Civilisation Óc Eo (Versions française, anglaise et vietnamienne)

poster_oc_eo

Version vietnamienne

English version

Galerie des photos

En raison de l’abondance des trouvailles archéologiques en étain à Óc Eo dans le delta du Mékong (An Giang), l’archéologue français Louis Malleret n’hésite pas à emprunter le nom Óc Eo pour désigner cette civilisation de l’étain. On commence à avoir désormais une vive lumière sur le royaume du Founan ainsi que sur ses relations extérieures lors de la reprise des campagnes de fouilles menées tant par des équipes vietnamiennes( Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải , Lê Xuân Diêm) que par l’équipe franco-vietnamienne dirigée par Pierre-Yves Manguin entre 1998 et 2002 dans les provinces An Giang, Đồng Tháp et Long An où se trouve un grand nombre de sites de culture Óc Eo. On sait que Óc Eo était un grand port de ce royaume et une plaque tournante dans les échanges commerciaux entre la péninsule malaisienne et l’Inde d’un côté et le Mékong et la Chine de l’autre. Comme les bateaux de la région  pouvaient  couvrir de longues distances et devaient suivre la côte, Óc Eo devint ainsi un passage obligatoire  et une étape stratégique importante   durant les 7 siècles de floraison et de prospérité du royaume du Founan.

 

Bảo tàng lịch sử Hà Nội

Cette civilisation de l’étain se distingue non seulement par sa culture du riz flottant mais aussi par son commerce avec l’extérieur. On a découvert un grand nombre d’objets autres que ceux de l’Inde trouvés  sur les rives du Founan: fragments de miroirs en bronze datant de l’époque des Han antérieurs, statuettes bouddhiques en bronze attribuées aux Wei, un groupe d’objets purement romains, des statuettes de style hellénistique en particulier une représentation de Poséidon en bronze. Ces objets étaient échangés probablement contre des marchandises car les Founanais ne connaissaient que le troc. Pour l’achat des produits de valeur, ils se servaient des lingots d’or et d’argent, des perles et des parfums. Ils étaient connus comme d’excellents bijoutiers. L’or était finement travaillé avec de nombreux symboles brahmaniques (Vishnu, Nandin, Vahara, Garuda, Shesha, Kurma etc.). Les bijoux (boucles d’oreilles en or au fermoir délicat,  filigranes d’or admirables, perles de verre, intailles etc. ) exposés dans les musées de Đồng Tháp, Long An et An Giang témoignent non seulement de leur savoir-faire et de leur talent mais aussi de l’admiration des Chinois dans leurs récits durant leur contact avec les Founanais. 

 

Galerie des photos

Bảo tàng lịch sử Saigon

No Images found.

Văn Hóa Óc Eo

Au Musée  national de l’histoire (Saïgon) 

Version vietnamienne

Vì lý do tìm ra được nhiều  các di vật cổ bằng thiếc  ở Óc Eo vùng châu thổ  sông  Cửu Long (An Giang),  nhà khảo cổ học Pháp Louis Malleret không ngần ngại mượn tên Óc Eo để chỉ định nền « văn hóa đồ thiếc ».  Chúng ta mới bất đầu từ đó  có cái nhìn sáng tỏ  về vương quốc Phù Nam  và các mối quan hệ bên ngoài  trong các  chiến dịch khai quật  kế tiếp lại  sau nầy với sự điều khiển  của nhóm người  Việt (Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải, Lê Xuân Diêm) và  nhóm người Việt  Pháp do ông Pierre-Yves Manguin đảm nhận giữa năm 1998 và 2002 ở An Giang, Đồng Tháp và Long An, các nơi mà có nhiều hiện vật của nền văn hóa Óc Eo. Chúng ta biết rằng Óc Eo là một thương cảng trọng đại và  trung tâm vận chuyển trong việc trao đổi hàng hóa   giữa  một bên  bán đão Mã Lai và Ấn Độ và bên kia  Trung Hoa và  đồng bằng sông Cửu Long. 

founan_collier

Thông thường  các thuyền bè trong vùng cần  đi xa và phải  dọc theo bờ  biển, Óc Eo trở thành vì thế  một địa điểm phải đến  và chặn đường chiến lược quan trọng suốt 7 thế kỷ phồn thịnh cho vương quốc Phù Nam. Nền văn hóa Óc Eo được xem nổi bật không những trong việc trồng lúa nước mà còn luôn cả quan hệ buôn bán với các nước ngoài khu vực. Chúng ta khám phá được một số di  vật khác hẳn với những đồ  vật  có nguồn gốc  văn hóa Ấn Độ  ở các lưu vực sông  của  vương quốc Phù Nam: những mảnh gương  đồng có từ thời Tây Hán, các tượng đồng  thì đời nhà Tùy, hạt chuổi La Mã,  một số đồ vật thời kỳ Hy Lạp hóa nhất là có  một biểu tượng Poseidon bằng đồng.

 

Các hiện vật nầy chắc chắn có được nhờ sự trao đổi hàng hóa vì người dân Phù Nam chỉ biết giao dịch trao đổi. Để mua các sản phẩm có giá trị, họ thường dùng thỏi vàng hay bạc, các hạt chuổi và nước hoa. Họ có tiếng là  những thợ kim hoàn xuất sắc. Các hiện  vật  bằng vàng được làm một cách tinh xão với các biểu tượng của  đạo Bà La môn (hình thần Vishnu, bò thần Nandin, lợn thần Vahara, chim thần Garuda, rắn thần Shesha, rùa thần Kurma…). Các trang sức  (như khuyên tai bằng vàng hay có cái móc tinh vi, dây chuyền vàng tuyệt vời, hạt cườm, đá màu etc…) thường thấy trưng bày  ở các bảo tàng viện An Giang, Đồng Tháp hay Long An nói lên  không những sự khéo léo của người Óc Eo trong nghề làm kim hoàn mà luôn cả  sự ngưỡng mộ  cũa người Trung Hoa qua các câu chuyện kể lại  trong thời gian giao thương với người dân Óc Eo.


Version anglaise

 

Because of the abundance of  tin archaeological finds  at Óc Eo in the Mekong delta (An Giang), French archaeologist Louis Malleret does not hesitate to borrow the name Óc Eo for designating this tin civilization. We begin to have now a deep light on this kingdom as well as its external relations during the resumption of excavations undertaken both by Vietnamese teams (Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải, Lê Xuân Diêm) and French-Vietnamese team led by Pierre-Yves Manguin between 1998 and 2002 in An Giang, Ðồng Tháp and Long An provinces where a large number of sites of Óc Eo culture are located. We know  Óc Eo was a major port of this kingdom and  a transit hub in trade exhanges between  Malaysian peninsula and India on one hand and the  Mekong and China on other one. As the boats of the region could  cover long distances and had to follow the coast, Óc Eo thus became a mandatory stop and a important strategic step  during the 7 centuries of blooming and prosperity for Funan kingdom. 

This tin civilization is distinguished not only by the floating rice cultivation but also its external trade. We have discovered a large number of objects other than that of India found on Funan shores: fragments of bronze mirrors dating from the Han anterior period, Buddhist bronze statuettes attributed to Wei dynasty, a group of purely Roman objects, statuettes of Hellenistic style in particular a Poseidon  bronze representation. These objects were probably exchanged for goods because Funan people only knew the barter. For the purchase of valuable products, they used golden and silver ingots, pearls and perfumes. They were known as excellent jewelers. The gold was finely worked with numerous Brahmanic symbols. The jewels (golden earrings with the delicate clasp, admirable golden filigrees, glass pearls, intaglios etc.) exposed in the museums of Đồng Tháp, Long An and An Giang testifies not only of their know-how and their talent but also the  the Chinese’s admiration in their narratives during their contact with Funan people.

[Return CIVILISATION]

Cité interdite de Pékin (3ème partie)

 

Cité interdite de Pékin: 3ème partie

Version vietnamienne

English version

La tradition d’apposer des clous dorés sur les portes exista à l’époque des dynasties Sui et Tang (581-907). En ce qui concerne la cité interdite, on voit cette pratique sur ses 4 portes principales, mais il y a une seule  possédant cinq passages et le reste à 3 passages. C’est la porte du Midi (Ngọ Môn). À part la porte de l’Est (Ðông Hoa Môn) ayant 8 rangées de 9 clous dorés (8*9=72, un nombre pair divisible par 2 et un multiple de 3), les autres portes ont chacune 9 rangées de 9 clous dorés (9*9=81, un nombre impair et un multiple de 3). 

On trouve non seulement dans l’utilisation de ces clous le caractère structurel et décoratif mais aussi l’aspect solennel et majestueux du régime féodal de cette époque.

Clous de porte

On se pose des questions sur le choix du nombre pair (ou Yang) de clous dorés posés sur la porte de l’Est. On n’arrive pas à résoudre cette énigme jusqu’aujourd’hui. Certains pensent que lors des obsèques des empereurs Jiaqing (Gia Khánh) et Daoguang (Ðạo Quang), on emprunte le passage de cette porte pour l’enterrement. C’est pourquoi elle est connue aussi sous le nom « porte du démon »(Qủi môn). Cela pourrait expliquer l’utilisation du nombre pair (ou Yang) de clous dorés car c’est par cette porte qu’on rejoint le monde Yin des ténèbres (Âm Phủ). Le nombre de clous dorés posés sur les portes est aussi fixé en fonction de l’importance de la fonction assumée par l’occupant dans le régime féodal.

Du fait que l’empereur est le fils du Ciel, il est censé d’avoir moins de pièces (9999 étant le plus grand nombre Yin) pour sa cité par rapport à ce que possède Dieu dans le ciel pour sa résidence (10.000) (nombre Yang). Il s’agit bien d’un nombre symbolique représentant une infinité dénombrable en Chine. Lors de l’enquête menée en 1973, on arrive à dénombrer seulement 8704 (nombre Yang)  pièces à la cité interdite.

Brûleur d’encens

img_3307

Quant à la couleur jaune, dans la théorie du Yin et du Yang et de ses 5 éléments, on la voit associée non seulement à la terre mais aussi à la position centrale dans la gestion des choses, des espèces et des quatre points cardinaux. Etant la couleur du soleil à son zénith, le jaune radieux n’appartient qu’à l’empereur car elle est le symbole de la vénération et de la protection divine. Il fut interdit au peuple de se servir d’un certain nombre de couleurs: rouge, jaune, bleu d’azur etc. à cette époque. Par contre, dans la Chine antique, on avait le droit d’utiliser les couleurs suivantes: le noir, le blanc et le gris. Rien n’est étonnant de retrouver les deux couleurs dominantes: le pourpre et le jaune dans toutes les constructions de la Cité. (les murs pourpres et les tuiles vernissées jaunes des toits des édifices). Il y a quand même quelques exceptions qui ne sont pas étrangères au respect de la théorie du Yin et du Yang et de ses 5 éléments. C’est le cas du pavillon de la Culture (Wenyuan) abritant une bibliothèque. Il est recouvert de tuiles vernissées noires. Le feu reste toujours le sujet d’inquiétude dans la cité. Il est déclaré plusieurs fois sous la dynastie des Qing. Le dernier en date a eu lieu au moment où l’empereur Guang Xu était sur le point de se marier avec sa cousine Long Dụ (Long Yu) dans un mois. C’est un mauvais présage pour le mariage.

Arguant de ce prétexte, l’impératrice douairière Cixi exécuta sur le champ les deux eunuques responsables de la mise en place des lanternes. Dans le cas du pavillon de la Culture (Wenyuan), on fait allusion à la couleur noire, symbole de l’eau utilisée pour sa toiture  dans le but de prévenir le feu et de protéger les collections de livre. D’autres pavillons  situés près de la porte de l’Est Dong Hua Men (Ðông Hoa Môn) supportent une toiture de tuiles vernissées vertes car ils correspondent aux logements des princes. C’est aussi la couleur verte associée à l’Est dans la théorie de 5 éléments (Ngũ Hành).

[Retour à la page Cité interdite Pékin]

[Retour CHINE]

Paris Août 2017

Cité interdite de Pékin (2ème partie)

Version vietnamienne

Version anglaise

[Cité interdite de Pékin (2ème partie]

 Malgré le nom qu’il porte, ce palais de la Pureté céleste est témoin de plusieurs intrigues, de rivalités, de complots, de volte-face et d’assassinats. De plus, derrière le trône, au dessus du paravent, est toujours accroché un panneau transversal portant en épigraphe la devise suivante du troisième empereur des Qing, Shunzhi (ou Thuận Trị en vietnamien): Quang minh chính đại (ou La très grande rectitude). Elle est accompagnée plus tard par les commentaires flatteurs de son successeur, l’empereur Kangxi (Khang Hi): C’est une belle composition de tout temps, rayonnante et éternelle, méritant d’être l’exemple pour la postérité. Malheureusement, derrière ce panneau se cachent depuis toujours les conflits latents de la famille impériale.

Durant les 500 ans de règne des deux dynasties Ming et Qing, on relève plusieurs événements importants ayant eu lieu dans ce palais. D’abord l’empereur Jiajing (Gia Tĩnh) des Ming (1507-1567) connu pour sa débauche et sa cruauté indescriptible, a failli de mourir asphyxié par ses domestiques. Humiliées par son comportement paranoïaque et profitant du sommeil profond de ce dernier, celles-ci ont tenté de le tuer un soir en l’assommant et en serrant son cou avec sa ceinture. Mais à cause de la dénonciation de l’une d’entre elles auprès de l’impératrice, l’empereur fut sauvé in extremis. Ces domestiques furent exécutées sur le champ y comprise la concubine favorite de l’empereur. Puis l’empereur Taichang (Thái Xương) des Ming (1582-1620), de son nom personnel Zhu Changluo (Chu Thường Lạc) mourut subitement après un mois d’intronisation. On lui prête des abus sexuels ou un empoisonnement. Cela provoque une lutte implacable entre les clans pour la prise du pouvoir et d’influence. Cette affaire est connue sous le nom « Affaire des pilules roses » (Án Hồng Hoàn) car avant de mourir subitement, l’empereur a avalé des pilules. Enfin l’avant-dernier des empereurs des Ming, le fils de Taichang, Zhu Youjiao (Chu Do Hiệu) (1605-1628) connu sous le nom de règne Tianqi ( Thiên Hỷ ), se laissa  empêtré dans l’affaire connue sous le nom « Án di cung (Affaire des palais ) ». Profitant du jeune âge de l’empereur, la concubine de son père, Ly Tuyen Thi continua à faire pression sur lui. Elle s’entêta à résider dans le palais Qianqing (Càng Thanh). Elle demanda à l’empereur de lui accorder le titre d’impératrice douairière dans le but de pouvoir s’ingérer dans les affaires d’état. Face à la protestation de la cour et à la  fermeté de l’empereur, elle fut  contrainte de quitter le palais et de vivre dans un autre palais brûlant  complètement quelques semaines plus tard. Heureusement, elle s’en sortit  indemne avec sa fille. On vit dans cette affaire la mainmise de l’empereur malgré sa contestation. Les historiens chinois ont l’habitude de regrouper ces trois affaires ci-dessus et de les désigner sous le nom « Vãn Minh Tam Án (Trois Affaires à la fin de la dynastie des Ming ) ».

Sous le règne des empereurs Qing, on note deux événements majeurs. Malgré son despotisme éclairé, Kangxi (Khang Hi) connut la fin de son règne ternie par les intrigues qui opposaient ses héritiers présomptifs. En nommant au départ son fils Yinreng comme prince héritier à 2 ans, Kangxi décida de changer d’avis et de choisir finalement pour lui succéder son 14ème fils, le prince Dân Trinh (Yinti). 

Il rangea  secrètement derrière le panneau transversal portant la devise « La très grande rectitude« , une boîte contenant ses recommandations suivantes: Truyền vị thập tứ tử ( léguer le pouvoir à mon 14ème fils) car c’est son fils préféré. Selon l’on-dit, lorsque Kangxi était  gravement malade et éloigné de son fils Yinti en campagne dans la région de Xinjiang, son quatrième fils, le prince Yingzheng profita de cette situation pour saisir la boîte et modifier le contenu en supprimant le mot « thập »(dix), ce lui permit de devenir empereur. Selon certaines rumeurs, après la modification, il se réfugia dans le jardin pour vérifier l’état de santé de Kangxi. Il lui donna entre-temps à boire un bol de ginseng douteux. Pour certains historiens, la mort subite de Kangxi est attribuée à la responsabilité de Yingzheng (Dân Chính) et continue à alimenter les conversations des gens. A peine intronisé en 1723 sous le nom de Yongzheng (Ung Chính), il s’empressa d’éliminer ou d’exiler tous ses opposants potentiels (ses demi-frères et leurs partisans). Soucieux du problème de succession dont il prit connaissance lors de son propre avènement, il mit en place un système ingénieux permettant au souverain en titre de choisir secrètement et sans contestation son successeur en rédigeant une lettre de recommandation désignant le successeur en deux exemplaires, l’un rangé dans une boîte placée derrière le fameux panneau transversal, l’autre porté toujours par l’empereur en titre. En cas du décès de celui-ci, il est possible de chercher l’exemplaire rangé dans la boite et de le comparer avec celui que portait l’empereur décédé pour introniser le nouveau empereur. Aucune contestation n’est possible. Ce système de nomination continue à être maintenu jusqu’au règne de Xianfeng (Hàm Phong). Il est tombé en désuétude car l’empereur Xianfeng avait avec l’impératrice Ci xi, un seul fils, l’empereur Tongzhi (Đồng Trị). Afin de maintenir astucieusement la régence, elle abolit carrément ce système par la désignation successive des empereurs enfants Guangxu (Quang Tự) et Pu Yi (Phổ Nghi).  

[Cité interdite de Pékin: 3ème partie]

 

 

Cité interdite Pékin (Tử Cấm Thành, Bắc Kinh)

Cité interdite (Tử Cấm Thành)

Version vietnamienne

English version

Après avoir vaincu son neveu Jianwen dont la mort continue à rester une énigme pour les historiens , le troisième empereur de la dynastie des Ming, Chou Di connu sous le nom de règne Yong Le (Vĩnh Lạc), décida de transférer la capitale à Pékin à la place de Nankin pour des raisons stratégiques. Face à la menace mongole toujours pesante sur l’empire, il aimerait riposter rapidement à toute tentative du raid. Il chargea l’architecte en chef Ruan An d’origine vietnamienne (Nguyễn An en vietnamien) de superviser la construction de la Cité interdite sur les ruines de la capitale impériale mongole Khanbalik (ville du Khan) créée par Kubilai Khan en 1267 et décrite par Marco Polo dans son « Devisement du Monde, le livre des Merveilles« , en 1406 selon un protocole bien défini. Deux cent mille ouvriers ont été employés à cette tâche gigantesque qui dura 14 ans.

 

Cố Cung

Outre la participation d’un grand nombre de provinces chinoises dans la fourniture des matériaux: le marbre de Xuzhou (Jiangsu), les briques de Linqing (Shandong), la pierre des carrières de Fangshan et de Panshan non loin du Pékin, le bois de charpente nanmu provenant du Sichuan (Tứ Xuyên), les colonnes du Guizhou (Qúi Châu) et du Yunnan (Vân Nam) etc., on relève également la restauration du grand canal impérial datant de l’époque de la dynastie des Sui (nhà Tùy). Cette voie d’eau s’avère indispensable pour l’acheminement de ces matériaux et des denrées alimentaires jusqu’à la capitale, Pékin. Entre 1420 et 1911, un total de 24 empereurs de deux dynasties Ming et Qing y ont résidé. Le dernier empereur vivant dans cette cité était Pu Yi

 On se pose des questions sur le maintien et la conservation de la cité par les Qing lors de leur prise au pouvoir car jusque-là, dans la tradition chinoise, les vainqueurs avaient l’habitude de détruire systématiquement tous les palais des dynasties précédentes. On peut prendre exemple sur le fondateur des Ming, Zhu Yuanzhang (Chu Nguyên Chương) connu sous le nom de règne Hongwu (Hồng Vũ). Celui-ci a donné l’ordre à ses troupes de détruire la ville de Khan (Khanbalik) à Pékin et a transféré la capitale à sa ville natale Nankin (Nam Kinh). On ignore les raisons qui ont poussé les Qing à conserver la cité de leurs prédécesseurs. Malgré l’effort de ces derniers de rénover les palais de la cité, d’y ajouter d’autres édifices et de les marquer de leur sceau, la cité continue à garder éternellement l’empreinte de son fondateur Yong Le. Celui-ci, l’un des trois illustres empereurs de la Chine impériale (avec Wu Di des Han, Tai Zhong des Tang) chargea l’amiral eunuque Zheng He (Trinh Hòa) d’entreprendre dans l’océan indien de grandes voyages d’exploration dont les récits ont été rapportés plus tard par son compagnon de route, Ma Huan (Mã Hoàng ) dans son livre intitulé « Merveille des océans« . Profitant de l’usurpation de pouvoir de Hồ Qúi Ly, il annexa le Viêt-Nam en 1400. Sans les 10 années de résistance du peuple vietnamien avec Lê Lợi, le Viet Nam serait probablement une province chinoise.
 

© Đặng Anh Tuấn
Etant une véritable ville dans une ville et construite dans une zone rectangulaire  de 960 m sur 750 m, la cité est divisée en deux parties: la cour extérieure (waichao) (2)(ou Tiền triều en vietnamien) dévolue à la vie cérémonielle et la cour intérieure (neichao)(3)(ou Hậu tẩm en vietnamien), réservée à la demeure de l’empereur et de sa famille. Trois pavillons sont trouvés dans la partie extérieure: le palais de l’Harmonie Suprême (Taihe)(ou Thái Hòa en vietnamien), le palais de l’Harmonie Parfaite (Zhonghe) (Trung Hoa Ðiện) et le palais de l’Harmonie Préservée (Baohe) (ou Bảo Hòa en vietnamien)  tandis que la partie intérieure abrite le palais de la Pureté Céleste (Qianqing)(ou Cung Càn Thanh en vietnamien), la salle de l’Union (Jiaotai)(Ðiện Giao Thái en vietnamien) et le palais de la Tranquillité Terrestre (Kunning) (Khôn Ninh en vietnamien ) entourés respectivement par les « six Palais de l’Est » et les « Six Palais de l’Ouest »(Tam Cung Lục Viện en vietnamien).   

En visitant la cité interdite, on doit  emprunter la porte du Midi (ou porte du Méridien)(Ngọ Môn).  Celle-ci est la principale porte de la cité interdite. Elle fut témoin à une époque, de nombreuses cérémonies liées au départ ou retour triomphal de l’armée et à  la promulgation d’un nouveau calendrier .  Elle est l’unique porte ou plutôt un édifice en forme de U , haut  de  8 mètres et surmonté de cinq pavillons  aux doubles corniches   en tuiles vernissées de couleur et possédant cinq passages. Cet ensemble architectural porte le surnom imagé de « Cinq Tours de Phénix« (Lầu Ngũ Phụng) car il ressemble à l’image d’un phénix. Derrière la porte du Midi, se trouve  une grande cour traversée  par une rivière à 5 ponts richement décorés, la rivière aux eaux d’or.  Celle-ci est  bordée des deux côtés des balustrades en marbre sculptées de dragons et de phénix qui se poursuivent tout le long de son parcours.

Du fait que la cour extérieure est caractérisée par le principe Yang, ses palais sont surélevés par rapport à ceux de la cour intérieure de principe Yin (Âm) grâce à la construction et à l’élévation d’un même soubassement  à trois paliers, en marbre blanc sculpté. Cela fait ressortir non seulement la splendeur de ses palais mais aussi le caractère imposant du principe Yang. De même dans la cour intérieure, le palais de la pureté céleste (Càn Thanh) où l’empereur vivait et travaillait, est surélevé par rapport aux autres palais du fait qu’il est caractérisé par le principe Yang. On voit ici un exemple concret du principe Yang dans le principe Yin. (Dương trong Âm). Entre le palais de la pureté céleste (Yang) et le palais de la tranquillité terrestre (Yin), se trouve la salle Jiaotai. Etant le trait d’union du Yin et du Yang représentés respectivement par le palais Qianqing (Càn Thanh) (demeure de l’empereur) et le palais Kunning (demeure de l’impératrice), cette pièce témoigne de l’harmonie parfaite entre ces principes pour souligner implicitement la paix. Tous les bâtiments de la cité sont orientés vers le Sud pour bénéficier des bienfaits de l’énergie Yang.


1 Porte du Midi (Ngọ Môn)

2 Cours  extérieure (Waichao)(Tiền triều)

  • Palais de l’Harmonie Suprême (Taihe)(ou Thái Hòa en vietnamien),
  • Palais de l’Harmonie Parfaite (Zhonghe) (Trung Hoa Ðiện)
  • Palais de l’Harmonie Préservée (Baohe) (ou Bảo Hòa en vietnamien)

3 Cours intérieure (Neichao)(Hậu tẩm)

  • Palais de la Pureté Céleste (Qianqing)(Cung Càn Thanh)
  • Salle de l’Union (Jiaotai)(Giao Thái)
  • Palais de la Tranquillité Terrestre (Kunning)(Khôn Ninh)

4) Six Palais de l’Ouest (Lục viện)

5) Six Palais de l’Est (Luc viện)


 

Ordonnée par la géomancie traditionnelle chinoise, la cité est limitée au nord par la colline artificielle Jingshan (colline du charbon) et par la Muraille de Chine dans le but de se protéger des effets néfastes du souffle Yin du Nord (vents froids, guerriers de la steppe, mauvais génies etc.). De même, on signale au sud, la présence des fossés remplis d’eau et la rivière aux eaux d’or, ce qui permet de faire circuler ainsi l’énergie enfouie dans le sol, le Qi dont la fuite est empêchée par la création de différents niveaux au sol. C’est cette forme d’aménagement qu’on trouve dans la construction d’un même soubassement de marbre à trois gradins pour les trois palais réservés aux cérémonies officielles. Le Qi est ainsi ramené par la construction d’un passage en pente descendante puis remontante entre les palais dans le but de rompre la monotonie de la platitude du sol et de le véhiculer trois fois de suite vers le sommet où se dresse le trône de l’empereur dans le palais de l’harmonie suprême (Điện Thái Hoà) . Étant le trait d’union entre le Ciel et la Terre, celui-ci est assis  face au sud, dos au nord, son côté gauche à l’est et son côté droit à l’ouest. Chaque point cardinal est sous la protection d’un animal sacré: l’oiseau vermeil pour le Sud, la tortue noire pour le nord, le dragon bleu pour l’est et le tigre blanc pour l’ouest. Au plafond, dans l’axe vertical du trône, se trouve au dessus de la tête de l’empereur, la voûte céleste représentée par un caisson richement décoré à l’intérieur duquel deux dragons dorés jouent avec une perle géante. C’est ici que le touriste, lors de sa visite, se pose des questions sur le nombre des dragons utilisés dans l’ornementation de ce palais car  cet animal sacré est présent partout. Selon certaines sources, il y a en tout 13844 dragons de toute taille et de tout genre  à l’intérieur et à l’extérieur du palais, ce qui  donne à cet édifice un air solennel et respectueux, difficile à trouver dans les autres palais de la cité.

Figurines sur les toits des édifices dans la cité interdite

Située sur l’axe sud-nord,  la cité interdite obéit en fait à la loi des nombres et au choix des couleurs. La sélection des nombres impairs (Yang) est apparue dans l’agencement des figurines sur les arêtes des toitures, dans la décoration et l’ornementation des portes de la cité interdite par la présence visible des clous dorés et dans la disposition maximale de pièces que compte la cité.   Groupées toujours en nombre impair  1-3-5-7-9, les figurines  marquent non seulement l’importance de l’édifice impérial mais aussi la fonction qu’occupe le propriétaire dans la hiérarchie impériale. Le nombre des figurines est fixé par le recueil de lois et de décrets de la dynastie des Qing connu sous le nom « Da Qing Hui Dian« ( Đại Thanh hội điển). Les figurines  représentant chacune un symbole et une qualité, sont établies dans un ordre très précis: dragon, phénix, lion, destrier céleste (thiên mã), hippocampe (hải mã), yaju (áp ngư), douniu (đấu ngưu), suanni (toan nghê), Xiezhi (hải trãi), hangshi (khỉ) . Elles sont toujours précédées par un immortel taoïste appelé parfois « prince Min » sur le dos d’un coq ou d’un phénix. À côté de ces animaux chimériques, du côté du faîte, se trouve toujours une tête d’animal cornu à gueule ouverte (neuvième fils du dragon) . Il y a une exception à cette règle d’alignement. C’est le cas du palais de l’harmonie suprême Taihe (Ðiện Thái Hòa) où 10 figurines sont toutes présentes sur l’arête de sa toiture car c’est ici que l’empereur a organisé les festivités importantes (intronisation, mariage, anniversaire, nouvel an, solstice d’hiver etc.). L’utilisation de ces figurines est destinée à protéger les édifices contre les esprits malfaisants et à montrer la puissance et la suprématie de l’empereur. Par contre, pour le palais de la Pureté Céleste (Qianqing) (ou Càn Thanh en vietnamien) le rôle est moins important que celui du palais de l’harmonie suprême. Bien que l’empereur y travaille, on ne dénombre que neuf figurines sur l’arête de sa toiture. Quant au palais de tranquillité terrestre (Kunning) (ou Khôn Ninh en vietnamien), on ne trouve que sept figurines car c’est la demeure de l’impératrice  à l’époque des Ming. Mais c’est aussi l’endroit où étaient honorées les divinités chamaniques  en parfait accord du Yin dans le  Yang à l’époque des Qing. Avant de conquérir la Chine des Ming, ces derniers d’origine mandchoue conservaient leurs croyances religieuses.

[Cité interdite de Pékin: Partie 2]

 

 

 

Théorie du Yin et du Yang (Âm Dương: 1ère partie)

yinyangviet

Vietnamese version

English version

La théorie du Yin et du Yang continue à être liée intimement à la vie journalière des Vietnamiens et  trouve son application dans tous les domaines. Est de nature Yin tout ce qui est fluide, froid, humide, passif, sombre, intérieur, immobile, d’essence féminine comme le ciel, la lune, la nuit, l’eau, l’hiver. Est de nature Yang tout ce qui est solide, chaud, lumineux, actif, extérieur, mobile, d’essence masculine comme la terre, le soleil, le feu, l’été.

On retrouve même ce caractère Yin et Yang dans la grammaire vietnamienne par l’utilisation des mots « con » et « cái». 

Analogues aux articles définis « le » et « la », ceux-ci sont employés pour indiquer dans certains cas restreints le genre mais on peut se baser sur le caractère « mobile » ou « immobile » de l’objet qu’ils accompagnent pour indiquer son appartenance à la classe sémantique correspondante. Le mot cái est utilisé dans le cas où l’objet porte le caractère « immobile » (tĩnh vật) : cái nhà (maison), cái hang (grotte), cái nồi (marmite) etc… Par contre, lorsque l’état « mobile » (động vật) fait partie de la nature de l’objet, on se sert du mot « con » pour le précéder. C’est le cas des mots suivants : con mắt (œil), con tim (cœur), con trăng (couleuvre), con ngươi (pupille), con dao (couteau) etc.

L’œil bouge sans cesse comme le cœur palpite. De même la couleuvre se meut ainsi que la pupille. Le couteau est considéré par les Vietnamiens comme un animal sacré. Il est nourri avec du sang, du vin et du riz. Le même nom que porte un objet peut aboutir à deux interprétations différentes en fonction de l’utilisation du mot «cái» ou «con». L’exemple suivant traduit le caractère mobile (con) ou immobile (cái) de l’objet thuyền (ou barque en français) employé: Con thuyền trôi theo dòng nước (La barque s’avance sur l’eau). Cela veut dire que quelqu’un fait avancer la barque avec la rame ou avec le moteur. Par contre, lorsqu’on dit « cái thuyền trôi theo dòng nước « (La barque s’avance sur l’eau), on insiste sur le fait qu’il n’y a personne pour manœuvrer la barque. C’est le flot des eaux qui fait avancer la barque toute seule. Cela note le caractère immobile de la barque. L’influence du Yin et du Yang, n’est pas étrangère à la façon d’attribuer parfois le sexe à des objets courants. C’est le cas du couteau (dao) : dao cái (grand couteau), dao đực ou dao rựa (ou machette). Cette remarque a été notifiée par Alain Thote, l’archéologue et sinologue français, dans son article intitulé « Origine et premiers développements de l’épée en Chine » : Les épées de Yue ont joui dans l’Antiquité d’une très grande célébrité. C’est le cas de  l’épée des entrailles de poisson que le boucher de nom  Zhuan Zhu (Chuyên Chư) a utilisée  pour assassiner le souverain Liao ( Ngô Vương Liêu)  de l’état de Wu (nước Ngô) à l’époque des Printemps et Automnes (Xuân Thu) etc …Certaines épées portaient un nom et  pouvaient être de sexe masculin ou féminin. L’expression « đực rựa » qu’on entend évoquer souvent dans les conversations pour désigner les hommes, provient de la coutume des Vietnamiens d’autrefois de porter les machettes lors de leur sortie. 

L’association des sexes est visible aussi depuis longtemps au Vietnam dans la riziculture : l’homme laboure et la femme repique. Le soc de la charrue qui transperce la terre (âm)(Yin) symbolise le sexe mâle ( Yang)(dương) tandis que par le repiquage la femme transmet son pouvoir de fécondation (âm)(Yin) aux plants de riz (dương)(Yang). Pour noter la parfaite perfection dans l’union harmonieuse du Yin et du Yang, on est habitué à dire en vietnamien : Unis, mari et femme parviennent à écoper toute l’eau de la mer d’Orient. (thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn).

Étant riziculteurs, les Proto-Vietnamiens étaient attachés non seulement au sol mais aussi à l’environnement car grâce aux phénomènes naturels (pluie, soleil, vent, nuages etc …), ils pouvaient avoir de bonnes récoltes ou non. La riziculture extensive sur brûlis ou en terrains naturellement inondés dépendait des aléas du climat. C’est pourquoi ils avaient besoin de vivre en harmonie avec la nature. Ils considéraient qu’ils étaient le trait d’union entre le Ciel et la Terre (Thiên-Nhân-Địa). Partant de cette notion, on est habitué à dire en vietnamien : Thiên Thời, Địa Lợi, Nhân Hòa (être au courant des conditions météorologiques, connaître bien le terrain et avoir l’adhésion populaire ou la concorde nationale). Ce sont les trois facteurs clés de la victoire auxquels ont fait référence souvent les stratèges vietnamiens (Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi,  Quang Trung) dans leur lutte contre les envahisseurs étrangers. Les Vietnamiens tiennent compte de cette triade (Tam Tài) dans leur mode de pensée et dans leur vie journalière. Pour eux, il n’y a pas de doute que cette notion a une influence incontestable sur l’homme lui-même: son destin est dicté par la volonté du Ciel et dépend de sa date de naissance. Avec l’environnement extérieur et intérieur de son logement, il peut recevoir le souffle néfaste ou bénéfique (qi) que génère la terre. L’art d’harmoniser l’énergie environnementale de son lieu d’habitation lui permet de minimiser ses ennuis et de favoriser son bien-être et sa santé. Un terrain plat sans ondulations ni collines est sans vie et manque de souffle qi (Khí). Les Vietnamiens appellent les collines et les montagnes Dragons et Tigres. Les bâtiments devraient avoir un dragon vert à la direction ouest et un tigre blanc à  la direction est. Le Dragon bienveillant doit être plus puissant que le Tigre. (Hữu Thanh Long, Tã Bạch Hổ) càd la montagne Dragon doit être plus haute que la colline Tigre.  La notion d’harmonie prend tout son sens lorsqu’un site adossé à une montagne et entouré de deux côtés par des chaînes de collines permettant de le protéger des vents qui dispersent le Chi (ou énergie cosmique) donne accès à un lac ou à un fleuve où il y a l’eau et la nourriture indispensable à la vie et  le cumul des énergies cosmiques (Chi).

Lire la suite

Nguyễn Trãi (Version française)

Người anh hùng dân tộc

Vietnamese version
English version

Nước mấy trăm thu còn vậy 
Nguyệt bao nhiêu kiếp nhẫn này.

Mille automnes ont passé, l’eau garde son visage
Mille générations ont contemplé la lune pareille à elle-même. 


On peut résumer la vie de ce grand homme politique par le biais du vers 3248 du grand classique Kim Vân Kiều de la littérature vietnamienne de Nguyễn Du au XVIIIè siècle:

Chữ Tài liền với chữ Tai một vần
Le mot « Talent » et le mot « Malheur » de tout temps se riment parfaitement. 

pour évoquer non seulement son talent inouï mais aussi sa fin tragique si regrettée par tant de générations vietnamiennes. Face à la force brutale que représentait l’armée chinoise de l’empereur Chenzu des Ming (Minh Thánh Tổ) dirigée par le général Tchang Fou ( Trương Phụ ) lors de son invasion au Ðại Việt ( ancien nom du Vietnam ) au neuvième mois de l’année de Bình Tuất (1406) , Nguyễn Trãi a su donner une géniale conceptualisation basée sur ce qu’avait dit Lao Tseu dans le Livre de la Vie et de la Vertu: 

Rien n’est plus souple et faible au monde que l’eau
Pourtant pour attaquer ce qui est dur et fort
Rien ne la surpasse et personne ne pourrait l’égaler
Que le faible surpasse le fort
Que le souple surpasse le dur
Chacun le sait.
Mais personne ne met ce savoir en pratique.

 et élaborer une stratégie ingénieuse permettant aux Vietnamiens, faibles en nombre de sortir victorieux lors de cette confrontation et de retrouver leur indépendance nationale après les dix années de lutte. Avec le brave terrien Lê Lợi, connu plus tard sous le nom de règne Lê Thái Tổ et 16 compagnons de lutte liés par un serment de Lung Nhai ( 1406 ) et 2000 paysans au mont Lam Sơn dans la région ouest montagneuse de Thanh Hoá, Nguyễn Trãi arriva à faire de l’insurrection en une guerre de libération et à convertir une bande de paysans mal armés en une armée populaire forte de 200.000 hommes quelques années plus tard.Cette stratégie connue sous le vocable « guérilla », s’était révélée très efficace car Nguyễn Trãi réussît à mettre en pratique la doctrine prônée par le Clausewitz chinois, Sun Zi ( Tôn Tử ) à l’époque Printemps et Automnes ( Xuân Thu ) , basée essentiellement sur les cinq variables suivantes: la Vertu, le Temps, le Terrain, le Commandement et la Discipline dans sa conduite de guerre. Nguyễn Trãi avait l’occasion de dire qu’il préférait conquérir les cœurs plutôt que les citadelles. Quand il y avait l’harmonie entre les dirigeants et le peuple, ce dernier acceptait de combattre jusqu’au dernier souffle. La cause sera entendue et gagnée car Dieu se range toujours à côté du peuple, ce que le sage Confucius a eu l’occasion de rappeler dans ses livres canoniques: 

Thiên căng vụ dân, dân chi sở dục, thiên tất tòng chí
Trời thương dân, dân muốn điều gì Trời cũng theo

Dieu aime bien le peuple. Dieu va accorder tout ce que le peuple lui demande.

On peut dire que chez Nguyễn Trãi, la tendance humaniste de la doctrine confucéenne a pris tout son développement. Pour s’assurer du soutien et de l’adhésion du peuple dans sa guerre d’indépendance, il n’hésita pas à se servir de la superstition et de la crédulité de son peuple. Il demanda à ses proches de monter sur les arbres, de graver à l’aide des cure-dents sur les feuilles avec du miel la phrase suivante: 

Lê Lợi vì dân, Nguyễn Trãi vì thân
Lê Lợi pour le peuple, Nguyễn Trãi pour Lê Lợi 

ce qui permit aux fourmis de manger du miel et de laisser ce message marqué sur les feuilles. Ces dernières étaient emportées par le vent dans les ruisseaux et dans les sources d’eau. En les y récupérant ainsi, le peuple crut que le message venait de la volonté de Dieu lui-même et n’hésita pas adhérer massivement à cette guerre de libération.

Humaniste de conviction, il pensait toujours non seulement aux souffrances de son peuple mais aussi à celles de ses ennemis. Il avait l’occasion de souligner dans une lettre adressée au généralissime chinois Wang Toung que le devoir d’un chef consistait à oser prendre la décision, à dénouer les haines, à sauver les êtres humains et à couvrir le monde de ses bienfaits pour léguer un grand nom à la postérité ( Quân Trung Từ Mệnh Tập). Il laissa aux généraux chinois vaincus Wang Toung ( Vương Thông ), Mã Anh, Fang Chen ( Phương Chính ), Ma Ki ( Mã Kỳ ) regagner leur pays avec 13000 soldats capturés, 500 jonques et des milliers de chevaux. Soucieux de la paix et du bonheur de son peuple, dans son chef d’oeuvre  » Proclamation sur la pacification des Ngô  » ( Bình Ngô Ðại Cáo ), qu’il a rédigé après avoir gagné la guerre et déboulonné l’armée chinoise hors du Vietnam, il rappela qu’il était temps d’agir avec sagesse pour le repos du peuple.

Pour permettre à la Chine de ne pas se sentir humiliée par cette défaite cuisante et pour restaurer surtout la paix durable et le bonheur de son peuple, il lui proposa un pacte de vassalité avec un tribut trisannuel de deux statues de taille courante en métal fin ( Ðại thần kim nhân ) en dédommagement de deux généraux chinois Liou Cheng ( Liễu Thăng ) et Leang Minh ( Lương Minh ) morts au combat.

Dans les premières années de lutte, Nguyễn Trãi connut plusieurs fois des défaites cinglantes et sanglantes (mort de Lê Lai, Ðinh Lễ etc…), ce qui l’obligea à se réfugier trois fois à Chí Linh avec Lê Lợi et ses partisans. Malgré cela, il ne se sentit jamais découragé car il savait que le peuple le soutenait à fond. Il comparait souvent le peuple à l’océan. Nguyễn Trãi avait l’occasion de dire à ses proches: 

Dân như nước có thể chở mà có thể lật thuyền.
Analogue à l’océan, le peuple peut porter le trône mais il peut le faire sombrer. 

La parole de son père Nguyễn Phi Khanh, capturé et déporté en Chine avec d’autres lettrés vietnamiens dont Nguyễn An, le futur bâtisseur de la Cité interdite à Pékin, faisait partie, au moment de leur séparation à la frontière sino-vietnamienne, continuait à être vivace dans son esprit et le rendait déterminé plus que jamais dans sa conviction inébranlable et dans sa juste lutte: 

Hữu qui phục Quốc thù, khóc hà vi dã
Hãy trở về mà trả thù cho nước, khóc lóc làm gì
Tu vas laver la honte de notre pays et venger ton père. A quoi bon t’attacher à mes pas en pleurnichant comme une fillette! 

Il passa des nuits blanches à la recherche d’une stratégie permettant de contrer l’armée chinoise au zénith de sa force et de sa terreur. Etant au courant des dissensions dans les rangs des adversaires, des difficultés que le nouvel empereur Xuanzong des Ming avait sur la frontière du Nord avec les Hungs après la disparition de Ming Cheng Zu en 1424 et des dégâts que l’armée chinoise avait subis lors de ces derniers engagements militaires malgré leurs succès sur le terrain, Nguyễn Trãi n’hésita pas à proposer au général Ma Ki une trêve. Celle-ci fut acceptée volontiers de deux côtés car chacun pensa à tirer avantage de ce répit soit pour consolider son armée dans l’attente des renforts venant de Kouang Si et de Yunnan et d’un engagement militaire de grande envergure ( chez les Ming ) soit pour reconstituer une armée déjà éprouvée par des pertes importantes et pour changer de stratégie dans la lutte de libération ( chez les Viet ). Profitant de la méconnaissance du terrain par l’armée chinoise de renfort venant de Kouang Si, il ne tarda pas à la manoeuvrer en mettant en oeuvre la doctrine « du plein et du vide » prônée par Sun Zi. Celui-ci avait dit dans son ouvrage « L’art de guerre » : 

L’armée doit être semblable à l’eau
Comme l’eau évite les hauteurs et se précipite dans les creux,
l’armée évite les pleins et attaque les vides. 

ce qui lui permit de décapiter Liou Cheng et son armée dans le « vide » Chi Lăng défini par Sun Zi, dans un défilé montagneux et bourbeux proche de Lạng Sơn. Il ne laissa aucun répit au successeur de Liou Cheng, Leang Minh de regrouper le reste de son armée chinoise en lui tendant un piège mortel aux alentours de la ville Cần Trạm. Puis il profita du succès remporté pour mettre en déroute l’armée de renfort du général chinois Mou Tcheng ( Mộc Thanh ), ce qui obligea ce dernier à déguerpir et à rentrer seul à Yunnan ( Vân Nam ).


Bataille Chi Lăng

Par crainte de perdre le gros de ses troupes dans l’affrontement et par souci de préserver le sang de son peuple, il préféra mettre en oeuvre la politique d’isolement des grandes villes Nghệ An, Tây Ðô, Ðồng Quan ( ancien nom de la capitale Hà Nội ) par l’investissement de tous les forts et de toutes les petites villes environnant celles-ci, par le harcèlement incessant des troupes de ravitaillement et par la neutralisation de toutes les troupes chinoises de renfort. Pour empêcher l’éventuel retour des envahisseurs et pour désorganiser leur structure administrative, il mit en place dans les villes libérées une nouvelle administration dirigée par les jeunes lettrés recrutés. Il ne cessa pas d’envoyer des émissaires auprès des gouverneurs chinois ou vietnamiens de ces petites villes pour les convaincre à se rendre sous peine d’être traduits en justice et condamnés à mort en cas de résistance. Cela s’avéra fructueux et payant car cela obligea le généralissime Wang Toung et ses lieutenants à se rendre sans conditions car ils se rendaient compte qu’il leur était impossible de tenir longtemps Ðồng Quang sans renfort et sans ravitaillement. Ce n’est pas seulement une guerre de libération mais aussi une guerre des nerfs que Nguyễn Trãi a réussi à mener contre les Ming.

L’indépendance reconquise, il fut nommé ministre de l’Intérieur et membre du Conseil secret. Connu pour sa droiture, il ne tarda pas à devenir la cible privilégiée des courtisans du roi Lê Thái Tổ. Ce dernier commença à prendre ombrage aussi de son prestige. Sentant le risque d’avoir le même sort réservé à son compagnon de lutte Trần Nguyên Hãn et imitant le haut conseiller chinois Zhang Liang ( Trương Tử Phòng ) de l’empereur des Han, Liu Bang ( Lưu Bang ou Hán Cao Tổ), il demanda au roi Lê Lợi de lui permettre de se retirer au mont Côn Sơn, l’endroit où il avait passé toute sa jeunesse avec son grand-père maternel Trần Nguyên Ðán, l’ancien grand ministre régent du roi de la dynastie des Trần, Trần Phế Ðế et l’arrière petit-fils du général Trần Quang Khải, l’un des héros vietnamiens dans la lutte contre les Mongols de Kubilai Khan. C’est ici qu’il a rédigé une série d’écrits composés qui rappelaient non seulement son rattachement profond à la nature dont il faisait sa confidente mais aussi son ardent désir de renoncer aux honneurs et à la gloire et de retrouver la sérénité. C’est aussi à travers ces poèmes qu’on trouve en lui un profond humanisme, une extraordinaire simplicité, une sagesse exemplaire et une tendance à la retraite et à la solitude. Il y a insisté sur le fait que la vie d’homme ne dure que cent ans au plus. Tôt ou tard on se retourne en herbes et en poussières. Ce qui compte pour l’homme, c’est la dignité et l’honneur comme la couverture bleue ( symbole de la dignité ) qu’avait défendue énergiquement le lettré chinois Vương Hiền Chi de la dynastie des Tsin lors de l’intrusion du voleur dans sa maison, dans son poème  » Improvisation d’un jour d’été «  ( Hạ Nhật Mạn Thành ) ou la liberté comme celle des deux ermites chinois Sào Phú et Hua Dzo de l’Antiquité dans son poème « Le Chant de Côn Sơn » ( Côn Sơn Ca ). Malgré la retraite anticipée, il fut taxé de régicide quelques années plus tard et fut supplicié en 1442 avec tous les membres de sa famille à cause de la mort subite du jeune roi Lê Thái Tông, épris de sa jeune concubine Nguyễn Thị Lộ et accompagné par celle-ci au jardin des letchis. On connaît toute chose sauf le coeur humain qui reste insondable, c’est ce qu’il a dit dans son poème Improvisation ( Mạn Thuật ) mais c’est aussi ce qui lui arriva en dépit de sa prévoyance. Sa mémoire fut réhabilitée seulement une vingtaine d’années plus tard par le grand roi Lê Thánh Tôn. On peut retenir en cet érudit non seulement l’amour qu’il a porté toujours pour son peuple et pour son pays mais aussi le respect qu’il a su toujours garder envers ses adversaires et la nature. À ce lettré vietnamien talentueux, il vaut mieux honorer sa mémoire en reprenant la phrase que l’écrivain Yveline Féray a écrite dans l’avant-propos de son roman « Dix Mille Printemps »:

La tragédie de Nguyễn Trãi est celle d’un grand homme vivant à une époque dans une société trop petite.

Sacrifice

 sacrifice_1f

English version

Vietnamese version

La vie est un jeu de hasard. La chance est contre nous. Mieux vaut mourir maintenant pour ce pays et laisser l’exemple du sacrifice.

Nguyễn Thái Học

Le Vietnam n’est pas non seulement une terre des légendes et des lettrés mais c’est aussi une terre que les hommes ont conquise, arpent par arpent, sur une nature marâtre depuis plus de quatre mille ans. Le berceau de la nation vietnamienne, le delta du Tonkin, délimité au Nord par les collines douces des Cents-Mille-Monts de la Chine et étranglé au Sud par une chaîne quasi impénétrable, la Cordillère Annamitique, réduit à 15.000 km2 mais riche de toutes les boues arrachées par le Fleuve Rouge continue à être menacé par ce dernier avec le débit changeant de 500 m3 aux basses eaux jusqu’à 35000 m3 durant les plus fortes crues . Pour maîtriser les coups de sabre du Fleuve Rouge, les Vietnamiens recourent  à la méthode d’endiguement, ce qui les oblige à engager non seulement une surveillance accrue des digues mais aussi une lutte perpétuelle. Face aux intempéries incessantes de la nature, aux caprices du fleuve Rouge et aux ambitions territoriales de la Chine, les Vietnamiens doivent leur salut au prix de leur labeur et leur courage mais aussi de leur sacrifice dans leur longue marche  remplie d’embûches vers le Sud.

Ce sacrifice n’est pas étranger à la plupart des Vietnamiens, en particulier à des gens de caractère. Il devient aussi un culte qu’on aime à entretenir et à vanter incessamment au Vietnam pour exalter tout un peuple devant une menace étrangère.

Le sacrifice est le moyen le plus sûr pour entretenir la perfection de la patrie mais il est aussi synonyme du loyalisme et de dignité. Un grand homme est celui qui ose prendre ses responsabilités dans les moments difficiles de sa vie mais c’est aussi celui qui sait se sacrifier pour une bonne cause, en particulier pour sa patrie. Le sacrifice est indissociable du mot « honneur » au Vietnam.

A cause de cette dignité morale, beaucoup d’hommes d’armes ont préféré se suicider au lieu de se rendre (Trưng Trắc, Trưng Nhị, Trần Bình Trọng, Võ Tánh etc.). C’est pourquoi on est habitué à dire dans une maxime:

Hùm chết để da, người chết để tiếng.
Le tigre mort laisse sa peau et l’homme décédé sa réputation.

L’histoire du Vietnam est aussi l’histoire des sacrifices. Le devoir d’un Vietnamien est de servir sa patrie de tout son cœur. Plus les périls sont grands, plus son loyalisme paraît meilleur.

 

 

 

Le héros se sacrifie pour sa patrie. Quoi qu’il advienne, son honneur ne se salit jamais. C’est le cas du lettré Phan Thanh Giản, signataire du traité franco-vietnamien de 1868. Après avoir échoué dans sa tentative de tenir tête aux Français dans la défense des trois provinces de l’Ouest du delta du Mékong (Vĩnh Long, An Giang et Hà Tiên), il préféra la reddition et décida de s’empoisonner en 1867 car il pensa que c’était le seul moyen pour sauver le peuple et pour montrer sa fidélité à l’empereur Tự Ðức. De même, Nguyễn Tri Phương (1873) et Hoàng Diệu (1882), adversaires respectifs de Francis Garnier et de Henri Rivière préfèrent se suicider après avoir échoué dans la défense de la ville Hànội.

Le sacrifice devint durant l’occupation française le flambeau de l’espoir allumé par des gens inconnus tels que Nguyễn Trung Trực, Phạm Hồng Thái. Le premier accepta de mourir à la place de sa mère capturée après avoir réussi à  faire sauter le navire français « Espérance » lors de son passage sur le fleuve « Nhựt Tảo » à Long An tandis que le second, poursuivi par la police chinoise dans sa fuite, préféra se jeter dans le fleuve après avoir échoué dans sa tentative d’assassinat du gouverneur français Martial Merlin lors de son passage à Canton en 1924. Admirateur de son courage et de son sacrifice pour sa patrie, le gouverneur de Canton enterra plus tard sa dépouille dans un cimetière réservé uniquement pour les 72 héros chinois et connue sous le nom « Hoàng Hoa Cương » en vietnamien.

Si le sacrifice n’est pas un vain mot pour les hommes, il porte aussi une signification particulière pour les femmes vietnamiennes. La princesse Huyền Trân de la dynastie des Trần fut proposée en 1306 pour épouse du roi champa Chế Mân (Jaya Simhavarman) en échange de deux territoires du Champa Châu Ô et Châu Ri’. Elle dut sacrifier sa vie, son amour pour la raison d’état. De même, trois siècles plus tard, une princesse de la dynastie des seigneurs Nguyễn, de nom Ngọc Vạn à laquelle on a attribué souvent le mot  » Cochinchine » ou (Cô chín Chin) ne tarda pas à suivre la trace de Huyền Trân pour devenir la concubine du roi cambodgien Prea Chey Chetta II en 1618 en échange des facilités accordées aux Vietnamiens de s’installer dans la région Ðồng Nai Mô Xoài qui n’est autre que la région de Saigon-Cholon d’aujourd’hui.

Sa petite sœur, la princesse Ngọc Khoa fut donnée en mariage quelques années plus tard au dernier roi du Champa, Po Rômê en 1630. Cette alliance la condamna à être la cible privilégiée des Chams dans leur haine contre les Vietnamiens. Sa présence sur le sol cham servira de prétexte au seigneur Nguyễn Phúc Tần pour monter une expédition et annexer le dernier territoire du Champa en 1651. On ne peut pas reprocher aux Chams de détester la princesse Ngọc Khoa à cette époque car à cause d’elle ils ont perdu leur patrie. Mais Ngọc Khoa illustre par contre pour nous, les Vietnamiens, le sacrifice sublime qu’elle a consenti pour son pays et pour son peuple.

 

Po Klong Garai (Phan Thiết)

Dynastie des Han orientaux (Đông Hán)

 

Dynastie des Han orientaux (Nhà Đông Hán)

titre_dynhan_9Au musée des arts asiatiques  Guimet (Paris)

English version

Vietnamese version

Chronologie des Han orientaux

icon_daihan

 Đông Hán

25-57: Règne de Guangwudi

57-75: Règne de Mingdi

75-88: Règne de Zhandi

88-106: Règne de Heidi

106: Règne de Shangdi

106-125: Règne de Andi.

125: Règne de Shaodi.

125-144: Règne de Chongdi.

145-146: Règne de Zhidi.

146-168: Règne de Huandi.

168-189: Règne de Lingdi

184: Révolte des turbans jaunes

189: Destitution de Shaodi

189-220: Règne de Xiandi.

190: Montée et puissance du général Cao Cao (Tào Tháo)

220: Mort de Cao Cao et de Xiandi.

Fin de la dynastie des Han

Première domination chinoise

Dans les territoires conquis par les Han, notamment dans le Sud de la Chine, la sinisation continua à battre son plein. C’est pourquoi les révoltes se succédèrent d’abord dans le royaume de Dian (Điền Quốc) (86, 83 av. J.C., 14 apr. J.C., de 42 à 45 ). Elles furent réprimées avec sévérité. Ces soulèvements étaient dûs en grand partie aux exactions des fonctionnaires Han et aux comportements des colons chinois de prendre possession des sols fertiles et de refouler les populations locales dans les coins perdus de leur territoire. De plus, ces dernières devaient adopter la langue, les coutumes, les croyances religieuses des fils des Han. En l’an 40, une grave rébellion éclata dans la province Jiaozhou (ou Giao Châu en vietnamien) incluant à cette époque une partie du territoire de Kouang Si (Quảng Tây) et de Kouang Tong (Quảng Đông). Elle fut menée par les filles d’un préfet local, Trưng Trắc (Zheng Cè) l’aînée et Trưng Nhị (Zheng Èr) sa cadette. Comme le mari de l’aînée Shi Suo (Thi Sách) s’opposait à la politique d’assimilation chinoise menée brutalement par le proconsul chinois Tô Định (Su Ding), ce dernier n’hésita pas à l’exécuter pour faire un exemple contre les insurgés yue, notamment les Vietnamiens. Cette exécution exemplaire révolta les sœurs Trưng et déclencha immédiatement le mouvement d’insurrection dans les territoires yue.

icon_tigre

Poids de natte

destiné à maintenir les bords de la natte grâce à son poids.

 

 

Les deux sœurs Trưng réussirent à y enlever 65 citadelles dans un laps de temps très court. Elles se proclamèrent reines sur les territoires conquis et s’établirent à Meiling (ou Mê Linh). En l’an 41, elles furent vaincues par le général Ma Yuan (Mã Viện, Phục Ba Tướng Quân) (Dompteur des flots) et préférèrent le suicide à la reddition en se jetant dans la rivière Hát. Elles devinrent ainsi le symbole de la résistance des Vietnamiens. Elles continuent à être vénérées aujourd’hui non seulement au Vietnam mais aussi dans certains endroits des territoires Yue de la Chine (Kouangsi et Kouang Tong). Ma Yuan commença à appliquer une politique de terreur et de sinisation à marche forcée en plaçant à tous les échelons de l’administration, des hommes de confiance chinois et en imposant le chinois comme langue officielle dans tout le territoire des Vietnamiens. C’est la première domination chinoise durant presque 1000 ans avant la guerre de libération entamée par le général Ngô Quyền. Entre-temps, Guangwudi (Quang Vũ Đế) réussit à apporter la prospérité et la stabilité dans son empire en réduisant l’impôt au niveau des récoltes et des bénéfices. Après sa mort, analogue à Wudi (Vũ Đế), son fils Mingdi poursuivit la politique d’expansion en lançant une offensive contre les Xiongnu septentrionaux (Hung nô) dans le but de libérer les états d’Asie centrale de la tutelle de ces derniers et de rétablir au profit de la Chine la sécurité de la Route de la Soie (con đường tơ lụa). Le général Ban Chao (Ban Siêu), frère de l’historien Ban Gu (Ban cố) (*) de cette époque, fut chargé de cette expédition militaire. Il réussit à atteindre la mer Caspienne et à soumettre les Yuezhi (Nguyệt Chi hay Nhục Chi) grâce au concours des Kusana.

© Đặng Anh Tuấn


(*) Auteur des Annales de Han (ou Hanshu) (Hán Sử)

Galerie des photos

guimet_han

No Images found.

Bai Yue (Bách Việt)

bachviet1

English version
Vietnamese version

Les Bai Yue étaient probablement les héritiers de la culture Hoà Bình  (9000-5600 av J.C.), une découverte extrêmement importante de la part de l’archéologue française Madeleine Colani dans la province Hoà Bình du Vietnam. Ils étaient un peuple d’agriculteurs avertis: ils cultivaient le riz en brûlis  et en champs inondé  et élevaient buffles et porcs. Au moment du contact avec les gens nomades du Nord d’origine turco-mongole, les ancêtres des Hán (ou Chinois), ils étaient appelés par ces derniers, sous le nom « les Yue ». Ceux-ci   vivaient disséminés au sud du bassin du fleuve bleu (ou Dương Tử Giang), de Zhejiang (Triết Giang) jusqu’au Jiaozhi (Giao Chỉ)(le Nord du Vietnam d’aujourd’hui)  avant l’ère chrétienne et  avaient l’habitude de se servir de la hache dans la riziculture et dans les combats. Les ancêtres des Vietnamiens (ou les Luo Yue) faisaient partie de ces Bai Yue, les propriétaires des tambours de bronze. icon_tambour

 

Tambour de bronze exposé au musée Branly (Paris)

Ils se consacraient à la riziculture et se distinguaient des Chinois habitués à cultiver le millet et le blé. Ils buvaient de l’eau infusée avec les feuilles  d’une  plante   connue sous le nom « théier (trà) » qu’ils cueillaient dans la forêt. Ils aimaient danser, travailler tout en chantant et alterner des répliques dans les chants. Ils se déguisaient souvent dans la danse avec les feuilles des plantes. On les retrouva à cette époque dans les provinces actuelles de la Chine du Sud: Foujian (Phúc Kiến), Hunan (Hồ Nam), Guizhou ( Qúi Châu), Guangdong  (Quảng Ðông), Jiangxi (Giang Tây) , Guangxi (Quảng Tây) et Yunnan (Vân Nam) ainsi que dans le nord du Vietnam actuel. Ils étaient issus de la civilisation de  Liangzhu au bas du fleuve Yangtsé (Dương Tử).

Caractéristiques des Bai Yue

1°) La pratique de couper court les cheveux et le tatouage.
2°) La construction des maisons sur pilotis.  (construction Ganlan).
3°) La tenue en pagne et turban.
4°) Le noircissement ou la mutilation des dents de devant (dents canines).
5°) L’utilisation des palourdes et des amphibiens  dans leur régime alimentaire.
6°) Le moulage et l’utilisation rituelle des tambours de bronze.
7°) La divinisation effectuée avec les os des oiseaux et des volailles en particulier.
8°) Le culte totémique ( oiseaux, reptiles, et amphibiens).
9°) La pratique des enterrements sur les falaises.
10°) La participation active du père  dans la naissance  et  l’éducation de l’enfant et le retour de la mère aux activités rizicoles.
11°)  L’utilisation  intensive des barques et l’expertise dans l’art de guerre  maritime.
12°) La technique de tissage hautement développée.

 Version vietnamienne

Đại tộc Bách Việt


Đại tộc  Bách Việt có lẽ họ là  nhóm bộ tộc  thừa kế của  nền văn hóa Hòa Bình (9000-5600 TCN), một khám phá cực kỳ quan trọng của bà Madeleine Colani ở tỉnh Hòa Bình (Việtnam) . Họ    chuyên sống  về  nông nghiệp:  họ thường đốt nương trồng lúa trên rẫy hay  trên nước và nuôi bò và lợn. Lúc họ tiếp xúc  với những bộ tộc du mục ở phương bắc  thuộc góc Thổ-Mông, tổ tiên người Hán (hay người Hoa) thì họ được gọi bỡi các nhóm người nầy với cái tên Yuê (hay Việt). Đó là tên ám chỉ những dân tộc sống  ở phía nam  sông xanh Dương Tử Giang,  từ Triết Giang đến Giao Chỉ (miền bắc của nước Việt Nam ngày nay) từ thời trước công nguyên    và    thường dùng loại rìu để canh tác và giao chiến. Bộ tộc Lạc Việt (hay Lo Yue), tổ tiên của người Việt, cũng  thuộc về đại tộc Bách Vịệt, chủ nhân của trống đồng.  Họ đến từ văn hóa Lương Chử ở hạ nguồn của sông Dương Tử. 

Khác hẳn với dân tộc Hoa trồng kê và lúa mì, họ thì sống chuyên  nghề trồng lúa. Họ thường uống nước đun với một loại lá cây họ hái ở trong rừng mà họ thường gọi là trà. Họ  thích nhảy múa,  thường cải trang với lá cây  và  hát  đối đáp trong lúc làm việc.   Thời đó, họ thường định cư ở các tỉnh hiện nay thuộc về miền nam của Trung Quốc: Phúc Kiến, Hồ Nam, Quảng Đông, Giang Tây, Vân Nam và miền Bắc của nước Việt Nam.

Đặc tính của đại tộc Bách Việt

  1. Tục cắt tóc ngắn và xăm mình.
  2. Xây nhà sàn.
  3. Trang phục đặc trưng  với quần ngắn hay váy quấn và đầu đội khăn xếp .
  4. Tục nhuộm răng và nhổ răng ( răng nanh hoặc răng cửa trên).
  5. Chế độ ăn nhiều sò hến và ếch.
  6. Đúc và sử dụng trống đồng trong các nghi lễ .
  7. Bói bằng xương chim, đặc biệt là xương gà.
  8. Thờ vật tổ, đặc biệt là chim, bò sát, và cóc hay ếch.
  9. Tục táng trên vách đá.
  10. Tục lệ người cha tham gia quá trình đỡ đẻ và chăm sóc con nhỏ sau đó để người mẹ trở lại với việc làm đồng.
  11. Sử dụng nhiều đến thuyền bè và điêu luyện về thủy chiến.
  12. Kỹ thuật dệt phát triển cao.

[Return Vietnam des 54 minorités]

Nguyễn Thái Học (Yên Bái-VF)

Chàng thì tuổi trẻ tài ba
Chết vì đất nước đúng là nam nhi
Nàng thì thân liễu sá chi
Chết vì tình nghĩa đáng ghi muôn đời

Version vietnamienne

Contrairement à d’autres villes vietnamiennes, Yên Bái n’a aucun charme touristique. Elle n’est qu’une capitale provinciale, une ville fluviale située dans la vallée du Fleuve Rouge à mi-chemin sur la route menant de Hà-Nôi à la frontière chinoise Lào Cai. Malgré cela, elle continue à s’illustrer dans le passé par sa résistance armée animée par les nationalistes vietnamiens dans la lutte pour l’indépendance. Elle incarne non seulement l’espoir du peuple vietnamien de retrouver sa liberté par la force mais aussi l’intrépidité des nationalistes devant la mort après l’échec de leur révolte en 1930. Il faut se placer dans le contexte politique de cette époque pour connaître non seulement les causes de cette révolte mais aussi l’aspiration profonde du peuple vietnamien à l’indépendance après l’échec de Phan Chu Trinh de prôner la priorité du progrès global de la société sur l’indépendance politique, suivi par sa mort et la mise en résidence surveillée d’une autre figure de proue Phan Bội Châu à la capitale Huế par les autorités coloniales.

Malgré la mise en garde du colonel Parfait-Louis Monteil en 1924, peu de réformes étaient engagées en faveur des autochtones. Par contre, l’exploitation de la main d’œuvre à bon marché dans les plantations d’hévéa était au top de son efficacité et de son horreur. L’écrivain Roland Dorgelès en a parlé dans son ouvrage  » La Route Mandarine « . Cette terre vierge, quand elle s’ouvre sous le choc dégage une haleine mortelle. Autant d’allées tracées, autant de tombes ouvertes. Les hévéas grêles et bien en ligne, sortaient de terre,  comme des rangées de croix. Les morts se compteraient par dizaines de milliers pour cause de maladie ou de sous alimentation. C’est pourquoi on ne cessait pas de se plaindre à travers le poème suivant:

Kiếp phu đỗ lắm máu đào
Máu loang mặt đất máu trào mủ cây
Trần gian địa ngục là đây Ðồn điền đất đỏ nơi Tây giết người.

Le coolie a laissé tant de sang
Qui se répandait sur la terre et qui se mélangeait avec le latex de l’hévéa,
C’était ici l’enfer sur terre
Les plantations d’hévéas de terre rouge étaient l’endroit où les colons terriens tuaient des gens.

Mù Cang Chải (Yên Bái)

Pendant un demi-siècle, les colons terriens récupéraient du latex qu’ils transformaient en or. C’était dans ces plantations que se formait le germe de la révolte. Quelques uns comme Nguyễn Văn Viên arrivaient à sortir de cet enfer et rejoignaient ainsi le parti nationaliste vietnamien (Việt Nam Quốc Dân Ðảng ) dirigé par Nguyễn Thái Học. Pour montrer sa ferveur et trouver un écho favorable auprès des déshérités , en particulier des coolies des plantations, Nguyễn Văn Viên prit l’initiative, malgré la réticence de Nguyễn Thái Học, d’assassiner Bazin connu pour son zèle dans le recrutement des coolies et dans l’expédition de ces derniers dans les plantations d’hévéas du Sud Vietnam. La mort de ce dernier donnait aux autorités coloniales l’occasion de relancer la politique de répression tous azimuts.

Le parti nationaliste devint ainsi la cible privilégiée dans cette croisade. Il n’avait plus la possibilité de se mouvoir facilement. S’il ne réagissait pas, ce serait une mort lente car tous ses membres seraient capturés tôt ou tard par les autorités coloniales. S’il réagissait par la révolte, il savait que ce serait un suicide collectif, hasardeux et exemplaire. C’est pourquoi Nguyễn Thái Học avait l’habitude de dire souvent à ses compagnons de parti:


Ðại hà chi thanh, nhân thọ kỷ hà?
Ðợi sông Hoàng Hà trong trở lại, đời người thọ là bao?
En attendant que l’eau du fleuve Jaune devient limpide, combien d’années l’homme peut-il vivre?

Photo de Nguyễn Thái Học en prison.

Selon les Chinois, le fleuve Jaune ne retrouve sa limpidité que tous les trois cents ans. Nguyễn Thái Học savait très bien qu’il emmenait ses compagnons de parti vers une mort certaine. Il ne pouvait plus attendre. Mais cette mort semblait utile car elle rappelait au peuple vietnamien qu’il n’y avait pas de choix possible autre que la lutte. Elle marquait aussi le début d’une prise de conscience et le réveil de tout un peuple face à son destin qui était jusque -là dirigé par des héritiers indignes de la dynastie des Nguyễn (Khải Ðịnh, Bảo Ðại). La révolte de Yên Bái était un échec incontestable car la plupart des leaders nationalistes étaient capturés.

Par contre, elle jetait une base solide et durable dont le parti communiste vietnamien bénéficiait pour asseoir son autorité et sa popularité auprès du peuple dans les années à venir dans la conquête de l’indépendance. Elle sonnait aussi le glas d’un empire colonial qui avait perdu vainement tant d’occasions pour rétablir le dialogue et la coopération avec les autochtones. Cela se traduisait par la condamnation à mort de tous les leaders nationalistes. Nguyễn Thái Học était le dernier à être guillotiné. Avant son exécution, il était impassible. Malgré sa faiblesse, il tenta de crier à haute voix en français:

Mourir pour sa patrie
C’est le sort le plus beau
Le plus digne d’envie….

Puis il s’allongea sans émotion en face du couperet de la guillotine. « Vive le Vietnam » c’étaient les derniers mots entendus avant la chute du couperet de la guillotine. Son sang gicla partout sous un ciel assombri. Sa tête tomba dans un seau contenant de la sciure de bois. (17 Juin 1930). Il n’avait que 27 ans. Fidèle à la tradition vietnamienne, sa femme Nguyễn Thị Giang ne tarda pas à le suivre en se suicidant le 18 Juin 1930 à l’auberge où ils se rencontraient souvent avant leur mariage. Elle a laissé une lettre dont les phrases illustraient bien l’amour indéfectible qu’elle a porté pour son mari et pour son pays:

Sống nhục sao bằng sự thoát vinh
Nước non vẹn kiếp chung tình
………
Cuộc đời xá kể chi thành bại
Trai trung thì gái phải trinh

Mieux vaut mourir que vivre avec lâcheté
Je préfère éterniser mon amour pour toi et pour notre pays
….
Le succès et l’échec sont insignifiants dans la vie
Toi, tu choisis le dévouement et moi, je préfère la fidélité.

Les dépouilles des treize nationalistes vietnamiens furent enterrées le lendemain sur une colline proche de la gare de Yên Bái.

Si cette ville est moins connue que la plupart des villes vietnamiennes, elle incarne par contre quelque chose qu’aucune ville ne peut avoir. Elle est le symbole de la maturité et de la dignité retrouvée de tout un peuple face à son destin. Elle grandissait vaillamment dans le passé en même temps que le peuple vietnamien dans sa lutte pour l’indépendance.

Việt Nam Quốc Dân Ðảng