Chanoyu (Trà đạo)

Trà đạo

Version francaise

Trước khi nói đến trà đạo của người Nhật thì cũng nên nhắc lại nguồn gốc của trà. Trà có phải là  người Trung Hoa tìm ra không? Có thể là không vì người ta không tìm thấy cây trà hoang nào ở Trung Quốc cả mà ngược lại đã thấy một loại  cây trà nguyên thủy cùng chủng và cùng gốc với cây trà Trung Hoa (Camellia Sinensis ) ở vùng Assam (Đông Bắc Ấn Độ). Sau đó còn tìm được cây trà rừng trạng thái thiên nhiên ở các vùng biên giới như Tây Tạng, Miến Điện, Tứ Xuyên, Vân Nam, Việtnam vân vân ..Nên nhớ là Tứ Xuyên là đất của người nước Thục  và  Vân Nam thưở xưa là vùng của nước Điền cùng có liên hệ mật thiết với bộ tộc Lạc Việt (tổ tiên của người Việt Nam hiện nay). Sau nầy các nước nầy như Tứ Xuyên, Vân Nam bị người Hoa thôn tính luôn cả Việtnam dưới các triều đại Tần và Hán. Như vậy trà không phải thổ sản của người Trung Hoa nhưng họ có công thuần hoá cây trà nên  hương vị nó được thơm hơn. Họ dùng trà lúc đầu trà như  một vị thuốc chớ không được coi như là một thức uống. Trà được phổ biến sau đó dưới thời nhà Đường (từ năm 618). Trà được xem như là món đồ uống phổ thông trong xã hội nhất là  về sau khi có quyển Trà kinh của Lục Vũ ra đời dạy cho tất cả mọi người biết cách uống trà. Chính Lục Vũ còn xác nhận trong Trà Kinh là : «Trà là một loại cây quí ở phương nam …. ».  Chính Đức Khổng Tử còn nói với các đệ tử trong « Luận Ngữ » về đại tộc Bách Việt như sau: Người Bách Việt  ở phía nam sông Dương Tử có một lối sống, ngôn ngữ, truyền thống, tập quán và thực phẩm cụ thể. Họ trồng lúa và khác biệt với chúng ta thì quen canh tác kê và lúa mì. Họ uống nước  từ một loại cây đuợc hái trong rừng mà được biết với cái tên « trà »  vân vân …. Cũng nên nhớ lại dưới thời thống trị của Tần-Hán, có một tổ chức  của triều đình gồm có những sĩ phu địa phương (Fanshi). Họ được xem như là các pháp sư chuyên về nghi lễ và  thu nhập của triều đình. Vai trò của họ là ghi nhận tất cả quy trình nghi lễ, tín ngưỡng, thuốc địa phương, vũ trụ học, thần thoại, truyền thuyết, các sản phẩm địa phương. Họ  trình lên cho chính quyền trung ương những chuyện nghe thấy để chọn lọc, kết hợp  lại  tất cả cái hay dưới dạng các quy định với chủ đích tăng cường quyền lực  của vua ở những vùng đất mới được thôn tính. Chính vì thế mới có những truyền thuyết bịa đặt không có cơ sở của người Trung Hoa về cội nguồn của cây trà. Có hai truyền thuyết về cây trà với Bồ Đề Đạt Ma và Thần Nông, ông tổ nông nghiệp Trung Hoa. Biết rằng Đạt Ma tổ sư (Bodhidharma) là ông tổ sư của phái thiền tông Trung Hoa nhưng ông vì không muốn ngủ  đã cắt hai mí mắt vứt xuống đất nên nảy sinh ra cây trà.  Chắc chắn các thiền sư là những người đầu tiên dùng trà để quên buồn ngủ, tinh thần thỏa mái trong lúc thiền. Còn Thần Nông, ông vô tình uống nồi nước đang đun sôi có lá trà rơi vào. Từ đó ông là nguời biết dùng trà (khoảng 3000 năm TCN) trong quyển sách Bản Thảo, một cuốn sách cổ nhất về y học của Trung Quốc. Nhưng cuốn nầy được viết sau Công Nguyên dưới nhà Hán (25 -225 SCN). Thêm vào đó được biết Thần Nông  khi chết được chôn ở  Trường Sa (Chansha), trong địa phận của đại tộc  Bách Việt. Vậy  làm sao ông người dân phương bắc được (Trung Hoa). Không thể nào được vì thời đó ông di chuyển như sao nếu ông là người Trung Hoa ở phương bắc? Tất nhiên ông phải là người phương nam nhất là tên ông dù là tiếng Hán  vẫn còn giữ được cấu trúc Việt ngữ (theo chữ Hán thì phải Nông Thần).

Tencha

 Người Tàu rất chú trọng về phẩm chất của trà. Họ xem uống trà là một nghệ thuật. Họ cần không những các loại trà siêu phẩm mà  cả trà cụ, nước lọc, nước suối vân vân … và cách pha để trà có một hương vị riêng đặc biệt, thơm ngát  và thanh thoát. Còn người Nhật thì xem việc  uống trà  như là một nghi lễ vì họ được biết trà và  tiếp nhận thể thức uống trà  từ các thiền sư. Họ nâng việc uống trà lên thành một « lối sống thiền »  chịu ít nhiều ảnh hường thần đạo trong nghệ thuật. Với 4 nguyên tắc cở bản của trà đạo : Hoà  (Wa), Kính (Kei),Thanh (Sei),Tịch (Jaku)  nầy, người uống trà có cơ hội giải thoát toàn diện bằng cách hòa mình với thiên nhiên, mọi người, trà thất và các dụng cụ pha trà. Qua ngưỡng cửa trà thất nầy với diện tích bằng 4 tấm chiếu (tatami), trà nhân có thể tiếp xúc nói chuyện thoả mái với mọi giai cấp từ thầy tăng, quí tộc cho đến  cả thần thánh trong tinh thần bình đẳng. Trà nhân còn nhận diện ra bản thể cuộc sống nhất là sự trung thực của  chính bản thân mình qua sự  kính trọng đối với mọi vật và mọi người. Bản ngã cũng không còn hiện diện mà chỉ còn ở nơi mình một thứ tình cảm không dám coi thường người khác, một thứ tình cảm khiêm cung  đối với tha nhân. Tâm lúc đó sẽ được thanh tịnh khi ngũ quan không còn bị ô uế: mắt ngắm tranh treo (kakemono)  trong hốc phòng (tokonoma) hay hoa tươi trong chậu cắm hoa (ikebana), mũi ngữi làn hương thơm, nghe tiếng nước sôi (trong ấm), tay cầm trà cụ ngay ngắn và miệng nhấp từng ngụm trà, tất cả giác quan sẽ trở nên trong sạch. Tịch (jaku) đây là kết quả mà trà nhân sẽ được nhận thấy cuối cùng một khi tâm an trú hoàn toàn  ở hiện tại dù có sống giữa chốn muôn người hay không. Tịch đây xem như là một đức tính vượt ra khỏi vòng sinh tử  khiến  trà nhân có thể ngắm nhìn đời và sống trong một thế giới bình thường mà sự hiện diện không còn cần thiết. Trà nhân sẽ cảm nhận được việc uống trà không có đơn thuần vì nó vừa là một con đường có rất nhiều qui tắc  để có thể  uống được trà ngon hay không ngon mà nó còn là một phượng tiện hữu hiệu trong việc tu tâm dưởng tính giúp con người  được giác ngộ trong thiền đạo.

Sen no Rikyu

Đối với trà sư Sen no Rikyu, người có công nghi thức quá trà đạo việc uống trà nó rất đơn giản: trà không có gì khác hơn là việc đun nước nóng,  pha trà và uống cho đúng điệu.  

Lễ trà là một chuổi các sự kiện được sắp đặt một cách chu đáo và kỷ lưỡng. Lễ nầy gồm tối đa là 4 vị khách được mời cùng chủ nhân. Họ đi qua sân của trà thất. Họ phải thực hiện lễ thanh tẩy (rửa tay, súc miệng), bước vào một căn phòng hình hộp đơn sơ giản dị thường nằm ở một gốc vườn qua một  cửa  rất  thấp. Mọi người buộc lòng phải cuối đầu xuống mới bước vào được với sự cung kính. Thưở  xưa  ở ngưỡng cửa nầy, võ sĩ đạo  phải để kiếm của mình lại ở bên ngoài mới gặp chủ nhân ở trong  trà thất. Nơi nầy, các vị khách chiêm ngưỡng cách bố trí của trà thất lẫn các trà cụ. Họ theo dõi các nghi thức pha trà và dùng thức ăn với trà. Mỗi sự  kiện mang tính biểu tượng khiến làm vị khách nhận thức được  mỗi thời khắc quan trọng  trong buổi lễ trà. Có thể nói trà đạo đem lại sự hoà hợp giữa chủ nhân và các vị khách và thu ngắn lại khoảng cách không những giữa nhân và thiên mà giữa người với người. Bởi vậy trong giới võ sĩ đạo có câu thành ngữ như sau: « Nhất kì nhất ngộ (ichigo,ichie). Không có cuộc uống trà nào giống nhau cả, xem như đó là cái duyên mới gặp gỡ nhau được. 

Tài liệu tham khảo

Nguyễ Đức Chính: Đọc Kim Dung. Tìm hiểu văn hóa Trung Quốc. Nhà xuất Bản Trẻ.

H.E. Plutschow : Historical Chanoyu. The Japan Times ltd, Tokyo, 1986

Vũ Thế Ngọc: Trà Kinh. Nhà sách Tự Điển Bách Khoa 2013

Suzuki Daisetsu: Zen and the art of tea.Dịch chú: Nguyễn Nam trân

Những loại hoa được yêu chuộng trong nền văn hóa Vietnam

Version française
English version

img_6909

Những loại hoa được yêu chuộng trong nền văn hoá Việt.

Trong truyền thống văn hóa, người dân Việt rất coi trọng các loại hoa. Họ thường thích chọn và dành tên của các loại hoa cho giới phụ nữ. Thậm chí còn có một câu chuyện về  cái tên mà vua vĩ đại Lý Thánh Tôn của triều Lý, chọn cho bà cung phi Ỷ Lan mà đựợc     biết sau nầy dưới cái tên là Linh Nhân Hoàng Hậu. Một hôm, trên đường về kinh, đang được các dân làng nô nức  đón tiếp thì vua nhận ra có một cô con gái hái dâu vẽ đẹp phi thường rụt rè đang bên cạnh gốc lan và  nhìn ông từ đằng xa. Mong muốn được biết nàng, vua mới triệu nàng đến trước  mặt. Vì yêu vẽ đẹp và trí thông minh của nàng, vua mới đem nàng về kinh, kết  hôn cùng nàng và đặt cho nàng cái tên đầu tiên « Ỷ Lan » («Ỷ là dựa, Ỷ Lan là dựa gốc cây lan »). Sau đó nàng được biết đến trong lịch sử Việtnam là một trong những bà hoàng hậu  thực hiện được nhiều biện pháp xã hội cho những người bất hạnh nhất là giới phụ nữ. Tuy nhiên có một cái tên là « Hoa » mà không ai có quyền chọn dùng  dưới triều nhà Nguyễn. Đó là tên của bà thiếp Hồ Thị Hoa của thái tử Nguyễn Phước Đảm tức là hoàng đế Minh Mạng về sau nầy. Mất sớm, nàng nầy là con gái của quan Hồ Văn Bôi và được xem là con dâu hiếu thảo với cha mẹ chồng, tức là vua Gia Long và Thuận Thiên Cao hoàng hậu.   Để lưu danh muôn thưở nổi đau đớn nhất là tình thương mà nhà Nguyễn dành cho cô dâu nầy, họ truyền lệnh cấm từ  tất cả mọi người thân thuộc cũng như dân chúng không được dùng chữ Hoa mà luôn cả các nơi công cộng. Bởi thế chợ Đông Hoa ở Huế trở thành Đông Ba. Tỉnh Thanh Hoa đổi thành Thanh Hóa. Cầu qua sông Thị Nghè ở Saigon buộc lòng phải đổi tên và lấy tên là Cầu Hoa Bắc. Tuy nhiên « Hoa » vẫn  là chữ được thường trọng dụng nhiều nhất ở trong kiệc tác Kim Vân Kiều  của Nguyễn Du. Có ít nhất 130 câu thơ có chữ Hoa trong kiệt tác nầy. Ngoài ra còn có một số lượng không ít trong các thuật ngữ và cách diễn đạt với ý nghĩa Hoa trong văn học Vietnam như sau:

Hoa diện, mặt hoa: có một khuôn mặt đẹp
Hoa chúc: đèn ở trong phòng cô dâu chú rể
Hoa niên: tuổi trẻ, tuổi đẹp nhất trong đời người.
Hoa tay: có múp ở đầu ngón tay ới hình bông (Khéo léo).
Số đào hoa: được sinh dưới bông hoa đào (người được các phụ nữ hâm mộ).
Người tài hoa: người có tài năng.
Hoa tai: đồ nữ trang đeo tai có hình hoa.
Hoa đèn: đầu bấc đèn đã cháy thành than của cây đèn dầu.
Hoa khôi: Hoa được đứng hàng đầu (người đẹp nhất).
Hoa đá: san hô.
Hoa vương: hoa mẫu đơn.

Có một giai thoại liên quan đến hoa đá đó  là lúc đất nước Viêtnam bị loạn lạc, có những cuộc chiến không ngừng giữa hai gia đình cầm quyền là Trịnh và Nguyễn. Đây cũng là một trong những trò đùa của một vị quan Nguyễn Huỳnh phục vụ chúa Trịnh Cương mà thường được gọi là Cống Quỳnh hay Trạng Huỳnh. Chúa Trinh Cương người rất ham ăn và tham lam. Ông chỉ nghĩ sống trong việc giàu sang và đồi trụy. Bởi vậy Cống Quỳnh cố gắng khuyên nhũ Trịnh Cương về với lý trí và đạo lý.  Ông nói ông biết nấu một món ăn rất ngon tên là Hoa đá. Nghe vậy, chúa Trịnh yêu cầu ông chuẩn bị nấu món ăn nầy. Nhưng ông nói với lãnh chúa rằng phải đợi ít nhất 2 ngày mới được thưởng thức món nầy vì ông phải đun nhỏ lửa trong thời gian nầy. Chúa Trịnh hớn hỡ chấp nhận đề nghị nầy. Về nhà, ông kêu người hầu đi chợ mua rong biển ăn được và đun sôi với nước. Đói khát vì đợi chờ quá lâu, chúa Trịnh nhận ra món ăn nầy được chế biến bởi Cống Quỳnh rất ngon miệng dù chỉ chứa rau sau khi nếm. Có một số tiểu thuyết cổ điển nổi tiếng mang tên chữ Hoa. Đây là trường hợp của các tập thơ  như « Nhị độ Mai » (Hoa mai nở hai lần) và « Hoa Tiên ». Tập đầu tiên thuộc về một tác giả khuyết danh. Nó gồm có được 2826 câu thơ chữ nôm viết bằng lục bát và biên soạn từ một tác phẩm của Trung Hoa. Nó ca ngợi không những lòng trung thành với nhà vua mà còn sự hiếu thảo, biết ơn và tình yêu nữa. Còn tập thứ nhì thì được sáng tác bởi học giã Nguyễn Huy Tự.  Cuốn tiểu thuyết nầy gồm có hơn 1770 câu thơ. Đây là một bài thơ lãng mạn đầu tiên của Vietnam nhưng  tác giã vẫn còn giữ  được tư tưởng nho giáo.Tuy rằng có  rất nhiều loại hoa được tìm thấy ở Vietnam, người dân Việt vẫn không che giấu  được sở thích cûa họ đối với một số cây nhất định. Họ không ngần ngại phân các cây nầy vào một loại cây cao sang trong đó thấy có:

Mai, Lan, Cúc, Sen, Mẫu Đơn và Hoa Hồng. 

Những cây hay hoa nầy đều mang một  ý nghĩa đặc biệt và có liên hệ mật thiết với đạo đức trong truyền thống của người dân Việt. Cây mai là biểu tượng của người đàn ông thượng đẳng.  Cây nầy nó cố gắng chống chọi với thời tiết lạnh và khắc nghiệt của thiên nhiên. Nó tiếp tục nở hoa vào tháng hai. Điều nầy cho phép nó tượng trưng  mùa xuân trong bốn mùa (Tứ thì). Vào dịp Tết,  đối với người dân Việt, không bao giờ có thể thiếu trên bàn thờ  của tổ tiên  một số cành hoa mai (hay hoa đào) được chọn để hoa nở đúng lúc trong ngày lễ hội. Hoa mai được các học giã và các nhà trí thức Vietnam ngưỡng mộ. Một người có cá tính độc lập như Cao Bá Quát, không bao giờ biết qui phục cái tù túng của thời quan liêu còn phải thốt lên trong suốt cuộc đời ông, ông chỉ biết cúi đầu trước hoa mai mà thôi.

Nhất sinh đê thủ bái hoa mai
Suốt đời chỉ cúi đầu trước hoa mai.

Một học giã khác, Đào Tấn, cha đẻ của những vở kịch ở vùng Bình Định ở miền trung Vietnam, cũng hi vọng ngày nào đó sẻ chết giữa những cây mai. Đó là lý do tại sao trong suốt cuộc đời, ông thường dùng bút danh « Mộng Mai (Mơ với hoa mai)». Ông có cơ hội bày tỏ trạng thái tâm trí của ông qua hai câu thơ được tìm thấy trong một bài thơ của ông:

Núi mai rồi giữ xương mai nhé
Ước mộng hồn ta là đoá mai

Đó cũng không phải là một điều vớ vẫn đối với ông bởi vì thời điểm ông qua đời (tháng 7 năm 1907), ông đã đuợc chôn cất ở núi Huỳnh Mai, cách vườn mai vài cây số. Không giống người Trung Hoa, hoa mai và hoa sen rất được phổ biến hơn hoa mẫu đơn. Đây là lý do tại sao sao các hoa nầy được gọi là Hoa khôi. Người ta thường thích hoa mai vì hoa sen thường dành cho Phật giáo dù biết rằng  hoa sen vẫn tượng trưng người quân tử trong đạo Khổng.(junzi). Sen là loại cây mà sĩ phu Mạc Đỉnh Chi lựa chọn để bộc lộ tài năng xuất chúng và thiên tài chưa từng thấy. Vua Trần Anh Tôn ngần ngại phong ông làm « tiến sỹ » đầu tiên vì ông quá xấu xí vào thời điểm ông nhận bằng. Để thuyết phục nhà vua, ông tự ví mình như hoa sen trong giếng ngọc.  Ông liền làm ngay bài thơ có tựa đề « Ngọc tỉnh liên phú » (Hoa sen trong giếng ngọc) như sau :

Giống quý ấy ta đây có sẳn
Tay áo nầy ta chứa đã lâu
Phải đâu đào, lý thô màu
Phải đâu mai trúc dãi dầu tuyết sương
Cũng không phải tăng phường câu kỷ
Cũng không là Lạc Thủy mẫu đan
Cũng không là cúc, là lan
Chính là sen ở giếng vàng đầu non.

Mạc Đỉnh Chi có cơ hội soạn một bài văn tế khi ông được cử đi làm sứ thần để tham dự tang lễ của một công chúa Mông Cổ. Ngày hôm đó, trước triều đình nhà Nguyên, ông nhận được tờ giấy trong đó có bốn hàng, mỗi hàng đã có  một chữ « một » duy nhất. Đây là một vinh dự cho ông làm bài thơ nầy bằng cách bổ sung  mỗi hàng với cảm nghĩ của ông  để   bày tỏ sự tôn vinh sâu sắc đối với ký ức của cô công chúa nầy.

Chẳng nao núng chút nào,  ông làm xong bài thơ truớc sự ngạc nhiên và khâm phục của triều đình nhà Nguyên  bằng cách chỉ định cô công chúa nầy  như một bông hoa:

Trời xanh một đám mây
Lò hồng môt giọt tuyết
Vườn thượng uyển môt cành hoa
Cung quảng hàn (2) một vầng nguyệt
Than ôi! Mây tan! Tuyết tiêu!
Hoa tàn! Trăng khuyết !

Đối với hoa cúc, nó không những chỉ là cá tính của muà thu mà còn biểu tượng cho sự thư thản và sự thờ ơ của con người trước công danh và vinh quang. Tương tự như  hoa mai, hoa lan thường  biểu tượng vẽ đẹp của nữ tính. Thường được nhắc như cô gái trong các tác phẩm thơ. Tuy rằng hoa mẫu đơn được xem như hoa cao sang nhưng nó không có được một tầm quan trọng đáng kể như ở Trung Hoa. Có lẽ vì bị ảnh hưởng của Trung Hoa nên tục lệ nầy còn giữ đối với hoa nầy. Hoa mẫu đơn thường được trông thấy trong nghệ thuật trang trí của người dân Việt hay trong các truyền thuyết. (Chuyện thần tiên Từ Thức Giáng Hương chẳng hạn). Còn hoa hồng thì nó là biểu tượng cho tình yêu và tình thương. Nó là hoa tặng mẹ, hoa tặng vợ, hoa tặng thầy cô  bạn bè vân vân…Muốn biết ý nghĩa mà người dân Việt dành cho hoa nầy, chúng ta  cần phải đọc quyển sách của thiền sư  Thích Nhất Hạnh “Bông Hồng cài áo”. Thiền sư  nhắc nhở chúng ta chỉ một người mẹ mà thôi mà đôi khi chúng ta quên đi bổn phận vì sự thăng trầm trong cuộc sống. Chúng ta quên rằng nếu chúng ta còn mẹ đó là một báo vật mà Thượng đế thương yêu dành cho chúng ta đấy. Chúng ta có may mắn còn mẹ. Để chứng tỏ sự trìu mến với mẹ, chúng ta có quyền tiếp tục cài trên áo một bông hồng. Chúng ta còn có niềm vui vô tận và khó tả được mà biết  bao nhiêu người không còn có nữa. Không thấy từ lâu rồi trên quê hương nầy những  hoa Sim màu trắng mà các cô gái trẻ tuổi thường để lại trên mộ của các  người tình của họ, những người nằm xuống để bảo vệ lý tưởng hay quê hương nầy. Họ không có may mắn nhìn thấy hoà bình trở lại. Chính nhờ những người dũng cảm nầy, tất cả người dân Việt muốn tặng cho họ một bông hồng, một tình yêu mà họ dành thật sự cho đất nước nầy. Nhờ họ mà đất nước nầy còn giữ được cho đến hôm nay độc lập, bản sắc văn hóa và  truyền thống dân tộc.       


(1) Lạc Thủy : un fleuve connu en Chine.
(2) Cung quảng hàn : le palais mythique chinois trouvé sur la lune.
(3): Une anecdote sur la pivoine de Luoyang avec l’impératrice Wu Ze Tian ( Võ Tắc Thiên) de la dynastie des Tang.

Hoàng thành Thăng Long (Cité impériale Thăng Long)

 

thang_long

 

Version française

Do những sự kiện lịch sử, hoàng thành Thăng Long dường như bị phai mờ theo thời gian trong ký ức tập thể của người dân Việt với những di tích chôn vùi giữa lòng vùng đất Hànội xưa. Các nhà khảo cổ Việtnam có rất nhiều trở ngại để tìm kiếm vị trí của hoàng thành mặt dù có một loạt các cuộc khai quật khảo cổ bắt đầu ở Quần Ngựa và khu vực lăng mộ của Hồ Chí Minh vân vân… kể từ năm 1970. Chỉ đến năm 1988 họ mới tìm ra được ở khu vực địa lý gần Hậu Lâu liên kề với đường Hoàng Diệu và Bắc Môn (cổng phía bắc thời Nguyễn), các cột trụ và cột đá với các họa tiết hoa sen cùng các cổ vật khác được sản xuất từ thời Hậu Lê. Năm 2000, họ được phép khai quật ở bên trong của Đoan Môn (cánh cửa duy nhất của hoàng thành). Nhờ thế mà tìm ra được con đường hoàng gia (ngự đạo) của thời nhà Trần. Với các cuộc khai quật khảo cổ khác được bắt đầu từ tháng 12 năm 2002 đến 2004 ở phía bên đường số 18 Hoàng Diệu, các di tích khác có từ thời kỳ trước Thăng Long được tìm thấy. (trước thế kỷ 11). Nhờ cuốc của các nhà khảo cổ Vietnam mà hoàng thành Thăng Long bắt đầu tiết lộ những bí mật của nó. Vai trò chính trị, hành chánh và văn hóa của nó cũng không còn là một nghi vấn nào nửa ở trong thời kỳ gồm có gần 13 thế kỷ (dưới đời nhà Lý, nhà Trần và nhà Tiền Lê). Các tàn tích kiến trúc như nền móng, nền tảng của các cột trụ, các khúc đường hoàng gia bằng gạch, các hệ thống dẫn thoát nước, các giếng nước vân vân …được trưng bày trong hoàng thành Thăng Long, minh chứng không thể chối cãi được sự phức tạp kiến trúc của các cung điện ở thời đó. Sư tồn tại của các cung điện nầy được chứng thực nhờ sự khám phá và hiện diện của một số loại gốm chất lượng cao với các họa tiết tinh xảo bao gồm luôn cả thời kỳ Lê. (các ký tự viết chữ Hán và các họa tiết với rồng 5 móng và phượng hoàng).

map_thang_long
Các đồ gốm nầy chỉ dành riêng cho vua chúa và hoàng hậu. Nhờ cuộc khai quật khảo cổ nầy, người ta dẫn đến một kết luận như sau: những di tích kiến trúc của Lý-Trần-Lê mà kiếm được đều chất chồng lên trên địa tảng của thời Tống Bình-Đại La (thế kỷ thứ 7 – thứ 9). Sự nhận xét nầy nó cũng không có tạo lại cho đến ngày nay một nghi vấn nào về tầm quan trọng và ảnh hưởng của chiếu dời đô Thăng Long mà Lý Công Uẩn, người sáng lập nhà Lý (mà thường biết đến với cái tên là Lý Thái Tổ), công bố vào mùa xuân Canh Tuất 1010. Sau khi loại trừ được Lê Long Đĩnh, (một vị vua Néron của nhà Tiền Lê?), Lý Thái Tổ sau vài năm trị vị, đã nhận ra Hoa Lư, thủ đô của Vietnam thời đó được xây cất ở trên một vùng đất khó mà mà tiếp cận để đảm bảo sự thịnh vượng, duy trì vận mệnh quốc gia và trường kỳ cho muôn đời sau.

Ông phải dời kinh đô về Đại La, nơi mà tiết độ sứ nhà Đường Cao Biền dùng để làm thủ phủ thời kỳ đô hộ An Nam. Thành phố nầy có thể giúp dân chúng tránh được lũ lụt với một địa hình rất thuận lợi trong sự định hướng núi sông (phong thủy) nhất là nó có một vị trí phù hợp với rồng cuộn hổ ngồi. Để tránh sự bất mãn của quần chúng, ông không ngần ngại lợi dụng lòng nhẹ dạ của dân cũng như cố vấn của Lê Lợi, Nguyễn Trãi thực hành về sau trong thời kỳ chống giặc Minh. Ông phao tin rằng ông thấy rồng vàng bay lên ở Đại La trong cơn mơ. Vì vậy mà Đại La được gọi là Thăng Long tức là Rồng bay. Như bao vị vua khác, ông có thể dùng chính sách bức chế với dân chúng nhưng ông lợi dụng sự mê tính của người dân mà phao tin đây là ý trời để thực hiện một công trình tuyệt vời cho một nước Việtnam độc lập.

 

Triều đại của ông được gọi là “Thuận Thiên” (theo ý trời). Mồ côi, ông sống ở trong chùa và được dạy dỗ bởi sư Vạn Hạnh. Lớn lên duới bóng của thiền sư nầy, ông sớm trở thành một vị vua vĩ đại của Vietnam vì ông được thấm nhuần triết lý đạo Phật trong thời gian ông ngự trị. Người ta tìm thấy ở nơi ông không những sự khôn ngoan, đối thoại, thấu thị, khoan dung mà còn có ý chí đóng góp không thể chối cãi về việc củng cố đất nước Vietnam (một hệ thống hành chính tập trung cao độ, một chế độ thuế má rất mềm mỏng, Phật giáo được xem là quốc giáo, ưu tiên dành cho nền giáo dục vân vân…). Chính với ông mà Vietnam được công nhận lần đầu tiên là một vương quốc An Nam. Các tác giả trong quyển sách tưa đề “Đại Việt Sử ký toàn thư” có những lời khen ngợi không ngớt về triều đại của ông. Chính nhà sử học Ngô Thi Sĩ miêu tả về sau triều đại của ông là một triều đại khoan hồng (Triều Lý nhân Ái). Nhờ Việt Sử lược ở thế kỷ 14, người ta mới biết rằng cung Càn Nguyên mà được gọi sau nầy là Thiên An và đổi tên cuối cùng là Kinh Thiên bởi vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) tọa lạc ở giữa lòng của hoàng thành Thăng Long được xây cất vào năm 1010 bởi Lý Thái Tổ. Trong vùng lân cận của cung điện nầy, ở phía đông có cung Tập Hiền và cửa Phi Long, phía tây có cung Giáng Vũ và cửa Đan Phượng, phía nam có cung Cao Điện và hiên Long Trì với các hành lang ở hai bên và phía bắc có hai điện Long An và Long Thụy chưa nói đến ở phía đông và tây của các điện nầy còn có thêm cung Nhật Quang và Nguyệt Minh. Ngoài ra còn có chùa Hưng Thiên và tháp Sao Ngũ Phượng. Năm 1011, cung Thái Thanh, chùa Vạn Tuế và thư viện Phật giáo Tần Phúc được xây cất (Việt sử lược, được dịch và biên chép lại bởi Trần Quốc Vượng trang 70-71). Dựa trên kế hoạch của hoàng thành dưới thời Lê, các nhà khảo cổ Vietnam đã phân định hoàng thành như sau: phía bắc xung quanh phố Phan Đình Phùng, phía nam thì nằm ở đường Trần Phú, phía tây thì vượt ra phố Ông Ích Khiêm và phiá đông thì xung quanh phố thuốc bắc. Diện tích của địa điểm nầy ước chừng khoảng 140 ha dưới thời nhà Lê nhưng lại ít hơn một tí dưới triều đại nhà Lý và Trần. Mặt khác dưới nhà Nguyễn, thành Hànội không vượt quá 100 ha.Trong các cuộc khai quật khảo cổ, có một số vật liệu kiến trúc được trang trí với các chủ đề vô cùng đa dạng. Các họa tiết trang trí là hoa sen, hoa cúc hoặc các đầu của các loại động vật thần thoại với những nét sần sùi và hung dữ dưới thời kỳ Đại La (thể kỷ 7-9). Sau đó,trong thời kỳ của các triều đại Tiền Lê và Lý thì thấy có những bông sen và những đôi uyên ương. Cuối cùng dưới triều đại Lý thì nghệ thuật trang trí thông qua các con rồng, phượng, lá và hoa dẫn đến sự hoàn hảo và đạt đến đỉnh cao của vẽ đẹp. Mặc dầu vẫn duy trì các yếu tố trang trí cơ bản của triều đại nhà Lý, nghệ thuật nầy có xu hướng tìm lại sự đơn giản và bền vững dưới thời nhà Trần. Đối với thời kỳ nhà Hậu Lê thì có một sự thay đổi quan trọng trong việc trang trí một cách đơn giản các ngói gạch của cung điện với nhiều chủ đề được thêm vào nếu so với thời đại của hai triều đại Lý và Trần. Các di tích và cổ vật được tìm thấy ở hoàng thành Thăng Long là bằng chứng không thể phủ nhận được đến từ một nền văn hóa dân tộc và có mang tính độc đáo điạ phương. Ngoài con rồng của triều đại Lý có mào trên đầu mà không được tìm thấy ở các con rồng Trung Hoa, chúng ta còn khám phá được những mái nhà của thời Lý-Trần với các ngói bò đất nung kềm theo lá trang trí hay phù điêu rồng hay phượng mà không quen tìm thấy được ở cung điện của các nước láng giềng. Người ta có thể nói hoàng thành Thăng Long thuộc về di sản văn hóa vô giá đối với Vietnam nhất là đối với thủ đô Hànội. Được đưa vào danh sách di sản văn hóa của nhân loại, hoàng thành Thăng Long là một đia điểm mà du khách không thể bỏ qua nếu có dịp đến viếng thăm thủ đô Hànội.

Château de Vaux-le-Vicomte (Maincy)

Version française

Nằm gần thành phố Melun, cách xa Paris khoảng chừng 50 cây số về phía nam, lầu đài Vaux le Vicomte ở Maincy là một công trình kiến trúc được xây dựng bỡi tử tước Nicolas Fouquet, người quản lý tài chánh của vua mặt trời Louis XIV (bộ trưởng bộ tài chính) dưới thời Mazarin từ 1658 tới 1661.  Tuy nó nhỏ so với các lầu đài khác của Pháp, Vaux le Vicomte với phong cách baroque rất nỗi tiếng vì nó đem lại nguồn cảm hứng không ít về sau cho các lầu đài ở Âu Châu, nhất là với  lầu đài Versailles. Đến đây du khách sẽ trông thấy sự hài hoà giữa kiến trúc và khu vườn dài 3 cây số  phiá trước lầu đài  khiến tạo ra một không gian hữu tình và hoành tráng. Phải nói đây nhờ  sự đam mê nghệ thuật và tính hào phóng của Fouquet khiến ông tuyển lựa được ba nghệ nhân nổi tiếng vào thời điềm đó ở nước Pháp đó là kiến trúc sư Louis Le Vau, nhà thiết kế vườn cảnh André La Nôtre và nhà họa sĩ trang trí Charles Le Brun mà công trình kiến trúc Vaux le Vicomte được hoàn thành mỹ mãn.

Với lòng tự tin ở nơi vua, ông không ngần ngại đón tiếp Louis XIV ở lầu đài khiến tạo ở nơi vua sự ganh tị nhất là có những lời nói gièm pha của Colbert ở bên cạnh. Ba tuần lễ sau, Fouquet bị bắt giữ bỡi trung úy D’Artagnan và đưa ra trước toà án đặc biệt. Fouquet được trả lại  tự do nhưng bị trục xuất vĩnh viễn ra khỏi vương quốc.  Để chứng tỏ quyền lực, vua Louis XIV hủy bỏ án phạt và giảm tội  nhốt Fouquet  ở tù chung thân ở lầu đài Pignerol cho đến chết vào năm 1680. Vaux le Vicomte là một kiệt tác sáng lập vườn hoa Pháp ở thế kỷ 17 mà cũng là một điạ điểm du lịch ở Paris mà du khách không thể bỏ qua dù biết đi tham quan có nhiều trở ngại nếu không có xe.

Version française

Non loin de la ville Melun et situé environ à 50 km au sud de Paris, le château Vaux le Vicomte (Maincy) est un ouvrage architectural réalisé par le vicomte Nicolas Fouquet, le gestionnaire des finances du roi soleil Louis XIV (ou ministre des finances) à l’époque de Mazarin de 1658 à 1661. Malgré sa petite taille comparée à celles des autres châteaux de France, Vaux le Vicomte est très connu avec son style baroque car il apporte une inspiration et un modèle aux autres châteaux d’Europe, en particulier à celui de Versailles de Louis XIV. En venant ici, le touriste verra l’harmonie entre l’architecture et le jardin long de 3 kilomètres devant le château, ce qui crée un espace artistique et monumental. Il faut reconnaître que grâce à sa passion pour les arts et à sa générosité Fouquet réussît à recruter à cette époque 3 artistes célèbres dans la réalisation de son château: l’architecte Louis Le Vau, le jardinier paysagiste André le Nôtre et le peintre décorateur Charles Le Brun.

C’est une belle réalisation de son temps. Ayant eu une confiance absolue au roi, il ne tenait pas compte des critiques de la part de Colbert son futur remplaçant plus tard et n’hésita pas à donner une réception grandiose en l’honneur du roi au château Vaux le Vicomte lors d’une fête. Jaloux, le roi ordonna trois semaines plus tard son arrestation supervisée par le sous lieutenant d’Artagnan. Il fut traduit devant un tribunal d’exception. Malgré cela, Fouquet obtint le bannissement définitif hors du royaume. Pour marquer son autorité, le roi cassa la sentence et commua sa peine en prison à vie. Il fut interné dans le château Pignerol jusqu’à sa mort en 1680. Vaux le Vicomte n’est pas seulement un chef d’œuvre de création du jardin à la française au 17ème siècle mais aussi un site touristique à ne pas manquer malgré les difficultés que le touriste peut avoir s’il n’a pas les moyens de déplacement en voiture. Il faut compter 3 heures (aller-retour) avec le train et le bus du château.

Malaisie (Malacca)


Version française

Ai có đến tham quan liên bang Mã Lai thì cũng không nên bỏ qua Malacca cả vì thành phố cổ nổi tiếng nầy nằm cách xa thủ đô Kuala Lumpur khoảng hai tiếng (150 cây số) nếu lấy xe buýt. Malacca có một thời là một thương cảng sầm uất tại khu vực Đông Nam Á nhất là nó có vị trí quan trọng nằm ở eo biển Malacca. Người Mã Lai gọi nó là Melaka. Vào thế kỷ 16, thành phố nầy  bị người Bồ Đào Nha xâm chiếm kế tiếp sang thế kỷ 17, người Hà Lan giành lại rồi nhường lại cho người Anh ở thế kỷ 18. Bởi thế ngoài sự đa dạng về dân tộc,  thành phố nầy còn  lưu giữ  hiện nay ở phiá tây  nhiều dấu tích  của các nước châu Âu ở thời kỳ thuộc địa  và ở phía đông  một khu phố tàu Jonker. Tuy diên tích khu phố đi bộ nầy nó có giới hạn nhưng lúc nào cũng đông người đi bộ nhất là thứ bảy chủ nhật. Lang thang ở con đường nầy để  lại cho tớ một ấn tượng khó quên nhất là nó có những nét đẹp độc đáo của phố cổ Hội An. Còn ở trung tâm thành phố thì có một biểu tượng  của người Hà Lan, đó là nhà thờ Christ  được sơn màu đỏ hiện nay cùng các công trình khác gần đó. Còn hai bên bờ  sông êm đềm hiền hoà  Malacca, thì có lô nhô các quán cà  phê trữ tình khiến tớ cảm thấy thích thú, không tiếc những khoãng khắc dừng chân nơi nầy để khám phá thành phố Malacca, một di sản văn hóa mà được UNESCO công nhận vào năm 2008.

Version française

Quiconque a l’occasion de visiter la Malaisie ne peut pas laisser tomber Malacca car cette vieille ville célèbre, localisée seulement à 150 km de la capitale Kuala Lumpur nécessite  à peu près deux heures de route avec le bus. À une certaine époque, elle était un port de commerce très animé dans l’Asie du Sud-Est. Elle était située stratégiquement dans le détroit de Malacca. Pour les Malais, cette ville s’appelait Melaka. Au 16ème siècle, elle fut occupée par les Portugais qui furent chassés à leur tour un siècle plus tard  par les Hollandais.  Ces derniers la cédèrent enfin au 18ème siècle aux Anglais.  C’est pourquoi,  à part la diversité de sa population, Malacca continue à garder encore en direction d’Ouest  les vestiges des pays européens durant la période coloniale et en direction d’Est un quartier chinois connu sous le nom de Jonker. Malgré la superficie de sa zone piétonne  très restreinte,  Malacca continue à être bondée de gens  le soir,  en particulier le week-end. « Se balader à pied » me laisse quand même une impression inoubliable lorsque cette ville charmante me rappelle quelques traits caractéristiques de Hội An (Faifo). Quant au centre de Malacca, il y a toujours un symbole visible venant de la Hollande. C’est l’église Christ peinte aujourd’hui  en rouge avec les autres bâtiments alentours. Beaucoup de kiosques à café longent les rives du fleuve paisible Malacca. Cela me donne  une ambiance pittoresque et  une  énorme satisfaction. Aucun regret ne vient non plus de ma part pour  consacrer un laps de temps dans la découverte de  cette ville que l’organisation internationale UNESCO a reconnue comme le patrimoine mondial culturel en 2008.

Sur la route de Tôkaido (Hiroshige)

53 relais sur la route de Tôkaido

Version vietnamienne

Le musée des arts asiatiques Guimet (Paris) est en train d’exposer  en ce moment  l’album des estampes japonaises intitulé « 53 relais sur la route de Tokaido ». C’est la célèbre série d’estampes de Hiroshige  (1797-1858) après sa mission d’accompagner une délégation envoyée par le Shogun, partant d’Edo (Tokyo) jusqu’à la capitale impériale Kyoto et ayant pour but d’offrir les chevaux à l’occasion de la fête et montrer le respect vis-à-vis de l’empereur.  C’est l’une des 5 routes importantes de Gokaido.  Cette route n’est pas seulement l’itinéraire vital pour les voyageurs (marchands, gens ordinaires, malandrins, bonzes, daimyos etc.)  mais elle est aussi longue de 500 kilomètres et pittoresque car elle est jalonnée d’auberges et de relais, de sites historiques, de sanctuaires shintoïstes ou bouddhiques et elle est plongée dans de vertigineux paysages comme la passe Nakayama, le sanctuaire Ise etc… Chaque relais offre des services nécessaires au voyageur: auberges, restaurants, divertissements, commerces etc… ce qui donne une source d’inspiration inépuisable pour Hiroshige.  On peut dire qu’il nous offre les estampes du « monde flottant ». De plus, cette route crée  aussi un espace politique au Japon à l’époque Edo avec un contrôle très sévère de la part des samouraïs au service du shogun  sur les gens locaux et surtout sur les daimyos (seigneurs féodaux). Cet itinéraire est remplacé aujourd’hui par le rail ultra rapide de Tokaido Shinkansen.  Avec le TGV japonais, le touriste n’a plus l’occasion d’admirer ce qui a été décrit par Hiroshige sur ses estampes (ukiyo-e).

Version vietnamienne

Bảo tàng viện nghệ thuật Châu Á Guimet ở Paris đang trưng bày hiện nay một bộ tranh màu in trên mộc bản mà thường gọi là ukiyo-e  và có tựa đề là « 53 trạm nghỉ của Tokaido ». Đây là một  bộ tranh được họa sỹ Hiroshige dày công sáng tác sau chuyến hành trình của ông đi dọc theo con đường Tokaido vào năm 1832.  Ông được chọn đi  từ Edo (Tokyo ngày nay) đến kinh đô Kyoto cùng phái đoàn chính thức của tướng quân, người thực chất  cầm quyền trong tay  ở Mạc phủ (Shogun) với chủ đích cống hiến ngựa cho triều đình nhân dịp lễ để bày tỏ sự kính trọng với Nhật hoàng.  Đây là một trong năm con đường huyết mạch của Gokaido. Nó không những là con đường mà  lữ  khách (thương nhân, người dân bình thường, thiền sư, du côn, lãnh chúa vân vân …)  thường dùng hằng ngày mà  còn là con đường ngoạn mục dài 500 cây số vì nó đầy rẫy các lữ quán, các đền thờ thần đạo hay Phật giáo, các di tích lịch sữ, các quang cảnh đẹp đáng kinh ngạc như đèo Nakayama, đền Ise  vân vân … . Mỗi trạm nghỉ thường có những dịch vụ cần thiết cho lữ khách: nhà trọ, quán ăn, trò tiêu khiển, mậu dịch vân vân …).  Chính vì thế nó là một nguồn cãm hứng không ít cho họa sỹ Hiroshige. Có thể nói ông tặng cho chúng ta những bức tranh của « thế giới nổi trôi ».

Tuyến đường nầy còn tạo ra ở thời kỳ Edo một không gian chính trị dưới  sự kiểm soát nghiêm ngặt  của tầng lớp võ sĩ (samouraïs) về  việc đi lại của người địa phương cũng như  của các lãnh chúa (daimyo). Con đường nầy được thay thế ngày nay bỡi con đường sắt với các tàu cao tốc TGV Tokaido Shinkansen  khiến người du khách không còn có dịp chiêm ngưởng những gì Hiroshige mô tả lại qua bộ tranh tuyệt vời in trên mộc bản  của ông.

Paris à Las Vegas (Ba Lê ở Las Vegas)

Dans sa splendeur

 

Version française

En 1990 étant de passage à Las Vegas, il n’y avait pas encore la tour Eiffel. Maintenant de retour à Las Vegas, c’était triste de ne pas avoir une photo sur la tour Eiffel (Las Vegas). Etant fier d’être toujours parisien, c’était intolérable de ne pas faire la photo. C’est pour cela que j’étais accompagné par mon ami intime d’aller chercher la tour Eiffel le long de l’avenue principale de Las Vegas. Épuisé, je dis à mon ami: Si on ne trouve pas la tour Eiffel au delà du pont, on va retourner à l’hôtel. À l’approche du pont, la tour Eiffel apparut dans toute sa splendeur, ce qui me donna une joie indescriptible. C’est une chance pour moi de la retrouver au bon moment sans oublier la gentillesse de mon ami de vouloir me plaire malgré sa fatigue. L’avenue principale était inondée de gens avec une chaleur suffocante à 23 h du soir. Je remercie infiniment mon ami à cause de la tour d’Eiffel. Hi Hi…

paris_las_vegas

Version vietnamienne

Hồi moa đi Las Vegas năm 1990 thì tour Eiffel chưa có nay trở lại Las Vegas mà không có tấm ảnh Tour Eiffel ở Las Vegas kỳ nầy thì rất buồn vì bao nhiêu năm mình ở Paris còn nhiều hơn ở bên nhà mà không có tấm ảnh tour Eiffel ở Las Vegas thì hổ thẹn lắm nhất là lúc nào cũng tự cho mình là parisien. Anh bạn thâm tình đi bộ dẫn dắt không ít nhất là nguyên ngày ngồi xe nên đi gần hết đường chánh mà tour Eiffel vẫn không có moa mới nói: Thôi đến cầu không có đi về. Gần đến cầu tháp Eiffel nó hiện ra đẹp lộng lẫy khiến moa vui không xiết nói chụp xong tháp Eiffel đi về. Đấy là duyên của moa công thêm cái tính trọng bạn của anh bạn nên moa mới có các tấm ảnh ở Eiffel. Có ít 7, 8 cây số đi bộ đông người nhất là trời rất nóng. Merci anh bạn thương bạn vô cùng cũng vì tháp Eiffel. Hi hi.

 

Ottawa (Capitale fédérale du Canada)

Ottawa, thủ đô của Gia Nã Đại

Version vietnamienne

En raison de sa situation géographique sur la frontière entre les provinces d’Ontario et du Québec et de l’accord entre les francophones et les anglophones, Ottawa fut choisie en 31 décembre 1857 comme la capitale de la colonie par la reine Victoria. Pourtant Ottawa fut au départ un campement destiné à superviser la construction du canal Rideau dans le but de faciliter le transport du bois depuis la vallée d’Ottawa jusqu’à Montréal et d’éviter les éventuelles attaques américaines grâce à son éloignement de la frontière. Puis elle devint en 1867 la capitale du Canada suite à la confédération des colonies anglaises et françaises. Elle se distingue par les trois anciens édifices néogothiques du parlement sur la colline et rappelant étrangement les chambres de Westminster (Londres), les résidences du gouverneur fédéral et du Premier Ministre. Un autre symbole d’Ottawa c’est le canal Rideau reconnu comme patrimoine mondial de l’Unesco. Ottawa est une ville bilingue au sein d’une province officiellement anglophone.

Ottawa
Version vietnamienne
 

Do vị trí địa lý nằm ở  ngay biên giới của hai tỉnh Ontario và Québec và với sự đồng ý thỏa thuận của các những người nói tiếng Anh và Pháp, thành phố Ottawa đã được nữ hoàng Anh Victoria chọn làm thủ đô của các dân thuộc địa vào ngày 31 tháng 12 năm 1857. Tuy nhiên, Ottawa ban đầu là một trại đóng quân để  giám sát việc xây dựng cái kênh Rideau và để tạo điều kiện cho việc vận chuyển gỗ từ thung lũng Ottawa đến Montréal và tránh được các cuộc tấn công có thể  xảy ra của người Mỹ vì Ottawa tọa lạc  rất xa biên giới. Sau đó, vào năm 1867, Ottawa trở thành thủ đô của Gia Nã Đại sau cuộc liên minh của các vùng thuộc địa Anh và Pháp. Ottawa được nổi tiếng qua ba tòa nhà tân cổ điển của quốc hội ở trên đồi  gợi cho chúng ta nhớ đến toà nhà quốc hội Westminster ở  Luân Đôn và các dinh của thống đốc liên bang và thủ tướng. Một biểu tượng khác của Ottawa đó là kênh đào Rideau, được công nhận là Di sản Thế giới của UNESCO. Ottawa là một thành phố song ngữ trong một tỉnh chính thức được xem là một vùng nói tiếng Anh.

Toronto (Capitale de l’Ontario)

 

Version vietnamienne

Toronto n’est pas non seulement l’une des grandes villes du Canada mais elle est aussi la capitale de la province Ontario. Au moment de notre passage au quartier chinois , la brume matinale envahit de loin la tour célèbre CN connue comme la plus haute tour du monde de 1975 à 2007. Elle est devancée aujourd’hui par la tour Burj Khalifa de Dubai et la tour de télévision et de tourisme de Canton. Malgré cela, elle reste l’un des attraits touristiques canadiens avec 2 millions de visiteurs par an et l’un des symboles importants du Canada. Comme dans d’autres lieux, la ville Toronto possède aussi un quartier chinois qui est moins animé qu’à Paris, les gens étant plus calmes. La vie locale paraît plus agréable et moins stressée qu’à Paris. À cause de la brume matinale, il nous est interdit de monter jusqu’au sommet de la tour CN pour pouvoir faire une photo panoramique sur la ville. C’est dommage pour moi mais il vaut mieux se contenter de ce qu’on a et faire quelques photos car je sais que je ne reviens pas car j’ai d’autres endroits à visiter. Ce qui compte pour moi c’est d’être ensemble avec deux amis d’enfance à l’époque où nous étions âgés de 7 ou 8 ans à l’école et partager tout ce qu’on a de la bouffe jusqu’aux histoires drôles durant le séjour au Canada lorsque nous venons de loin, de trois pays différents (France, USA et Canada). C’est une chance unique d’avoir ce moment de bonheur et de joie dans la vie.

Toronto

Version vietnamienne

Toronto không những là một trong các thành phố đông dân nhất của Gia Nã Đại mà còn là thủ đô của tỉnh Ontario. Hôm đến tham quan sáng sớm thành phố bị sương mù dày đặc buông xuống che khuất từ đằng xa tháp CN khi lúc tụi nầy ở khu tàu, một ngọn tháp nổi tiếng là cao nhất ở thế giới từ năm 1975 đến năm 2007 nay bị vượt qua bỡi tháp Burj Khalifa (Dubai) và tháp truyền hình và du lịch của Quảng Châu. Tuy nhiên nó vẫn thu hút khoảng 2 triệu khác một năm và là một biểu tượng quan trọng của Canada. Cũng như mọi nơi, Toronto cũng có một khu tàu nhưng nó không có đông đúc như ở Paris, người dân cũng trầm lặng không có ồn ào. Cuộc sống cũng thấy có phần thỏa mái nhiều hơn Paris, cũng có tramway. Vì sương mù phủ xuống tháp CN tụi nầy không được lên ngọn tháp CN chụp toàn cảnh của Toronto. Rất tiếc nhưng thôi có chi thì cứ chụp nhất là mình biết sẻ không trở lại nhưng rất vui là lúc nào ba anh em quen biết từ thưở nhỏ chia sẻ cùng nhau từ các chuyện vui đến các thức ăn nhất là đến từ ba quốc gia khác nhau (Pháp, Mỹ và Gia Nã Đại), đây là cái duyên hy hữu trong cuộc sống.

 

Les serres royales de Laeken ( Nhà kính hoàng gia Bỉ)

Les serres royales de Laeken

Version vietnamienne

Cứ mỗi năm nhà kính hoàng gia Bỉ tọa lạc ở cung điện Laeken chính thức mở cửa chỉ trong vòng ba tuần đón tiếp công chúng ở khắp nơi trên thế giới, năm nay từ ngày 19/4 đến 10/5. Nhà kính nầy có hơn 100 năm tuổi và được thiết kế bởi kiến trúc sư Alphonse Balat dưới triều đại của vua Léopold II (1865-1909).  Công trình nầy là một quần thể kiến trúc hoàn toàn bằng kính và kim khí nằm trong một quan cảnh đồi núi và mất gần 12 năm mới được hoàn thiện với diện tích có đến 2,5 ha. Có luôn cả một tháp Nhật Bản. Nơi nầy, có các loại thực vật rất nổi tiếng nhất là các loại hoa thơm như phong lữ, đỗ quyên, cẩm tú cầu hay hoa trà. Dù thời gian đón khách du lịch rất ngắn (có 3 tuần), nhà kính hoàng gia vẫn là nơi được du khách biết đến rất nhiều, có ít nhất 800.000 người đến tham quan mỗi năm. Tiền thu thập được dùng để sùng tu nhà kính hay dành cho các việc từ thiện của nữ hoàng hay là mua các tác phẩm nghệ thuật cho bộ sưu tập hoàng gia.

Version française

Chaque année, les serres royales de Laeken sont ouvertes au public et aux touristes étrangers durant trois semaines. Cette année l’ouverture commence le 19 Avril et se termine le  10 Mai. Ayant plus  de 100 ans d’âge, ces serres royales ont été conçues  par l’architecte Alphonse Balat sous le règne du roi Léopold II (1865-1909).  Elles sont en fait un complexe architectural  réalisé entièrement en métal et en verre et implanté  dans un paysage vallonné. On compte presque 12 ans dans la réalisation de ce complexe superbe avec une superficie ayant au moins 2,5 ha. Une tour japonaise est visible de loin. C’est ici qu’on trouve des plantes très connues, en particulier  des fleurs parfumées comme les géraniums, les rhododendrons, les hortensias ou les camélias. Bien que  l’ouverture au public soit  de courte durée (3 semaines), les serres royales de Laeken sont très connues par les touristes étrangers. Il y au moins chaque année  800.000 visiteurs. L’argent récolté est destiné entièrement aux œuvres caritatives de la reine, aux opérations de restauration ou à l’acquisition des œuvres d’art pour enrichir la Collection Royale.

Serres royales de Laeken