ lâu từ thời mà vùng nầy còn thuộc về vương quốc Chămpa. Họ đến đây để mua muối, vàng và quế và để dự trữ củi và nước vì Hội An nằm trên con đường biển của họ mà họ thường gọi là con đường tơ lụa trên biển Đông. Người Hoa và người Á Rập hay thường dùng con đường nầy để dọc theo các bờ biển của Trung Hoa và Đông Nam Á vào thế kỷ thứ 8 sau Công Nguyên. Trước khi ở Hội An, thường thấy một số ít thương gia Hoa định cư ở nhánh sông Thu Bổn hay ở bến cảng Trà Nhiêu hay là cửa sông Thanh Hà. Trước sự đe dọa thường xuyên của các cướp biển người Nhật dọc theo bờ biển Trung Hoa đến đảo Hải Nam, các vua chúa nhà Minh mới ra chỉ thị vào năm 1433 cấm các cuộc giao tiếp đường biển chỉ trừ Đông Nam Á. Đó là chính sách hải cấm với khẩu hiệu là “Thốn Bản Bất Hạ Hải” áp dụng với Nhật Bản. Tuy nhiên người Hoa vẫn cần dùng các thương phẩm cần thiết nên họ phải tìm ở Đông Nam Á nhất là ở Hội An.

Có hai biến cố quan trọng về sau, vào giữa thế kỷ 17 khiến cộng đồng người Hoa trở thành yếu tố chính ở Hội An. Đó là sự sụp đổ triều đại nhà Minh khiến có một cuộc di tản và định cư đáng kể của người Hoa ở Việtnam (luôn cả ở Hội An). Rồi vào năm 1679, có nhiều thuyền của thành phần theo nhà Minh đến Đà Nẵng và Hội An. Để tránh sự đối đầu có thể xảy ra với 3000 quân lính được trang bị vũ khí đầy đủ và 50 chiếc thuyền của các thành phần theo nhà Minh do hai tướng Dương Ngạn ĐịchHoàng Tiến chỉ huy và mở rộng thêm bờ cỏi Vietnam với những vùng đất hoang vu ở Chân Lạp (Cao Miên), chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần) rát khéo léo và khôn ngoan đề nghị họ nên định cư ở vùng Nam Bộ (Mỹ Tho, Thủy Chân Lạp) và cho phép họ thành lập các làng Minh Hương để tưởng nhớ triều đại Minh và giúp họ phấn khởi trong việc định cư.

[ Lire la suite (Tiếp theo)]

maison_hoian_hainan

English version

[Two part]

Unlike the Japanese, the Chinese have known Hội An for a long time, back when this city still belonged to Champa. They came by boat to seek salt, gold, and cinnamon but also needed to replenish supplies of firewood and drinking water because Hội An was on their maritime route. This was the silk route across the ocean. Arab and Chinese merchant ships were accustomed, around the 8th century AD, to frequent the coasts of China and Southeast Asia. Before settling in Hội An, Chinese merchants entered in limited numbers into the arms of the Thu Bồn River to build their first quarters either at Trà Nhiêu port or at the Thanh Hà estuary. Then came the frequent threat of Japanese piracy on the Chinese coasts from Shanghai to Hainan Island. Using this threat as a pretext, the Ming emperors began to prohibit all maritime communications except with Southeast Asia from 1433. This policy was known in Vietnamese as « Thốn Bản Bất Hạ Bản » (Practicing the closed-door policy). Despite this, the Chinese needed a certain number of essential goods. This led them to procure these products in Southeast Asia, particularly in Hội An.

It was necessary to wait for two important events in the second half of the 17th century for the Chinese community to become significant in Hội An. First, the rise of the Qing (Manchus) in China caused the exodus and settlement of Chinese refugees in Vietnam (including the city of Hội An). In 1679, many boats of supporters of the fallen dynasty landed in Đà Nẵng and Hội An.

Faced with the scale of the exodus, the governor Nguyễn Phúc Tần, very efficient in affairs, did not hesitate to propose to the Ming supporters led by the two generals Dương Ngạn Địch and Hoàng Tiến to settle in lower Cochinchina (Mỹ Tho, Thủy Chân Lạp) and to clear uncultivated lands, which gave him the opportunity to expand his territory and avoid a possible confrontation with a decimated army comprising 50 boats and 3,000 soldiers. Then he allowed the new Chinese refugees to found Minh Hương (village of the Ming) in order to raise their morale and remind them that they were still the émigré supporters of the Ming.

[ Reading more (Tiếp theo)]

Khène ou orgue à bouche (Khèn)

English version  

Vietnamese version

On se pose des questions sur la provenance de cet orgue à bouche ou khène. Certains scientifiques attribuent au Laos son pays d’origine. Mais d’autres sont très réticents et sceptiques. C’est le cas du chercheur français Noël Péri de l’Ecole Française de l’Extrême Orient (EFEO). Pour ce dernier, si les Vietnamiens n’emploient pas cet orgue à bouche sous la même forme que les Laotiens, celui qu’on trouve par contre chez certaines tribus Muong (cousins des Vietnamiens) ou Hmong vivant au Vietnam est identique à celui du Laos. De plus, cet instrument est illustré fréquemment non seulement sur les tambours de bronze et les situles mais aussi sur certains ustensiles dongsoniens. C’est le cas de la manche d’une louche en bronze décorée d’une figuration masculine, assise et jouant de l’orgue à bouche. Elle est exposée actuellement au musée de l’histoire à Saïgon.joueur_khen2

On est amené à affirmer néanmoins avec certitude que cet instrument de musique date de l’âge du bronze ( entre 3000 et 1200 avant J.C. en Asie du Sud Est) et qu’il est inventé par les Austro-asiatiques dont font partie les Laotiens, les Hmong, les Muong, les Thaïs, les Vietnamiens, les Mnongs etc.( les Cent Yue ou Bách Việt en vietnamien). Il est important de rappeler qu’à une certaine époque, les Laotiens (de branche Si Ngeou ou Tây Âu ) et les Vietnamiens (de branche Lạc Việt ou Luo Yue) étaient unis ensemble dans la fondation du royaume Âu Lạc (Si Ngeou) de Thục Phán (ou  roi An Dương) et dans la lutte contre les Tsin de Shi Huang Di (Tần Thủy Hoàng)  (ou les Chinois). Selon  la chercheuse française Madeleine Colani, les khènes ne dépassent  pas l’Himalaya et la vallée du Bramahpoutre de l’Inde. Mais il y a des exceptions. 

C’est le cas des khènes possédés par les Dayaks de l’île Bornéo en Indonésie car avant leur installation sur cette île, ils étaient établis naguère sur la côte orientale de l’Indochine. En s’inspirant de l’orgue à bouche des Austro-asiatiques, les Chinois ont inventé le lusheng mentionné dans le Che-King ( Livre saint de la poésie) de Confucius.

Selon Victor Goloubew, les Dongsoniens, les ancêtres des Vietnamiens actuels, jouaient du khène à calebasse


 Le khène se présente sous de multiples formes mais selon Madeleine Colani, le type laotien reste le plus élégant et le plus soigné. D’une manière générale, il est constitué d’un nombre pair de tubes en bambou munis chacun d’un petit trou de jeu et d’une anche (*) (en laiton ou en argent ) fixée à hauteur de la soufflerie. Ces tuyaux sont assemblés par paires de longueur identique et dans un ordre de grandeur décroissante à partir de l’embouchure du réservoir en bois évidé, alimenté en air par le souffle du joueur. La longueur des tubes détermine la hauteur de la note. Plus le khène sera long, plus son ton sera bas. Le nombre de tubes fixés sur la soufflerie peut être variable et lié à la tradition culturelle de chaque groupe ethnique. Pour les Hmong vivant dans les montagnes septentrionales du Vietnam ou les Mnongs des Hauts Plateaux, il n’y a que 6 tubes dans la constitution de cette syrinx asiatique. Quant aux Thaïs de la région Mai Châu (Vietnam), le nombre de tubes s’élève à 14.

Khène à 6 tuyaux (ou Mbuot) des Mnongs du Vietnam

En ce qui concerne les khènes laotiens, le nombre de tubes est variable:m_buot  soit 6 tubes dont la longueur peut atteindre 40 cm avec le khène hot,  soit 14 tubes avec le khène jet

soit 16 tubes avec le khène baat. Ce dernier est le plus couramment utilisé au Laos. Pour produire le son, le joueur doit tenir entre ses deux mains le bloc de bois où est pratiquée l’orifice et ayant le rôle d’une poche d’air. Puis il obture ensuite les trous des tubes avec ses doigts dans le but de faire vibrer les anches correspondantes par expiration ou inspiration.

khenz_bambou
Khène laotien (16 tubes)

 

Le khène est lié étroitement aux rites religieux et aux événements importants (foires, mariages, funérailles etc…). Il peut être joué en solo ou en groupe pour accompagner la danse ou le chant. Chaque ethnie a sa propre légende concernant le khène. Par le biais de sa musique, cela permet de rapprocher le monde des hommes et celui des esprits. Pour les Laotiens comme pour certains groupes ethniques du Vietnam (Hmongs, Thaïs etc.), le khène symbolise leur identité culturelle. Chez les Hmong, la possession d’un khène témoigne de la fierté d’avoir la présence d’un homme de talent et de force dans leur maisonnée.

Dans un dicton lao, pour être un vrai laotien, il est indispensable de savoir jouer du khène, manger du riz gluant et du poisson fermenté (le padèk) et habiter une maison sur pilotis. 

Malgré son rôle important similaire à celui des gongs des Hauts Plateaux du Vietnam (Tây Nguyên), le khène continue à être délaissé au fil des années par les jeunes khene_laotiencar pour la maîtrise de cet orgue à bouche, il faut non seulement de la patience mais aussi un don musical. Il n’est pas à la portée de n’importe qui car pour être un joueur accompli, il faut savoir interpréter un grand nombre de mélodies de base et danser au son de khène. Certaines mélodies permettent d’évoquer les aspects de la nature et de la vie. Plus de 360 mélodies sont réservées pour les funérailles, ce qui prouve bien que le khène occupe une place importante dans la vie sociale et spirituelle des minorités ethniques.

Khène

(*) une petite lamelle en métal (Lưỡi gà en vietnamien).


Références bibliographiques

Essai d’ethnographique comparée. Madeleine Colani, BEFEO, 1936,Vol 36, N°1, pp. 214-216
Hà Văn Tấn: Nouvelles recherches préhistoriques et protohistoriques au Vietnam.
Rapport sur une mission officielle d’étude musicale en Indochine. Péri Noël, G. Knosp. BEFO. 1912. Tome 12, pp 18-2
Pour continuer d’entendre le son du khèn des Hmongs. Hoàng Hoa. Courrier du Vietnam, 24.03.2012

 

Formation des ethnies du Vietnam

bachviet_f

Formation of ethnic groups in Vietnam

Sự thành hình các dân tộc Bách Việt

Subgroup Chàm

  • The Chàm
  • Les Edê
  • Les Raglai 
  • Les Chu Ru  etc.

Subgroup Môn Khmer

Subgroup Việt Mường

Subgroup Tày Thái

Subgroup Meo Yao

[Back to Viet Nam and its 54 ethnies]

Liste des groupes ethniques du Việtnam

Liste des groupes ethniques du Vietnam

liste_ethniesf

List of ethnic groups in Vietnam

D’après les statistiques générales du Vietnam effectuées en 1 Avril 2019
La population vietnamienne s’élève à 0h du 1er Avril 2019 à 96.208.984 habitants parmi lesquels il y a  47.881.061 hommes (49,8%) et  48.327.923  femmes (50,2%). Avec ce résultat, le Vietnam devient le 15e pays le plus peuplé du monde mais il est en baisse de deux rangs par rapport aux statistiques relevées il y a 10 ans et le troisième en Asie du Sud-Est (après l’Indonésie et les Philippines).

Tổng dân số Việt Nam vào thời điểm 0h ngày 04/01/2019 có 96.208.984 người, trong đó dân số nam có 47.881.061 người (chiếm 49,8%) và dân số nữ có 48.327ếế23 người (chiếm 49,8%) 50,2%). Với kết quả này, Việt Nam là quốc gia đông dân thứ 15 trên thế giới, tụt 2 bậc so với cách đây 10 năm và đứng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á (sau Indonesia và Philippines).

The total population of Vietnam at 0:00 on January 4, 2019 was 96,208,984 people, of which the male population was 47,881,061 people (accounting for 49.8%) and the female population was 48,327,23 people (accounting for 50.2%). With this result, Vietnam is the 15th most populous country in the world, down 2 places compared to 10 years ago and ranked 3rd in Southeast Asia (after Indonesia and the Philippines).

  • 1     Việt (82.085.826)    
  • 2    Tày (1.845.492)
  • 3    Thái (1.820.950)
  • 4    Mường (1.452.095)
  • 5    Hmông (1.393.547)
  • 6    Khmer (1.319.652)
  • 7    Nùng (1.083.298) 
  • 8    Dao (891.151)
  • 9    Hoa (749.466)
  • 10  Gia-Rai (513.930)
  • 11  Ê-Đê (398.671)
  • 12   Ba Na (286.910)
  • 13   Xơ-đăng (212.277)
  • 14   Sán Chay (201398)
  • 15   Cơ-ho (200.800) 
  • 16   Sán Dìu (183.004) 
  • 17   Chàm (178.948)
  • 18   Hrê (149.460)
  • 19   Ra-glai (146.613)
  • 20   Mnông (127.334)
  • 21   Xtiêng (100.752)
  • 22   Bru-Vân Kiều (94.598) 
  • 23   Thổ (91.430)
  • 24   Khơ-mú (90.612)
  • 25   Cơ-tu (74.173)
  • 26   Giáy (67.858)
  • 27   Gié-triêng (63.332)
  • 28   Tà-Ôi (52.356)
  • 29   Mạ (50.322)
  • 30   Co (40.442)
  • 31   Chơ-ro (29.520)
  • 32  Xinh-mun 29.503)
  • 33   Hà Nhi (25.539) 
  • 34   Chu-ru (23.342)
  • 35   Lào (17.532)
  • 36   Kháng (16.180)
  • 37  La Chí (15.126)
  • 38  Phù Lá (12.471)
  • 39  La Hủ (12.113)
  • 40  La Ha (10.157)
  • 41  Pa Thẻn (8.248) 
  • 42  Chứt (7.513)
  • 43  Lự (6.757)
  • 44  Lô Lô (4.827)
  • 45  Mảng (4.650)
  • 46  Cờ Lao (4.003)
  • 47  Bố Y (3.232)
  • 48  Cống (2.729)
  • 49  Ngái (1.649)
  • 50  Si La (909)
  • 51  Pu Péo (903)
  • 52  Rơ-măm (639)
  • 53  Brâu (525 )
  • 54  Ơ-đu (428)     

Đà Nẵng au fil de la nuit (Về Đêm)

danang_au_fil_de_la_nuit

[Return TOURANE]

Siège de la congrégation du Fujian

hoian_et_fujian
Hôi Quán Phúc Kiến

[Retour HOI AN et ses quartiers ]

Hội An et ses maisons historiques (3ème partie)

 

Schéma de la double toiture d’une maison traditionnelle

hoian_et_ses_maisons2

Nét duyên dáng của  nhà cổ

Version anglaise

Version vietnamienne

Une autre caractéristique importante de la maison traditionnelle de Hội An est la présence d’une paire de « yeux du dragon » en bois accrochés souvent au dessus de sa porte d’entrée. Parfois on les retrouve à l’intérieur de la maison. On recense au moins une vingtaine de modèles ayant chacun une forme différente: un rond, un octogone etc. mais le plus commun trouvé reste le chrysanthème à huit pétales correspondant aux 8 caractères trouvés dans le Yi King (Kinh Dịch) et ayant à son centre le symbole du Yin et du Yang (Âm Dương). Ces yeux du dragon sont aussi un détail important que l’architecte polonais Kazimierz Kwiatkowsky (Kazik) n’a pas laissé s’échapper au moment où il avait l’occasion d’examiner l’architecture de Hội An, en particulier celle de ses maisons traditionnelles. Certains spécialistes trouvent dans ces yeux l’incarnation de l’âme de la ville Hội An tandis que d’autres attribuent à cette paire l’allégorie de la culture et de la tradition orientale. Selon l’écrivain Hữu Ngọc, les chercheurs ont trouvé leur origine à partir des clous en bois dont on est habitué à voir la fixation dans les linteaux des portes d’accès aux temples bouddhistes dans le Sud de la Chine. Personne ne conteste cette explication relative à leur origine mais on est amené à penser que cette paire d’yeux revêt plutôt une signification très spéciale, un caractère spirituel ou religieux que le propriétaire aimerait lier à son destin lors de son installation. Pour ce dernier, ces yeux ont la faculté d’entendre les réflexions de chaque membre au sein de la famille et de capter aussi tout ce qui s’est passé autour de la maison et au coeur même de sa propre vie. Il faut se rappeler qu’avant d’être sinisés, les gens de la région du Sud de la Chine faisaient partie du groupe Bai Yue (Cent Yue). Analogues aux Vietnamiens, ils étaient animistes car ils croyaient qu’il existe une force vitale, une âme animant tous les êtres naturels ou non (y compris les objets). (Vạn vật hữu linh). Ce culte perdura depuis la nuit des temps. Ces yeux du dragon sont en quelque sorte ceux du génie protecteur de la maison.

Une autre particularité retient l’attention de ceux qui ont l’occasion de visiter les maisons anciennes de Hội An. Ce sont les tuiles tubulaires yin yang  (ngói ống âm dương) qu’on est habitué à trouver souvent dans les bâtiments imposants des grandes surfaces commerciales en Asie. Ces tuiles ayant la forme d’un quart de cylindre, sont disposées de manière qu’une tuile convexe est reliée à une tuile concave, ce qui leur permet de recevoir le nom de « tuiles yin-yang » grâce à l’équilibre trouvé dans le Yin et le Yang.. Elles sont en terre cuite et sont divisées toujours en quatre pièces courbes, avant d’être déposées dans une moule cylindrique et soumises au  séchage et au cuisson.

Quant aux maisons traditionnelles « nhà rường« , elles sont plus spacieuses et plus confortables car elles peuvent comporter de 3 jusqu’à 5 bâtiments. Ells ont souvent à l’arrière du premier bâtiment, un jardin privé en miniature où le propriétaire, en temps de repos et de loisir, vient fumer du tabac, prendre du thé avec ses amis et contempler le paysage. Il vous manque seulement la visite pour apprécier les attributs distinctifs des maisons traditionnelles de Hội An et leurs valeurs du passé.  [Return HOI AN]

Version anglaise

Another important feature of the traditional Hội An house is the presence of a pair of wooden « dragon eyes » often hung above its entrance door. Sometimes they are found inside the house. At least twenty models have been recorded, each with a different shape: a circle, an octagon, etc., but the most common one found remains the chrysanthemum with eight petals corresponding to the 8 characters found in the Yi King (Kinh Dịch) and having at its center the symbol of Yin and Yang (Âm Dương). These dragon eyes are also an important detail that the Polish architect Kazimierz Kwiatkowsky (Kazik) did not overlook when he had the opportunity to examine the architecture of Hội An, particularly that of its traditional houses. Some specialists see in these eyes the embodiment of the soul of the city of Hội An, while others attribute to this pair the allegory of Eastern culture and tradition. According to the writer Hữu Ngọc, researchers have traced their origin to wooden nails commonly seen fixing the lintels of entrance doors to Buddhist temples in southern China. No one disputes this explanation regarding their origin, but one is led to think that this pair of eyes rather carries a very special meaning, a spiritual or religious character that the owner would like to link to their destiny upon settling in.

For the latter, these eyes have the ability to hear the thoughts of each family member and also to capture everything that has happened around the house and at the very heart of their own life. It should be remembered that before being sinicized, the people of the southern region of China were part of the Bai Yue group (Hundred Yue). Similar to the Vietnamese, they were animists because they believed in a vital force, a soul animating all natural or non-natural beings (including objects). (Vạn vật hữu linh). This cult has lasted since time immemorial. These dragon eyes are in a way those of the protective spirit of the house.

Another particularity catches the attention of those who have the opportunity to visit the old houses of Hội An. These are the yin yang tubular tiles (ngói ống âm dương) often found in the imposing buildings of large commercial areas in Asia. These tiles, shaped like a quarter of a cylinder, are arranged so that a convex tile is connected to a concave tile, which allows them to be called « yin-yang tiles » thanks to the balance found in Yin and Yang. They are made of terracotta and are always divided into four curved pieces before being placed in a cylindrical mold and subjected to drying and firing.

As for the traditional « nhà rường » houses, they are more spacious and comfortable because they can consist of 3 to 5 buildings. They often have, at the back of the first building, a miniature private garden where the owner, during rest and leisure time, comes to smoke tobacco, have tea with friends, and contemplate the landscape. All that is missing is your visit to appreciate the distinctive attributes of Hội An’s traditional houses and their values from the past.

[Return HOI AN]

Version vietnamienne

Một đặc điểm quan trọng khác của ngôi nhà truyền thống Hội An là sự hiện diện của một cặp « mắt rồng » bằng gỗ thường được treo phía trên cửa ra vào. Đôi khi chúng được tìm thấy bên trong ngôi nhà. Ít nhất hai mươi mô hình đã được ghi nhận, mỗi mô hình có một hình dạng khác nhau: hình tròn, hình bát giác vân vân  nhưng mô hình phổ biến nhất được tìm thấy vẫn là hoa cúc với tám cánh hoa tương ứng với 8 ký tự được tìm thấy trong Kinh Dịch và có biểu tượng Âm Dương ở trung tâm. Những đôi mắt rồng này cũng là một chi tiết quan trọng mà kiến ​​trúc sư người Ba Lan Kazimierz Kwiatkowsky (Kazik) không bỏ qua khi ông có cơ hội nghiên cứu kiến ​​trúc của Hội An, đặc biệt là kiến ​​trúc của những ngôi nhà truyền thống. Một số chuyên gia nhìn thấy ở đôi mắt này sự hiện thân của linh hồn thành phố Hội An, trong khi những người khác lại cho rằng cặp mắt này là ẩn dụ về văn hóa và truyền thống phương Đông.

Theo nhà văn Hữu Ngọc, các nhà nghiên cứu đã lần ra nguồn gốc của chúng từ những chiếc đinh gỗ thường thấy trên các thanh ngang cửa ra vào của các ngôi chùa Phật giáo ở miền Nam Trung Quốc. Không ai tranh cãi về lời giải thích này về nguồn gốc của chúng, nhưng người ta cho rằng đôi mắt rồng này mang một ý nghĩa rất đặc biệt, một đặc điểm tâm linh hoặc tôn giáo mà chủ nhân muốn gắn kết với vận mệnh của mình khi định cư. Đối với người theo chủ nghĩa này, đôi mắt rồng có khả năng nghe được suy nghĩ của từng thành viên trong gia đình và cũng có thể nắm bắt mọi thứ đã xảy ra xung quanh ngôi nhà và ngay trong chính cuộc sống của họ. Cần nhớ rằng trước khi bị Hán hóa, người dân miền Nam Trung Quốc thuộc nhóm Bách Việt (Bách Việt).

Tương tự như người Việt Nam, họ theo thuyết vật linh vì họ tin vào một sức sống, một linh hồn điều khiển mọi sinh vật tự nhiên hoặc phi tự nhiên (bao gồm cả đồ vật). Tín ngưỡng này đã tồn tại từ xa xưa. Đôi mắt rồng, theo một cách nào đó, là linh hồn bảo vệ ngôi nhà.Một điểm đặc biệt khác thu hút sự chú ý của những ai có dịp ghé thăm những ngôi nhà cổ Hội An. Đó là những viên ngói ống âm dương thường thấy trong các tòa nhà đồ sộ của các khu thương mại lớn ở châu Á. Những viên ngói này, có hình dạng như một phần tư hình trụ, được sắp xếp sao cho một viên lồi nối với một viên lõm, nhờ vào sự cân bằng giữa Âm và Dương mà chúng được gọi là « ngói ống âm dương » (gạch âm dương). Chúng được làm bằng đất nung và luôn được chia thành bốn phần cong trước khi được đặt vào khuôn hình trụ, sấy khô và nung. Đối với những ngôi nhà rường truyền thống, chúng rộng rãi và thoải mái hơn vì có thể bao gồm 3 đến 5 tòa nhà. Chúng thường có một khu vườn riêng thu nhỏ ở phía sau tòa nhà đầu tiên, nơi chủ nhà, trong thời gian nghỉ ngơi và giải trí, đến hút thuốc lá, uống trà với bạn bè và ngắm cảnh. Điều duy nhất còn thiếu là chuyến thăm của bạn để cảm nhận những nét đặc trưng của những ngôi nhà truyền thống Hội An và những giá trị của chúng từ quá khứ. 

[Return HOI AN]

Hoi An et ses maisons historiques (2ème partie)

hoian_et_ses_maisons

Version anglaise

Version vietnamienne

On trouve aujourd’hui à Hội An deux types de maisons: maisons donnant sur la rue (nhà phố) et maisons analogues à celles trouvées dans les champs de rizières (nhà rường). Quel que soit le type de maison, sa construction nécessite au préalable l’étude du terrain bâti et de l’aménagement intérieur en accord avec les règles de la géomancie ou Feng Shui (Phong Thủy) dans le but de chercher l’énergie positive de l’environnement permettant d’apporter santé, richesse et bonheur au nouveau propriétaire. Les maisons donnant sur la rue sont en fait des boutiques accessibles à la fois à la rue et à la rivière. Leur devant sert à accueillir les clients tandis que leur arrière permet de faciliter le transport et l’évacuation des marchandises par la rivière. Contrairement aux temples ou aux sièges des congrégations, ces maisons n’ont ni verdure ni clôture. D’une manière générale, elles doivent remplir plusieurs fonctions à la fois: boutique, habitation et emmagasinage. Pour répondre à cette exigence, ces maisons ont été construites selon un ordre linéaire très précis en profondeur:

   véranda–bâtiment principal–cour–bâtiment postérieur — cuisine et toilette

Les maisons traditionnelles se font remarquer surtout par leur longueur. Pour cette raison, elles sont appelées souvent sous un autre nom « nhà chuột (trou des rats) ». Sur la rue, elles sont alignées étroitement les unes sur les autres et sont séparées par des impasses (ou ruelles ) assez larges et éclairées . C’est une autre particularité trouvée auprès des maisons traditionnelles.

En fonction de la profondeur de la maison (allant de 10 à 40 m), le nombre de bâtiments peut varier. Mais la maison « nhà phố » doit comporter au minimum deux bâtiments séparés soit par une cour et un petit jardin en miniature soit un passage couvert. Cela permet de relier la structure d’avant destinée à servir les clients et à accueillir les invités, à celle de derrière consacrée à l’emmagasinage des marchandises et à l’habitation familiale. À l’arrière du bâtiment postérieur de la maison, se trouve un espace où on installe la cuisine, le puits et la toilette.

On a l’habitude d’attribuer aussi à ces maisons traditionnelles le nom de « maisons- couloirs » car on prend soin de séparer toujours le couloir de l’espace réservé au commerce et à l’habitation pour faciliter non seulement la circulation mais aussi l’aération. On constate que le couloir occupe une partie particulièrement importante dans la superficie totale de la maison. De plus, pour faciliter l’aération de chaque bâtiment, on est habitué à mettre en place la double toiture (constituée d’un grand et d’un petit toit) et à surhausser les chevrons (rui nhà) de chaque toit grâce à la structure de style Gassho (2) et celle d’un seul pilier. Cela permet de stabiliser les deux toits dont chacun est bien fixé sur son propre angle et d’empêcher la filtration d’eau dans la maison en les alignant de façon parallèle. Plus les chevrons sont élevés, plus le commerce fonctionne mieux.(Rui cao, làm ăn tốt). C’est le maxime des Japonais mais c’est peut-être aussi l’une des explications de l’utilisation fréquente de cette technique dans la construction des maisons traditionnelles à Hội An. Il ne faut pas oublier que la plupart de leurs maisons ont été ré-achetées par les commerçants chinois et que leur influence dans la construction n’a pas décliné au fil des années.

Dans la région de Thừa Thiên Huế comme celle de Quảng Trị, les structures de style Gassho et d’un seul pilier sont fréquemment rencontrées et elles sont particulièrement importantes. Ce sont des structures qui sont considérées souvent comme celles de style vietnamien. Même, à l’intérieur de la cité interdite de Huế, on constate que son architecture a une structure mélangeant à la fois les styles vietnamien et chinois. À cause de la proximité de Huế, certains spécialistes trouvent que la structure des maisons traditionnelles de Hội An ont une étonnante ressemblance à celle de la cité impériale de Huế. C’est à partir de cette constatation qu’on les considère désormais comme un héritage précieux de la culture du Centre du Vietnam. Lire la suite (Tiếp theo)

Hội An với những nhà cổ truyền thống

hoian_et_ses_maisons traditionnelles

 

Dù là kiểu nhà nào đi chăng nữa thì việc xây dựng nhà cũng cần phải có sự nghiên cứu sơ bộ về khu đất xây dựng và cách bố trí nội thất  để được phù hợp với quy luật địa lý phong thủy và nhằm tìm kiếm năng lượng tích cực của môi trường hầu mang lại sức khỏe, sự giàu có và hạnh phúc cho chủ căn nhà mới. Những ngôi nhà quay mặt ra đường thực chất là những cửa hàng được thông ra cả đường lẫn sông. Mặt trước của nhà được sử dụng để tiếp đón khách hàng trong khi phía sau nhà thì thuận lợi cho việc vận chuyển và di tản hàng hóa bằng đường sông. Không giống như các ngôi đền hoặc các nhà của hội đoàn, những ngôi nhà này không có cây cỏ hoặc hàng rào. Nói chung, các nhà nầy phải thực hiện một số chức năng cùng một lúc: cửa hàng, nhà ở và kho chứa đồ. Để đáp ứng yêu cầu này, những ngôi nhà này được xây cất  mang tính chất nói tiếp nhau theo đường thẳng  và rất chính xác với chiều sâu:

Hiên nhà – tòa nhà chính – sân trong – tòa nhà phía sau – bếp và nhà vệ sinh.

Những ngôi nhà truyền thống đặc biệt nầy được nổi bật nhờ chiều dài. Vì lý do này, chúng thường được gọi dưới một cái tên khác là « nhà chuột (ổ chuột) ». Ở mặt đường, các nhà được nối tiếp nhau một cách chặc chẽ và được cách xa nhau bởi những ngõ cụt khá rộng và sáng suốt. Đây là một đặc thù khác được tìm thấy với những ngôi nhà truyền thống.

Tùy theo độ sâu của ngôi nhà (từ 10 đến 40 thước) mà số lượng  toà nhà có thể thay đổi. Nhưng  ngôi nhà mà đựợc  gọi là « nhà phố” phải gồm ít nhất hai toà nhà cách xa nhau bởi một  cái sân và một khu vườn nho nhỏ hay là một lối đi có mái che. Điều này làm cho ngôi nhà có thể kết nối  lại cấu trúc ở phiá trước đây  nhằm để phục vụ khách hàng và tiếp đón khách với cấu trúc  ở phía sau dành cho việc lưu trữ hàng hóa và nơi ở của gia đình. Ở phía sau của toà nhà ở đằng sau của ngôi nhà thì có một không gian được bố trí  để có một gian bếp, một cái giếng và nhà vệ sinh.

Người ta c ó thói quen hay  gán cho những ngôi nhà truyền thống này cái tên « nhà hành lang » vì họ luôn chú ý việc tách hành lang ra khỏi không gian dành cho mậu dịch và nhà ở để tạo điều kiện thuận lợi không chỉ cho sự giao thông mà còn tiện bề cho sự thông gió. Có thể thấy được hành lang chiếm một phần đặc biệt quan trọng trong tổng diện tích của ngôi nhà. Ngoài ra, để tạo sự thông thoáng cho mỗi tòa nhà, người ta  thường sử dụng cách lắp đặt mái đôi (gồm một mái lớn và một mái nhỏ) và nâng cao các rui nhà của mỗi mái nhờ cấu trúc của một trụ duy nhất và theo kiểu Gassho (2).

Điều này giúp việc ổn định hai mái nhà, mỗi mái được bố trí ở một góc độ  riêng và ngăn cặn được nước không vào nhà bằng cách sắp xếp hai mái được song song. Rui nhà càng cao thì việc buôn bán càng thuận lợi (Rui cao, làm ăn tốt). Đây là câu châm ngôn của người Nhật nhưng có lẽ cũng là một trong những lời giải thích cho việc sử dụng thường xuyên kỹ thuật này trong  việc xây dựng các ngôi nhà truyền thống ở Hội An.

Cần nên nhớ rằng hầu hết các ngôi nhà của họ đã được các thương nhân Trung Quốc mua lại và ảnh hưởng của họ trong lĩnh vực xây dựng không hề suy giảm qua nhiều năm.

Ở khu vực Thừa Thiên Huế như Quảng Trị, phong cách Gassho và các cấu trúc cột đơn thường xuyên được gặp và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây là những cấu trúc thường được coi là mang phong cách riêng của người dân Việt. Ngay bên trong Tử Cấm Thành Huế, chúng ta có thể thấy kiến ​​trúc có cấu trúc đựợc pha trộn giữa phong cách Việt Nam và Trung Quốc. Vì gần với Huế, một số học giả nhận thấy rằng cấu trúc của các ngôi nhà truyền thống của Hội An có sự tương đồng đáng ngạc nhiên với kiến ​​trúc của kinh thành Huế. Chính từ nhận định này, các ngôi nhà được  xem coi là một di sản quý giá của văn hóa miền Trung Việt Nam.       [Đọc tiếp: Phần 3]

Forme de triangle pentu de deux éléments inclinés regroupés ensemble au
sommet comme deux mains jointes en prière (Gassho). 

Version anglaise

Today in Hội An, there are two types of houses: houses facing the street (nhà phố) and houses similar to those found in rice fields (nhà rường). Regardless of the type of house, its construction requires prior study of the built terrain and interior layout in accordance with the rules of geomancy or Feng Shui (Phong Thủy) in order to seek the positive energy of the environment that brings health, wealth, and happiness to the new owner. The houses facing the street are actually shops accessible both from the street and the river. Their front serves to welcome customers while their back facilitates the transport and evacuation of goods by river. Unlike temples or the headquarters of congregations, these houses have neither greenery nor fences. In general, they must fulfill several functions at once: shop, residence, and storage. To meet this requirement, these houses were built according to a very precise linear order in depth:

veranda–main building–courtyard–rear building — kitchen and toilet

Traditional houses are especially notable for their length. For this reason, they are often called by another name « nhà chuột (rat hole). » On the street, they are closely aligned with each other and separated by fairly wide and well-lit alleys (or lanes). This is another characteristic found in traditional houses.

Depending on the depth of the house (ranging from 10 to 40 meters), the number of buildings can vary. But the « nhà phố » house must have at least two buildings separated either by a courtyard and a small miniature garden or a covered passage. This allows connecting the front structure, intended to serve customers and welcome guests, to the rear one dedicated to storing goods and family living. Behind the rear building of the house, there is a space where the kitchen, well, and toilet are installed.

These traditional houses are also commonly referred to as « corridor houses » because care is always taken to separate the corridor from the areas designated for commerce and habitation, to facilitate not only movement but also ventilation. It is observed that the corridor occupies a particularly significant portion of the total area of the house. Furthermore, to facilitate the ventilation of each building, it is customary to implement double roofing (consisting of a large and a small roof) and to raise the rafters (rui nhà) of each roof using the Gassho-style structure (2) and that of a single pillar. This stabilizes the two roofs, each firmly fixed at its own corner, and prevents water from leaking into the house by aligning them parallel to each other. The higher the rafters, the better the business performs (Rui cao, làm ăn tốt). This is a Japanese maxim but may also be one of the reasons for the frequent use of this technique in the construction of traditional houses in Hội An. It should not be forgotten that most of their houses were repurchased by Chinese merchants and that their influence on construction has not diminished over the years.

In the Thừa Thiên Huế region, as well as in Quảng Trị, Gassho-style and single-pillar structures are frequently encountered and are particularly important. These are structures often considered to be of Vietnamese style. Even within the Imperial City of Huế, it is observed that its architecture has a structure blending both Vietnamese and Chinese styles. Due to the proximity of Huế, some specialists find that the structure of traditional houses in Hội An bears a striking resemblance to that of the Imperial City of Huế. It is based on this observation that they are now regarded as a precious heritage of Central Vietnam’s culture.    [Reading more :Part 3]

 

Bibliographie

  • Hội An. Hữu Ngọc- Lady Borton. Editeur Thế Giới
  • Patrimoine architectural, urbain, aménagement et tourisme: la ville Hội An, Việtnam. Huỳnh Thị Bảo Châu, thèse doctorat de l’université Toulouse 2, Juillet 2012.
  • Ancient town of Hội An thrives today. World heritage Hội An. Showa Women’s university of International Culture. Japan.