Giải mã các truyền thuyết của dân tộc Việt.

Giải mã những thông điệp mà người Việt cổ để  lại trong truyền thuyết.
Văn hóa Lương Chử và Thạch Gia Hà.

Décrypter les messages laissés par les Proto-Vietnamiens dans leurs légendes. Cultures de Lianzhu et Shijahé.

Version française

Tại sao dân tộc Việt có nhiều chuyện cổ tích và truyền thuyết hơn mọi dân tộc khác trong vùng Đông Nam Á? Đôi khi làm người đọc tự hỏi các truyền thuyết nầy có thật hay không hay là  được viết ra do sự tưởng tượng của con người, có phần kì ảo và không có thật. Thật sự  nguồn gốc của người Việt rất mơ hồ trong lịch sử bởi vì chỉ dựa trên  các truyền thuyết đôi khi còn làm ta khó tin và phi lý như truyền thuyết «Lạc Long Quân-Âu Cơ » với cái bọc nở ra một trăm trứng.

Đối với nhà nghiên cứu Paul Pozner [1], thuật chép sử Việt Nam đều dựa trên truyền thống lịch sử lâu dài và vĩnh cửu và được thể hiện bởi cách truyền miệng kéo dài  từ nhiều thế kỷ của thiên niên kỷ đâu tiên trước công nguyên  dưới hình thức các truyền thuyết lịch sử được phổ biến  ở trong các đền thờ cúng tổ tiên. Tại sao dân tộc ta không có được sử sách như người Trung Hoa tuy có sự hiện diện lâu đời ở Đông Nam Á. Nơi nầy còn được xem là cái nôi của nền văn minh nhân loại qua sự nhận xét của nhà vật lý người Anh Stephen Oppenheimer trong tác phẩm  «Địa đàng ở phương Đông» [2]. Chính cũng ở đất nước ta với các cuộc khai quật ở đầu thế kỷ 20 mà nhà nữ khảo cổ Pháp Madeleine Colani khám phá  được văn hoá Hòa Bình (18000-10000 TCN) vào năm 1922.  Đây cũng là một nền văn hoá khởi nguồn cho nền văn minh của người Việt cổ, một nền văn minh trồng lúa nước. Sở dĩ  dân ta không có sử sách mà còn bị  người Hoa thống trị có gần một ngàn năm.  Lúc nào họ  cũng cố tình xóa  bỏ nguồn gốc của dân tộc ta từ thời nhà Hán với Hán Vũ Đế. Sử ký của Tư Mã Thiên [3] đều viết có ý đồ chính trị  và tham vọng của kẻ xâm lăng nhầm  Hán hoá  các dân  tộc bị thống trị và  tăng cường quyền lực và uy tín con của Trời (thiên tử) trong một  quốc gia đa dạng về mặt dân tộc học và để  phù  hợp sau cùng với ý nghĩa hai chữ Trung Quốc ((zhōngguó) (中華)(centre de l’univers).  Bởi vậy trong lịch sử Trung Hoa có nhiều chuyện hoang đường khó tin nổi lấy râu thằng A cắm qua thằng B nhất là thời tam hoàng ngủ đế. Tất cả điều này một phần lớn là do sự vay mượn các truyền thống, phong tục và các nhân vật thần thoại hoặc động vật từ các dân tộc mà họ đã thành công trong việc hán hóa. Các  nhà nho giáo người Việt  đôi khi cũng nhầm lẫn dựa trên sách  vở  của người Hán như trong  Đại Việt Sử Ký Ngoại Kỷ Toàn Thư mà nói người Giao Chỉ (Việt cổ) (Jiaozhi)  không biết cày cấy cần nhờ  thái thú  Cửu Chân thời nhà Tây Hán Nhâm Diên (Ren Yan) dạy dân khai khẩn ruộng đất, hàng năm cày trồng để  cho trăm họ no đủ. Luôn cả các nhà khảo cổ phương Tây  thì cũng vậy, cho rằng người Việt Cổ  chỉ là những người sống bằng nghề đánh cá, săn bắn và hái lượm dựa trên sách vở của Trung Hoa.

May thay nhờ các tài liệu  nghiên cứu di truyền của Hugh McColl cùng nhóm đồng nghiệp [4] và các cuộc khai quật khảo cổ  trong thời gian qua thì biết rõ ngày nay cư dân Hoà Bình là những người đầu tiên biết rõ về kỷ thuật  trồng lúa  nước và nông nghiệp khác như ngũ cốc vân vân…(Hang Ma chẳng hạn). Sau đó có một trận lụt lớn đã xảy ở  thời điểm 12000 năm trước  khiến làm một phần lớn đất đai mà các nhóm cư dân tiền sử sinh sống như lưu vực sông Hồng đã chìm xuống dưới biển khiến buộc lòng họ phải mạo hiểm di tản khắp mọi nơi phía nam ở Châu Đại Dương, phía đông ở Thái Bình Dương hoặc phía tây ở Ấn Độ hay  phía bắc ở vùng sông Dương Tử mang theo đặc trưng văn hóa Hòa Bình với di chỉ Tiên Nhân động (Xian Ren Dong) chẳng hạn ở Giang Tây (Jiangxi). Họ có dừng chân ở lưu vực  sông Dương Tử vì nơi nầy thuận lợi ở thời điểm đó cho việc phát triển  trồng lúa nước.  Rồi có một nhóm người vẫn tiếp tục hành trình đi lên vùng Đông Á, đem theo lúa đã được họ  thuần hóa (di chỉ Thường Sơn, Shangshan) qua ngã Chiết Giang (Zhejiang) và kê để rồi định cư  không những ở  đồng bằng sông Hoàng Hà mà còn lên đến tận vùng sông Liêu (Nội Mông). Chính họ hợp nhất  ở nơi nầy vớí cư dân cổ Bắc Á, những người du mục có dấu tích ở hang Devil’s Gate  thuộc  vùng lãnh thổ Nga giáp ranh giới  với Triều Tiên (Tây Bá Lợi Á) mà tạo ra người Mongoloid phương Bắc điển hình và văn hoá  Hồng Sơn được tìm thấy từ khu Nội  Mông đến Liêu Ninh (Hoa Bắc).

Những  người Mông Cổ phương Bắc còn  tiến xuống vùng sông Hoàng Hà, nơi có  người Miêu tộc cư trú và gỉỏi về làm ruộng. Họ được gọi là  bộ tộc « Yi » Bởi vậy chữ tượng hình Yiđược có nguồn gốc từ hình chữ  người  có mang một cây cung   Họ được nổi bật trong việc cởi ngựa bắn cung và họ rất thiện chiến.  Bởi vậy họ dành thắng lợi với Hoàng Đế (Yandi)  trong cuộc chiến tranh với người Miêu tộc do Xi Vưu (Chiyou) cầm đầu tại Trác Lộc (Zhuolu) ở Hà Bắc (Hebei)  vào năm 2704 TCN, dẫn đến sự thành hình nền văn minh Hoa Hạ (Ngưỡng Thiều (Yangshao)  và Đại Vấn Khẩu (Dawenkou)) và tạo ra chủng Mongoloïd phương Nam với cư dân cổ  Đông Nam Á. Người Mongoloïd phương Nam càng ngày càng tăng số lượng và trở thành chủ nhân của lưu vực Hoàng Hà từ  đó. Họ cũng là tổ tiên của người Hán (Trung Hoa) hiện đại. Ở lưu vực sông Dương Tử có sự thành hình cộng đồng tộc Việt Tai-Kadai từ sự gần gũi của các cư dân bản địa thuộc hệ ngữ Nam Á và cư dân tiền Nam Đảo, Tai-Kadai đến sau. Từ  các yếu tố di truyền do sự hoà huyết  giữa các cư dân bản địa và di cư mới đến với các làn sóng di cư từ Bắc Á xuống Nam Á và ngược lại qua cả nghìn năm khiến có sự thay đổi ở trong cấu trúc của gen nhất là có sự ảnh hưởng của môi trường sinh sống khiến  có  sự  thay đổi dĩ nhiên về dáng vóc cũng như màu da và dẫn đến sự thành hình người Hoa Bắc, Hoa Nam cùng người Việt thuộc chủng Nam Á.

Chủng nầy là chủng tộc hợp nhiều sắc tộc ở Đông Á. Chính cũng ở nơi  nầy mà tộc Việt  nhận thức họ khác biệt rõ ràng với các tộc du mục ở khu vực sông Hoàng Hà. Họ tự xưng họ là Yue. Chữ  « Việt (Yue  (rìu)) » mà họ dùng để tự xưng họ là cư dân sống  ở khu vực  sông Dương Tử hay có  thói quen dùng chiếc rìu để canh tác trồng trọt và tự vệ  khi có sự xâm lựợc của người Hoa Hạ chớ những người nầy lúc nào vẫn xem họ là Man Di. Chính họ dẫn đến sự thành hình các nền văn hóa lớn như Lương Chử (Liangzhu)  và Thạch Gia Hà (Shijiahé) ở sông Dương Tử. Chính nhờ những cuộc khai quật khảo cổ ở phía hạ lưu sông Dương Tử vào thập kỷ 1970 mà chúng ta được biết đến văn hóa Lương Chử.  Văn hoá nầy  còn tiến bộ hơn nhiều lần so với văn hoá Ngưỡng Thiều (Yangshao)  vì nó có  từ 3.300 đến 2500 TCN với sự khám phá  chữ tượng hình được  khắc trên đá, yếm rùa, xương thú trong bói toán và cúng tế. Chữ nầy có sớm hơn Giáp cốt văn Ân Khư 2.000 năm.

Được  biết người cư dân Lương Chử có một lối sống định cư ổn định cùng một hệ thống tưới tiêu bằng nguồn nước lưu giữ qua các kênh mương và một tổ  chức xã hội cần nhiều nhân lực cho việc sản xuất và phân phối. Theo  tài liệu khảo cổ và truyền thuyết nói về Thần Nông (sống khoảng 3320-3080)  thì có sự trùng hợp hoàn toàn  với nền văn hóa nầy.

Vua  Thần Nông  là vị vua đầu tiên  ở phương nam còn phương bắc  thì các tộc du mục được vua Hoàng Đế (người Hoa Hạ) cai trị. Theo học giả Hà Văn Thùy thì khoa học xác nhận, từ vật chứng ADN lấy trực tiếp trên di cốt Lương Chử thì dân cư xứ nầy gồm có hai dạng có mã di truyền M122 (chủng Indonesian) và M119 (chủng Melanesian). Hai chủng người nầy đa số đều người từ Đông Nam Á di cư lên Hoa lục cách đây 12000 năm trước. Hai chủng người nầy làm nên dân cư người Lương Chử. Các đồ tạo tác đặc trưng nhất của nền văn hóa Lương Chử là các đĩa bi có lỗ ở giữa và  các tông mà tông lớn nhất được khai quật nặng 3,5 kg hay là những vật bằng ngọc thạch mang tính lễ nghi được làm một cách tinh xảo và thường được chạm khắc theo mô dạng thao thiết (taotie) hay là rìu. Những lưỡi cày bằng đá đạt đến kích thước lớn hơn nhiều, trong một số trường hợp dài tới 60 cm. Những chiếc máy cày thì chắc chắn do gia súc kéo (có thể là trâu). Liềm, dụng cụ dùng để thu hoạch, cũng được trọng dụng  đáng kể. Nền văn hóa nầy có hệ thống phân cấp xã hội thể hiện ở sự khác biệt về chôn cất trong các mộ đất của những người có quyền lực và qúi phái và những người nghèo.Trong các mộ của giới qúi phái  thì các đồ vật dùng bằng ngọc bích, ngà, lụa hay sơn mài trong khi đó ở giới hạ  lưu thì chỉ  có  đồ  gốm. Các  đĩa bi được sử dụng trong bối cảnh nghi lễ và thường  có nhiệm vụ bảo vệ người về thế giới bên kia. Bi thường được kết nối với trời và màu xanh, trong khi tông, với hình dạng hình ống vuông ở bên ngoài và hình tròn bên trong, được liên kết với đất và màu vàng.  Quan niệm nầy  làm chúng ta nhớ đến  hình dáng bánh chưng bánh dày của tộc Việt nhân dịp Tết nguyên đán.

Ngoài ra trên những hình thao thiết  hay thường  thấy «Thần nhân thú diện» tức là biểu hiệu của thần Xi Vưu thể hiện lòng can đảm theo học giả Hà Văn Thùy [5]. Còn theo nhà khảo cổ người Pháp Alain Thote thì  đây là một biểu tượng nhận dạng  mang  tính cách ma lực tôn giáo và có ý tưởng liên quan đến cái chết  khi ông nghiên cứu các thanh gươm của người Việt cổ (Ngô -Việt) ở thời  Đông Châu Liệt Quốc [6]. Tuy thời gian quá cách xa từ văn hoá Lương Chử đến thời nhà Đông Châu có cả nhiều thế kỷ, việc  chạm khắc trang trí «Thần nhân thú diện» trên các gươm không phải ngẫu nhiên nhất là chỉ trang trí một mặt và theo chiều hướng từ cán ra đến đầu lưởi gươm chắc chắn có ngụ ý cần  đến  sự che chở của thần nhân tức  là thần  Xi Vưu. Sau khi  bị giết, ông được trở thành một vị thần chiến tranh nhầm bảo hộ các tộc người Việt trên đất Trung Hoa ở phương nam cùng  chung một gốc trong đó có người Lương Chử  được các học giả Trung Hoa xác nhận là Vũ Nhân (羽 人)  hay Vũ dân, những người  thờ vật  Chim và Thú tức là Tiên Rồng (truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên). Theo tự điển Hán nôm, chữ Vũ (羽) chỉ chung một loại chim. Tại sao Tiên Rồng? Từ thưở xưa, chim  là  loại  vật có thể   bay cao vượt núi đến bồng lai tiên cảnh, nơi  cư ngụ của các tiên nữ. Còn rồng chắc chắn là thủy quái  mà trong sử nước ta  gọi là con thuồng luồng (giao long). Thời đó ở sông Dương Tử có  một loại cá sấu  nay đang ở  trong tình trạng bị đe dọa tuyệt chủng.  Để tránh sự tấn công của thủy quái, tộc Việt hay có tục lệ xâm mình. Bởi vậy tộc Việt ghép cho vật tổ của họ là Chim và Rồng với quan niệm song trùng lưỡng hợp  (hai thành một). Còn tên thị tộc  Hồng Bàng  cũng từ vật tổ Chim Rồng mà ra.  Văn hóa Lương Chử nằm ở hạ  lưu  sông Dương Tử  trong khi đó nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương  thì  tới bắc Hồ Động Đình, đông thì Biển Đông, tây giáp với Ba Thục, nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành). Theo học giả Hà Văn Thùy thì ta thừa biết ranh giới quốc gia và ranh giới văn hóa  chỉ tương đối mà thôi vì hay thường có sự chồng lấn lên nhau. 

Lý do gì mà văn hoá Lương Chử  lại biến mất và được thay sau đó bởi văn hóa Thạch Gia Hà (Shijiahé). Văn hóa nầy được xem thừa kế  của văn hoá Khuất Gia Lĩnh (Qujialing (3400-2500 TCN)  phát triển  ở mức độ cao hơn qua các đồ bằng ngọc hình tròn tượng trưng cho trời như rồng hay chim phượng hoàng  và  được  tập trung  chung quanh khu vực  Động Đình Hồ.  Như vậy ta thấy rõ hơn nước Xích Quỷ của tộc Việt bao  gồm các khu vực của hai nền văn hóa Lương Chử và Thạch Gia Hà. Tại sao gọi nước ta là Xích Quỷ? Thuật ngữ Xích được dùng để chỉ màu đỏ và ngụ  ý  chỉ phương nam. Còn Quỷ thì nói đến ngôi sao đỏ Yugui Qui, một chòm sao rực  rỡ trong  Nhị thập bát tú theo cách chia trong thiên văn học phương Đông. 

Sự sụp đổ của nền văn hóa Lương Chử đã gây ra rất nhiều tranh cãi trong cộng đồng khảo cổ học. Một giả thuyết được phổ biến mạnh mẽ là thiên tai lũ lụt khiến tàn phá nhà cửa ở vùng đất nầy suốt một thời gian dài và buộc lòng cư dân ở đây phải di cư ẩn trốn ơ ở  nơi khác. Họ đem đi với họ ngọc bích,  nghề trồng lúa, nuôi tầm và sơn mài. Cũng có thể là đúng vì theo truyền thuyết Tam Hoàng Ngũ Đế của Trung Hoa thì Đại Vũ (vua đầu tiên của nhà Hạ) có công trị thủy để ổn định cuộc sống và  phát triển việc cày cấy nên được vua Thuấn truyền ngôi lập ra nhà Hạ (2255 TCN – 2207 TCN)  lúc mà văn hoá Lương Chử biến mất.  Nhưng cũng khó tin nỗi vì đây là truyền thuyết được ghi chú lại trong sử ký của Tư Mã Thiên ở  thời Tây Hán và cũng  chưa có gì chứng minh xác thực  nhà Hạ có thật hay không? Nhưng gần đây, giả thuyết nầy được  nhà địa chất học người Áo, Christophe Spötl [7] của đại học Innsbruck  cùng các đồng nghiệp xác nhận trong tạp chí Science Advances qua một nghiên cứu ngày 24 tháng 11 2021. Sự sụp đổ của văn hoá Lương Chử và các nền văn hóa ở thời kỳ đồ đá mới khác ở vùng hạ lưu sông Dương Tử là do sự biến đổi khí hậu, mưa lũ không  ngừng khiến cư dân ở đây phải bỏ trốn ra đi.

 

Nhưng theo nhà nghiên cứu Nhật Bản Shin’ichi Nakamura [8] của đại học Kanazawa thì văn hóa Lương Chử biến mất vì sự cạn kiệt tài nguyên ngọc bích. Đối với văn hóa Lương Chử, toàn bộ nguồn sức mạnh  chính trị đều dựa  trên ngọc bích. Chỉ có những người sở hữu những thứ này mới có thể nắm giữ  được quyền lực và tính hợp pháp của nó. Bởi vậy ở giai đoạn cuối cùng của nền văn hóa Lương Chử thì thấy các hiện vật như cong ngọc không còn được xuyên suốt nửa.  Ngược lại ở trung lưu sông Dương Tử thì  văn hóa Thạch Gia Hà (Shijiahe) được  có  kỷ thuật điêu khắc ngọc ở mức độ hoàn hảo và vượt trội  hơn hai nền văn hoá Lương Chử và Hồng sơn qua 250 di chỉ bằng ngọc bích được các nhà khảo cổ  tìm thấy ở địa điểm Tanjialing (Hồ Bắc) vào năm 2015. Văn hóa nầy  trở thành một nơi trung tâm có tầm quan trọng hơn với  sự thành hình của đại tộc Bách Việt (百越).

Tương tự thành phố Lương Chử, thành phố Thạch Gia Hà có  một hệ thống kênh mương được đào xung quanh các khu đô thị và kết nối với các con sông gần đó. Trong số các hiện vật được tìm thấy ở văn hóa nầy ngoài  đĩa bi, ngọc tông và rìu còn có một hiện vật cần có sự chú ý của mọi người đó là chiếc bình gốm lại có hình một thủ lỉnh mà trên đầu có cái gù trang sức  với lông chim rất phù hợp với hình người  nhảy múa mặc bộ đồ bằng lông chim trên các trống đồng (Ngọc Lũ chẳng hạn) của nền văn hoá Đồng Sơn. Cũng chính là biểu tượng của tộc Việt. Trong văn hóa Thạch Gia Hà còn thấy các hiện  vật  hình tròn bằng ngọc thể hiện chim phượng hoàng hay rồng được tạo tác một cách tinh vi. Theo nhà khoa học chính trị người Mỹ Charles E. Merriam của đại học Chicago thì đây là một phương  pháp thực nghiệm quyền lực và đóng giữ vai trò «miranda» để buộc dân chúng phải kính trọng  hai loại vật linh thiêng nầy  [9]. Bởi vậy  cư dân ở đây thích xâm hình rồng trên người  và  đội mũ lông chim để thể hiện điều nầy. Tâp tục xâm mình nầy  dân tộc ta chỉ  bỏ đi dưới thời vua Trần Anh Tôn. Văn hóa Thạch Gia Hà  nằm ở trong địa bàn của nước Văn Lang tộc Việt. Qua sự mô tả địa lý trong truyền thuyết thì được biết nước Văn Lang thời đó đóng đô ở Phong Châu,  có đất đai rộng lớn giáp ranh bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục (Tứ Xuyên).  Tên Văn Lang có nguồn gốc từ tiếng Việt cổ là Blang hay Klang mà các dân tộc miền núi thường dùng để ám chỉ vật tổ, có thể  đây là một loài chim nước  thuộc họ chim Diệc. Có thể xem thời đó nước  Văn Lang như một liên bang của các cộng đồng tộc Việt. Đây cũng là nhà nước đầu tiên của tộc Việt  theo truyền thuyết trong lịch sử Việt Nam. 

(miranda:  danh từ dùng nói đến những biểu tượng gắn liền với cảm xúc của một dân tộc nhằm thể hiện sự tôn trọng và ngạc nhiên đối với họ.

Bình rượu bằng đồng

Theo truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương (hay Thánh Gióng)  thì có một cuộc xung đột xảy ra giữa  nước Văn Lang  và nhà Thương dưới thời vua Hùng vương thứ  VI. Trong Kinh Dịch được dịch bởi giáo sư  Bùi Văn Nguyên thì tác giả có nói đến một cuộc viễn chinh quân sự được thực hiện trong vòng ba năm bởi vua hiếu chiến của nhà Thương tên là Wuding (Vũ Định) ở lãnh thổ của Ðộng Ðình Hồ  (Kinh Châu) chống lại các dân du mục, thường gọi là  « Quỷ ». Bởi vậy nước Văn Lang không có thiết lập bất kỳ mối quan hệ thương mại nào với nhà Thương cả. Những khám phá về  các đồ vật bằng đồng ở Ninh Hương (Hồ Nam) vào những năm 1960 đã dẫn chứng cho ta thấy trong các chiến lợi phẩm được mang về trong cuộc viễn chinh ở phía nam Trung Quốc  nầy thì có  sự hiện diện  một chiếc bình rượu bằng đồng được trang trí với khuôn mặt hình người Melanesian mà không có sự giải thích nào cả.  Còn ở những nơi  khác cùng thời thì có sự thành hình các nền văn hóa  Nhị Lý Đầu của nhà Hạ ở Hà nam (Erlitou, Henan)  hay của nhà Ân-Thương  ở thung lũng sông Hoàng Hà thì thấy được có sự ảnh hưởng của  các nền văn hoá Lương Chử và Thạch Gia Hà nầy  ít nhiều qua các mẫu hình thao thiết  tượng trưng cho khuôn mặt động vật (Taotie) hay phượng rồng.

Đến  thời điểm 2000 TCN  thì  có hạn hán ở vùng trung lưu của sông Dương Tử  qua các cuộc nghiên cứu khảo cổ và khí tượng khiến làm cư dân  ở Thạch  Gia Hà cũng noi gót  cư dân Lương Chử phải  di tản vì không còn tiếp tục hoạt động trồng lúa được nửa. Dựa trên các nghiên cứu gen của Hugh McColl và các đồng nghiệp thì cư dân nông nghiệp ngữ hệ Nam Á nầy  lại quay trở về lại Đông Nam Á cách đây 2000 năm TCN và hoà hợp một số ít  với dân cư bản xứ sống nghề hái lượm và săn bắn. Liên bang của các tộc Việt  ở sông Dương Tử cũng bị tan rã [10]. Sự việc nầy làm biến mất đi hai nền văn hóa Lương Chử và Thạch Gia Hà. Có thể xem sự tan rã nầy nó rất phù hợp với truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ lúc chia tay: 50 đứa con theo cha đi xuống đồng bằng (Lạc Việt), 50 đứa con theo mẹ  Âu Cơ  lên núi (Âu Việt hay Tây Âu). Được cai trị bởi các Hùng Vương, nước Văn Lang cũng bị thu hẹp lại sau đó  với 15 bộ lạc từ 1879 TCN.

Có một điều đáng làm ta chú ý đến là ở văn hoá Thạch Gia Hà nầy có  một hiện vật được gọi là nha chương mà nó có ý nghĩa là cái răng bằng ngọc dùng để  tế núi sông và  được phát hiện sớm nhất từ văn hóa Đại Vấn Khẩu (4100 -2600 TCN)(Dawenkou)  ở khu vực tỉnh Sơn Đông (Shandong) mà được các nhà khảo cổ công nhận hiện nay. Nha chương (lame de jade) nầy  được tìm thấy ở các ngôi mộ của các người có quyền lực và cấp bậc cao ở trong xã hội. Riêng ở Việt Nam hiện nay tìm được 8  nha chương ở Phùng Nguyên và Xóm Rền  (tỉnh Phú Thọ, Việt Nam) có niên đại vào khoảng 1700-1400 TCN tức là thuộc về văn hóa Phùng Nguyên  của dân tộc ta mà giáo sư Hà văn Tấn chứng minh chính xác luôn có sự liên tục không bị phá vở với các nền văn hóa Đồng Đậu-Gò Mun[11]  trước văn hóa Đồng Sơn qua các niên đại carbon phóng xạ và tương ứng với thời kỳ của các vua Hùng (Hồng Bàng). Như vậy các nha chương nầy nó có phải đến từ văn hóa Thạch Gia Hà ở sông Dương Tử,  trên dòng di cư của tộc Việt quay về lại Đông Nam Á (Vietnam) cách đây 4000 năm trước qua cuộc nghiên cứu  nhân  chủng học của nhà nghiên cứu Hirofumi Matsumura cùng các đồng nghiệp vào năm 2019  hay không  [12] hay  các hiện vật nầy là đến từ văn hoá Tam Tinh Đôi  ở Tứ Xuyên (Sichuan)?

Chắc chắn là không đến từ văn hoá Tam Tinh Đôi ở Tứ Xuyên  vì văn hoá nầy chỉ  có niên đại vào khoảng 1200 TCN tức là sau văn hoá Phùng Nguyên  có đến khoảng 500 năm. Như vậy nha  chương  Phùng Nguyên phải có nguồn gốc từ vùng Dương Tử với văn hóa Thạch Gia Hà. Nha chương được sử dụng như một dụng cụ lễ khí trong các dịp tế lễ  được tìm thấy ở văn hoá Tam Tinh Đôi (Tứ Xuyên) hay dùng  với chức năng đại diện quyền lực ở giai đọan đầu của thời Hùng Vương? Một câu hỏi chưa có phần giải đáp chính xác. Nhưng dù sao đi nửa chúng ta cũng tự hào là con Rồng cháu Tiên vì chính nhờ  các truyền thuyết mà ông cha ta khéo léo dựng ra để ta tìm lại được chính xác  cội nguồn qua các cuộc nghiên cứu di truyền và các cuộc khai quât khảo cổ trong thời gian qua.

Version française

Pourquoi le peuple vietnamien a-t-il plus de contes  et de légendes que tout autre peuple d’Asie du Sud-Est ? Parfois, le lecteur se demande si ces légendes sont vraies ou non  ou bien écrites par l’imagination humaine, quelque peu « magique » et irréelle. En fait, l’origine du peuple vietnamien est volontairement vague dans l’histoire car elle ne repose que sur ces légendes qui la rendent parfois difficile à croire et absurde comme la légende du « Lạc Long Quân- Âu Cơ  » avec un sac qui a fait éclore une centaine d’œufs.

Pour le chercheur Paul Pozner [1], l’historiographie vietnamienne s’appuie sur une tradition historique longue et éternelle et s’exprime par une tradition orale se répétant  sur plusieurs siècles du premier millénaire avant J.-C. sous la forme de légendes historiques qui se sont diffusées dans les temples ancestraux. Pourquoi notre nation n’a-t-elle pas de recueils d’histoire comme les Hans (les Chinois) malgré  notre longue présence en Asie du Sud-Est ? Ce lieu est également considéré comme le berceau de la civilisation humaine à travers les commentaires du physicien britannique Stephen Oppenheimer dans l’ouvrage « Paradis à l’Est » [2].

C’est aussi dans notre pays que l’archéologue française Madeleine Colani a découvert, lors des fouilles archéologiques au début du 20ème siècle,  la culture de Hoà Bình (18000-10000 avant JC) en 1922. C’est aussi la culture  donnant naissance à la  civilisation des Proto-Vietnamiens, une civilisation du riz inondé. La raison pour laquelle notre peuple n’a pas de recueil d’histoires  est due à la domination chinoise durant presque mille ans. Ils ont toujours délibérément effacé l’origine de notre peuple à partir de la dynastie  des Han de l’Ouest avec l’empereur Wudi. Les mémoires historiques de Si Ma Qian [3] ont été  toutes écrites avec l’intention politique et les ambitions de l’agresseur de siniser les peuples gouvernés et de renforcer le pouvoir et le prestige du fils  du Ciel (empereur) dans un pays  multi-ethnies et se conformer enfin à la signification de deux caractères chinois ((zhōngguó) (中華)(centre de l’univers). C’est pour cela que dans l’histoire de la Chine qu’il y a  une incohérence visible dans de nombreux mythes.  On est habitué à prendre l’habit de A pour recouvrir B en particulier à l’époque des Trois Augustes et Cinq Empereurs. Tout cela est dû en grande partie à l’emprunt de traditions, de coutumes et de figures mythologiques ou animales aux autres peuples que les Han ont réussi à siniser durant leur conquête. Les lettrés vietnamiens ont eu tort de s’appuyer sur les recueils d’histoire chinois comme  le cas du livre intitulé « Đại Việt Sử Ký Toàn Thư » où les Giao Chỉ (les Proto-Vietnamiens)  avaient besoin de l’aide du préfet chinois Ren Yan (Nhâm Diên) de  Cửu Chân à l’époque des Han de l’Ouest pour savoir labourer la terre et cultiver le riz.  Il en va de même pour les archéologues occidentaux. En s’appuyant sur les livres chinois, ces derniers  pensaient également que les  Giao Chỉ (Jiaozhi) n’étaient que des gens vivant de la pêche, de la chasse et de la cueillette.

Heureusement, grâce aux documents de recherche génétique de Hugh McColl et ses collègues [4] et aux fouilles archéologiques dans le passé, on sait maintenant  que les habitants de Hoà Bình étaient  les premiers à connaître la culture du riz irrigué et d’autres techniques agricoles comme la culture des céréales etc. (La cave des esprits par exemple).

Puis il y a  une grande inondation (un déluge) ayant eu lieu il y a 12.000 ans. Cela a fait s’enfoncer dans la mer une grande partie des terres habitées par des populations préhistoriques comme le bassin du Fleuve Rouge.  Ces dernières  étaient obligées  de le quitter et de s’enfuir en se réfugiant  partout dans le monde:  à l’est dans l’océan Pacifique, à l’ouest en Inde ou au nord dans la région du fleuve Yang Tsé en emmenant avec  elles les objets caractéristiques de la culture Hoà Binh trouvés dans le site  Xian Ren Dong (Tiên Nhân động) de la province  Jiangxi (Giang Tây) par exemple. D’après les travaux de recherche génétique, il s’agit bien  d’anciens habitants de l’Asie du Sud-Est (ou les gens de Hoà Bình) faisant leur arrêt  dans le bassin du fleuve Yangtze car cet endroit était propice à l’époque au développement de la riziculture irriguée. Mais  il y a  encore un autre  groupe de personnes qui aimaient à continuer leur migration vers l’Asie de l’Est en emmenant  leur riz domestiqué (site de Shangshan, Thượng Sơn) et leur millet  et en  empruntant le passage à Zhejiang (Chiết Giang) pour s’installer non seulement dans le delta du Fleuve Jaune mais aussi  jusqu’à la région du Fleuve  Liao dans la Mongolie intérieure de la Chine d’aujourd’hui (Liêu Hà, Nội Mông Trung Hoa). C’est dans cette dernière qu’ils  s’étaient unis aux autochtones  nomades de l’Asie du Nord dont les vestiges étaient trouvés dans la grotte de la Porte du Diable sur le territoire russe limitrophe de la Corée (Sibérie occidentale) pour donner naissance à une  race mongoloïde du Nord typique et une culture nommée « Hong Shan (Hồng Sơn) » découverte de la région de la Mongolie intérieure  jusqu’à Liaoning. Ces Mongoloïdes du Nord étaient descendus dans la région du fleuve Jaune où vivaient les Hmongs  qui étaient très doués en agriculture. Ils faisaient partie de la tribu Yi.
Étant à l’origine le dessin d’un homme   portant un arc , ce caractère « Yi »   nous donne une idée précise sur la particularité de ces  gens du Nord. Ils se distinguaient par le tir à l’arc et ils étaient très habiles au combat. C’est pourquoi ils réussirent à gagner les victoires contre les Hmong dirigés par leur leader Chiyou (Xi Vưu) à Zhuolu (Trác Lộc) en l’an 2704 B.C. dans la province Hebei (Hà Bắc) et Shennong (Thần Nông) trois fois de suite, ce qui donna naissance ensuite à la civilisation chinoise (Yangshao (Ngưỡng Thiều) et Dawenkou (Đại Vấn Khẩu) et à la nouvelle race mongoloïde du Sud avec les anciens habitants de l’Asie du Sud Est. Étant de plus en plus nombreux, ces  nouveaux mongoloïdes du Sud  devenaient ainsi les sujets du bassin du fleuve Jaune et les ancêtres des Chinois d’aujourd’hui.
Dans le bassin du fleuve Yang Tsé, la formation de la communauté ethnique Yue-Tai-Kadai avait lieu du fait de la proximité des habitants autochtones de la famille linguistique austro-asiatique et des Pré-Austronésiens -Tai-Kadai venus plus tard. Compte-tenu des facteurs génétiques dus à la fusion des autochtones et des nouveaux venus issus des vagues de migration de l’Asie du Nord vers l’Asie du Sud et vice versa sur des milliers d’années, il y a eu des modifications dans la structure des gènes, notamment sous l’influence de l’environnement, cela a provoqué une changement naturel de la taille et de la couleur de la peau et a conduit à la formation des Mongoloïdes du Nord et du Sud et des Yue de la famille austro-asiatique. Celle-ci est constituée de plusieurs ethnies dans l’Asie de l’Est. C’est ici que les Yue  se rendaient compte qu’ils étaient clairement différents des tribus nomades de la région du fleuve Jaune. Ils se disaient Yue (). Le mot « Yue (hache) » qu’ils utilisaient pour se désigner eux-mêmes en tant que les gens vivant dans la région du fleuve Yang Tsé ou ayant l’habitude d’utiliser la hache pour cultiver les céréales  et se défendre lorsqu’il y avait  l’invasion des gens du Nord (les Chinois).  Ceux-ci les considéraient  toujours comme des Man Di (des Sauvages). Pourtant ce sont eux qui ont conduit à la formation des grandes civilisations comme  Liangzhu et Shijìahé. C’est grâce aux fouilles archéologiques  entamées dans le cours inférieur du fleuve Yangtsé dans les années 1970 que l’on connaît la culture de Liangzhu. Celle-ci était bien plus avancée que la culture de Yang Shao puisqu’elle remonta à 3300 ans  avant J.C. avec la découverte des pictogrammes  sculptés sur  la pierre,  les plastrons de tortue,  les os des animaux dans les séances de divination et des offices religieux. Ces dessins figuratifs étaient antérieurs  de plus de 2 000 ans aux inscriptions oraculaires des Shang. On sait que les habitants de Liangzhu avaient un mode de vie sédentaire stable avec un système d’irrigation avec de l’eau emmagasinée par des canaux et une organisation sociale  nécessitant beaucoup de main-d’œuvre pour la production et la distribution. Selon les documents archéologiques et la légende du roi Shennong (ayant eu vécu vers 3320-3080), il y a une coïncidence parfaite avec la culture de Liangzhu).

Le roi  Shennong était le premier roi du Sud  tandis que dans le Nord les tribus nomades étaient gouvernées par l’empereur jaune des Chinois Huang Di. Selon l’érudit vietnamien  Hà Văn Thùy, les travaux scientifiques  ont confirmé, à partir des preuves ADN effectuées directement sur les restes  des habitants de Liangzhu, la présence de deux halo-groupes  génétiques M122 (souche indonésienne) et M119 (souche mélanésienne). Ces deux races sont principalement des personnes originaires d’Asie du Sud-Est qui ont émigré en Chine il y a 12 000 ans. Ces deux races constituent la population de Liangzhu. Les artefacts les plus caractéristiques de la culture Lianzhu  sont les disques en jade avec un trou circulaire  au centre,  les Cong  dont le plus grand excavé pèse jusqu’à  3,5 kg et des objets de jade finement sculptés portant le caractère cérémoniel  et présentés  sous la forme d’un taotie ou d’une hache. Les socs en pierre ont des tailles beaucoup plus grandes, jusqu’à 60 cm de long dans certains cas. Les charrues sont certainement tirées par des animaux domestiques  (éventuellement des buffles). La faucille, l’outil utilisé pour la récolte, est également d’une utilité considérable. Cette culture a une hiérarchie sociale qui se reflète par les différences d’inhumation dans les tombes des gens détenant le pouvoir, des aristocrates et des pauvres. Dans les tombes des aristocrates, les objets utilitaires sont en jade, ivoire, soie ou laque tandis que dans le milieu pauvre, on ne trouve que des objets en céramique. Les disques bi sont employés dans le cadre d’un rituel et ont le rôle de protéger les trépassés dans le monde des morts. Le disque bi est souvent associé au Ciel et a la couleur verte tandis que le Cong  dont la forme est tubulaire à l’extérieur et cylindrique à l’intérieur,  est assimilé à la Terre et a la couleur jaune. Ce concept nous fait penser à la forme du gâteau de riz gluant à l’occasion de notre nouvel an (Tết).

De plus, sur les objets  de masque taotie on voit souvent  l’emblème du dieu Chiyou faisant preuve de courage  à travers son visage animalier d’après l’érudit Hà Văn Thùy [5]. Mais selon l’archéologue français Alain Thote, il s’agit  bien d’un symbole  ayant une valeur magico-religieuse liée à la mort lorsqu’il étudie les épées des anciens Yue  (Wu-Yue) à l’époque  des Zhou orientaux [6]. Bien que la distance  dans le temps soit trop éloignée  entre  la culture de Liangzhu et la dynastie des Zhou orientaux  au fil de nombreux siècles, la décoration du masque taotie sur les épées n’est pas fortuite. Elle  est effectuée seulement  sur une face tournée vers la lame. Cela implique certainement l’intercession et la protection d’une divinité, est ce le dieu Chiyou ? Après avoir été tué par Huang Di, Chiyou est devenu le dieu de la guerre et protège ainsi tous  les groupes ethniques Yue  vivant  dans le sud  de la Chine, y compris les gens de Liangzhu  reconnus par les érudits chinois comme  les adorateurs des oiseaux et des animaux Vũ Nhân ( 羽 人) ou Vũ Dân càd les Enfants du Dragon et les Grands Enfants de l’Immortelle (Con Rồng Cháu Tiên).

Selon le dictionnaire sino-vietnamien, le mot Vũ () fait référence à un oiseau. Pourquoi Fée-Dragon ? Dans les temps anciens, les oiseaux sont  des animaux pouvant  voler au-dessus des montagnes jusqu’à l’endroit où vivent les Immortelles. Quant au dragon, il est certainement un monstre marin qui, dans l’histoire de notre pays, s’appelle le dragon d’eau (Giao Long). À cette époque, dans le fleuve Yang Tse, il y avait un type d’alligator  qui est maintenant en danger d’extinction. Afin d’éviter l’attaque de  ce monstre marin, les Proto-Vietnamiens avaient  coutume de se tatouer. C’est pourquoi ils  associaient  à leur totem   le couple (Oiseau /Dragon) avec la notion de dualité (deux en un). Le nom du clan Hồng Bàng provient également du couple (Oiseau/Dragon). La culture de Lianzhu est localisée dans le cours inférieur du fleuve Yang Tsé, tandis que le pays  Xích Qủi de Kinh Dương Vương est délimité  au nord  par le  lac Động Đình, à l’est par  la mer de Hainan, à l’ouest par le royaume Ba Shu (Ba Thục) et au  sud  par  le Champa (Hồ Tôn). Selon le chercheur Hà Văn Thùy, on sait bien que les frontières nationales et les frontières culturelles ne sont que relatives car elles se chevauchent souvent les unes sur les autres.
Pour quelle raison  la culture  de Liangzhu  a-t-elle disparu pour être  remplacée plus tard par la culture de Shijiahé ?  Cette  dernière  a été considérée comme l’héritière de la culture  de Qujialing (3400-2500 av. J.-C.). Elle s’est développée  aussi à un niveau supérieur à travers des objets ronds en jade représentant le ciel comme les dragons ou les phénix et s’est concentrée  communément  autour du lac. On voit donc plus clairement que le pays de Xich Gui du peuple vietnamien englobe les zones de deux cultures  de Liangzhu et de Shijiahé. Pourquoi notre pays s’appelle-t-il Xích Quỷ?  Xích désigne la couleur rouge et fait allusion au sud, tandis que le terme Quỷ fait référence à l’étoile brillante de couleur rouge Yugui Qui parmi les 28 loges nocturnes stellaires organisées  dans un système de subdivision du ciel  utilisé dans l’astronomie orientale.
L’effondrement de la culture de Liangzhu  a suscité de nombreuses controverses  et de débats dans la communauté des archéologues. On retient la thèse  la plus répandue selon laquelle  les catastrophes naturelles ont provoqué des inondations dévastant ainsi les habitations  de cette région pendant longtemps et forçant  les habitants d’ici à migrer et à se cacher ailleurs. Ils ont emporté avec eux le jade, la riziculture, l’élevage des vers à soie et la laque. C’est peut-être vrai  car  selon la légende des Trois Augustes et des Cinq Empereurs de Chine, You le Grand (le premier monarque de la dynastie des Xia) avait le mérite d’inventer les techniques d’irrigation pour maîtriser les fleuves, stabiliser la vie  de ses habitants et développer l’agriculture. C’est  pour cela que l’empereur Shun (vua Thuấn) lui céda le trône pour fonder la  dynastie des  Xia (2255 avant JC – 2207 avant JC) lors de la disparition de la culture Liangzhu. Mais c’est difficile d’accepter aussi cette version  car il s’agit bien d’une légende recopiée dans  les mémoires historiques  de Sima Qian sous la dynastie des Han occidentaux et rien n’apporte la preuve de l’existence de la  dynastie des  Xia. Mais récemment, cette hypothèse a été confirmée par le géologue autrichien Christophe Spötl [7] de l’université d’Innsbruck et ses collègues dans la revue « Science Advances» au  travers d’une étude datée du 24 novembre 2021. L’effondrement de la culture Liangzhu et d’autres cultures néolithiques dans la région du cours inférieur du fleuve Yang Tsé ont été dues au changement climatique, aux pluies incessantes et aux inondations incitant les habitants à fuir. 

Mais selon le chercheur japonais Shin’ichi Nakamura [8] de l’université de Kanazawa, la culture Liangzhu a disparu à cause de l’épuisement des ressources en jade. Pour la culture Liangzhu, toute la source du pouvoir politique était basée sur le jade. Seuls ceux qui possèdent ces ressources peuvent détenir leur pouvoir et leur légitimité. À la dernière étape de la culture de Liangzhu, des artefacts en  jade comme les Cong ne sont plus translucides et contiennent des impuretés. En revanche, au milieu du fleuve Yang Tse, la culture Shijiahé possède  une technique de sculpture de jade à un niveau de perfection  supérieur  à  celui de deux cultures Liangzhu et Hongshan au  travers de 250 objets en jade que les archéologues ont trouvés lors des fouilles  sur le site de Tanjialing (Hubei) en 2015. Cette culture occupe désormais une grande place importante avec la formation des Cent Yue.

Dans la culture de  Shijiahé, il y a également des artefacts ronds en jade (phénix, dragons) représentant le Ciel et fabriqués de manière tellement sophistiquée. Selon le politologue américain Charles E. Merriam de l’université de Chicago, il s’agit d’un moyen de légitimation empirique du pouvoir et de possession de la fonction «miranda» pour forcer les gens à respecter ces deux animaux sacrés.[9]. C’est pourquoi les gens d’ici aiment tatouer des dragons sur leur corps et porter des chapeaux de plumes pour les montrer. Cette coutume de tatouage n’a été abandonnée que sous le règne du roi Trần Anh Tôn.

  un leader de Shijiahé

(miranda: se rapporte aux symboles liés à l’émotivité d’un peuple pour lui imposer le respect et l’émerveillement.)

La culture de Shijiahé est localisée  dans l’aire du royaume des Proto-Vietnamiens  Văn Lang. À travers la description géographique de la légende, on sait qu’à cette époque le royaume Văn Lang avait  Phong Châu pour capitale. Il était délimité au nord par  le lac Dongting (Hunan) (Động Đình, Hồ Nam),  au sud par le Champa  (Hồ Tôn), à l’est par la mer de Hainan et à l’ouest par le royaume  Ba Shu (Sichuan). Le nom Văn Lang est dérivé de l’ancien mot Yue Blang ou Klang que les montagnards  utilisent souvent pour désigner le totem, c’est peut-être un oiseau aquatique de la famille des hérons. Le royaume de Văn Lang peut être considéré à cette époque comme une fédération de communautés ethniques Yue. C’est aussi le premier état de l’ethnie Yue selon la légende de l’histoire vietnamienne.

Selon la légende du Seigneur Phù Đổng (ou Thánh Gióng), il y eut un conflit entre le royaume Văn Lang et la dynastie des Shang sous le roi Hùng Vương VI. Dans le Yi King traduit par le professeur Bùi Văn Nguyên, l’auteur mentionne une expédition militaire menée en trois ans par le roi guerrier de la dynastie des Shang nommé Wuding (Vũ Định) dans le territoire du lac Động Đình (Kinh Châu, Jīngzhōu ) contre les nomades souvent appelés « Diables ». Ce conflit  pourrait expliquer la raison principale pour laquelle le royaume de Văn Lang n’a établi aucune relation commerciale avec les Shang. Les découvertes d’objets en bronze à Ningxiang (Hunan) dans les années 1960 ont montré que dans le butin ramené lors de cette expédition dans le sud de la Chine, il y avait la présence d’un vase à vin en bronze orné d’un visage humain mélanésien sans aucune explication.

un vase à vin en bronze

Dans d’autres endroits à la même époque, il y a la formation des cultures Erlitou de la dynastie des Xia dans le Henan  ou de la dynastie des Shang dans la vallée du fleuve Jaune. L’influence de ces cultures Liangzhu et Shijiahé y est plus ou moins visible  à travers les modèles ayant des visages d’animaux (Taotie) ou des animaux phénix et dragon. Au moyen des études archéologiques et météorologiques, on sait qu’en l’an 2000 avant J.C, il y avait une sécheresse dans la région moyenne du fleuve Yang Tsé, ce qui obligea  les habitants de Shijiahé à suivre les traces des habitants de Liangzhu  à évacuer la région car ils ne pouvaient plus continuer à faire la riziculture. Sur la base d’études génomiques de Hugh McColl et de ses collègues, cette population agraire austro-asiatique Yue était obligée de revenir en Asie du Sud-Est il y a 2 000 ans et  d’effectuer la fusion  en une infime partie  avec la population indigène vivant  sur place  de la cueillette et de la chasse. L’union des tribus Yue  du fleuve Yang Tsé  a également été dissoute [10]. Cet incident a causé la disparition de deux cultures Liangzhu et Shijiahé. On voit que cette dissolution est très conforme à la légende du roi Lạc Long Quân et de la princesse Âu Cơ au moment de la séparation: 50 enfants ont suivi le père dans les plaines (Luo Yue) et  50 autres enfants ont accompagné  la mère Âu Cơ dans les montagnes (Si Ngeou). Dirigé par les rois Hung, le royaume Văn  Lang se rétrécit plus tard avec ses 15 tribus à partir de 1879 av. J.C.

Une chose à laquelle il convient de prêter attention est que dans cette culture Shijiahé, il existe un artefact appelé nha chương (ou une dent de jade) utilisée pour faire des offrandes aux montagnes et aux rivières et  reconnue et attribuée   jusque-là  à la culture Dawenkou (Đại Vấn Khẩu) dans la région de la province du Shandong (Shandong) par les archéologues. Cette lame de jade se trouve dans les tombes des personnes détentrices du pouvoir  et de haut rang dans la société. Particulièrement au Vietnam, il y a actuellement 8 lames trouvées à Phùng Nguyên et Xóm Rèn (province de Phú Thọ, Vietnam) datant d’environ 1700-1400 avant J.C. Cela signifie qu’elles appartiennent à la culture Phùng Nguyên de notre  peuple. Le professeur Hà Văn Tấn a prouvé avec précision qu’il existe toujours  la continuité ininterrompue de cette culture  avec celles de Đồng Dậu et Gò Mun[11] qui sont antérieures à la culture Đồng Sơn au moyen des datations au radiocarbone et qu’il correspond ainsi à la période des rois Hùng (Hồng Bàng). Ces lames de jade doivent donc provenir de la culture Shijiahé du fleuve Yang Tsé lors de la migration des Proto-Vietnamiens  vers l’Asie du Sud-Est (Vietnam) il y a 4000 ans rapportée par l’étude anthropologique du chercheur Hirofumi Matsumura et ses collègues en 2019 [12] ou elles sont issues de la culture Sanxingdui de Sichuan ?

Certainement elles ne viennent pas de la culture Sanxingdui  au Sichuan car cette dernière  ne date que d’environ 1200 avant J.C., soit environ 500 ans de décalage avec la culture Phùng Nguyên. Ainsi, la lame de jade  de Phùng Nguyên doit provenir de la région du Yang Tse avec la culture Shijiahé. La lame de jade est utilisée comme un outil rituel dans les occasions cérémonielles de la culture Sanxingdui (Sichuan) ou comme un objet du pouvoir au début de la période des rois Hùng? C’est une question dont on n’a pas encore la réponse juste. Mais quoi qu’il en soit, nous sommes toujours fiers d’être les descendants du Dragon et les Grands Enfants de l’Immortelle  car  grâce aux légendes que nos ancêtres ont savamment inventées  et aux études génétiques et aux fouilles archéologiques dans un passé récent nous réussissons à retrouver notre origine avec exactitude.  

Miranda se rapporte aux symboles s’adressant à l’« émotivité » d’un peuple pour lui imposer le respect ou l’émerveillement.

Paris le 28/02/2023

Bibliographie

[1]  Paul Pozner: Le problème des chroniques vietnamiennes, origines et influences étrangères. BEFO, année 1980, vol 67, no 67, p275-302
[2] Stephen Oppenheimer: Địa đàng ở Phương Đông.  Lịch sử huy hoàng của lục địa Đông Nam Á bị chìm ? NXB Lao Động; 2005.
[3] Edouard Chavannes: Mémoires historiques de Se-Ma Tsien de Chavannes, tome quatrième.
[4] Hugh McColl, Fernando Racimo, Lasse Vinner, et al. (2018). The prehistoric peopling of Southeast Asia. Science;361(6397) 88-92.
[5] Hà Văn Thùy: Phát hiện di vật văn hóa Lương Chữ tại Viêt Nam. Nghiên cứu lịch sử.
[6]  Alain Thote: Note sur la postérité du masque de Liangzhu à l’époque des Zhou orientaux, Arts asiatiques. Tome 51, 1996. pp. 60-72.
[7] Christoph Spotl, Haiwei Zhang, and all (2021) Collapse of the Liangzhu and other Neolitic cultures in the lower Yantze region in response to climate change. Science Advances Vol 7, Issue 48.
[8] Shin’ichi Nakamura: Le riz, le jade et la ville. Évolution des sociétés néolithiques du Yangzi. Éditions de l’EHESS « Annales. Histoire, Sciences Sociales. 2005/5 60e année | pages 1009 à 1034.
[9] Charles E. Merriam, Political power : Its composition and incidence, New York-Londres, Whittlesey House/McGraw-Hil, 1934.
[10] Lang Linh: Lịch sử hình thành và tan rã của cộng đồng tộc Viêt. Lược sử tộc Việt.
[11] Hà văn Tấn: Theo dấu các văn hóa cổ.  Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội. Hànội 1998.
[12] Hirofuma Matsumura, Hsiao-chun Hung, Charles Higham et al. (2019). Craniometrics reveal « Two Layers » of Prehistoric Human Dispersal in  Eastern Eurasia. Scientifics reports; 9(1): 1451.
Dominique Lelièvre: La grande époque de Wudi. Editions You Feng. 2001
Bai Shouyi: Précis d’histoire de Chine. Editions en langues étrangères. Beijing, 1988
René Grousset: Histoire de la Chine. Des origines  à la seconde guerre mondiale. France-Loisirs, Paris 1997
Norman Jerry- Mei tsulin 1976 The Austro asiatic in south China : some lexical evidence, Monumenta Serica 32 :274-301
Sun, Jin & Li, Yingxiang & Ma, Pengcheng & Yan, Shi & Cheng, Hui-Zhen & Fan, Zhi-Quan & Deng, Xiao-Hua & Ru, Kai & Wang, Chuan-Chao & Chen, Gang & Wei, Ryan. (2021). Shared paternal ancestry of Han, Tai-Kadai-speaking, and Austronesian-speaking populations as revealed by the high resolution phylogeny of O1a-M119 and distribution of its sub-lineages within China. American journal of physical anthropology. 174. 10.1002/ajpa.24240.
Corinne Debaine-Francfort : La redécouverte de la Chine ancienne.  Editions Gallimard  1998.
Léonard Rousseau: La première conquête chinoise des pays annamites (IIIe siècle avant notre ère). BEFO, année 1923, Vol 23, no 1.
Bình Nguyên Lộc: Lột trần Việt ngữ. Talawas.

Chim Lạc có phải vật tổ của người dân Việt không?

 L’oiseau Lạc est -il l’oiseau totémique des Proto-Vietnamiens?

Chim Lạc có phải vật tổ của người dân Việt không ?

Version française

Câu hỏi  nầy thường được nêu ra sau thời kỳ các nhà khảo cổ học thuộc Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp (Louis Pajot, Olov Jansen)  phát hiện ra một số đồ đồng cổ ở  thung lũng Mã, đặc biệt là ở làng Đồng Sơn (Thanh Hóa) vào năm 1924. Sau đó với sự đề xuất của nhà khảo cổ học ngừời Áo R. Heine-Geldern thì  văn hóa này được gọi là « Văn hóa Ðồng Sơn » tức là văn hóa  của người Việt cổ.

Ngoài việc tranh dành về nguồn gốc trống đồng giữa hai nước Việt Nam và Trung Hoa, còn có thêm cuộc tranh luận về các hình tượng trang trí được thấy nhiều trên mặt trống đồng nhất là con chim chi không biết là loại chim gì chân cao mỏ dài  trong tư thế bay hay ngồì. Học giả Đào Duy Anh đã ngộ nhận và kết luận trong quyển Lịch sử cổ đại Việt Nam  rằng đây là con chim lạc chỉ một loại hậu điểu tương tự như ngỗng trời  là vật tổ của người Lạc Việt. Thưở  xưa, các thị tộc ở xã hội nguyên thủy hay thường lấy tên thị tộc mà đặt tên cho vật tổ tức là con chim lạc. Nhưng dù thuyết vật tổ của ông là lý thuyết sai lầm theo sư nhận xét của sử gia Trần Gia Phụng hay nhà văn Đinh Hồng Hải nhưng vì ông là một trong những học giả uyên thâm  hàng đầu Việt Nam ở  thời đó nên dễ thuyết phục dư luận. Sự nhận định nầy khiến ít ai  dám phủ nhận cả mà còn tạo ra một ý niệm về mối quan hệ mật thiết giữa người Lạc Việt và loài chim nầy. Rồi ý niệm nầy  trở thành từ đó quan niệm chim Lạc, vật tổ  của người  Lạc Việt. Theo sử gia Trần Gia Phụng tất cả tài  liệu có nói đến chữ Lạc  như Thủy kinh chú của Lịch Đạo Nguyên (thế kỷ thứ 6) hay An Nam chí lược  của Lê Tắc (thế kỷ 13)  đều dựa trên  sách cổ « Giao Châu ngoại vực ký » của Trung Hoa  được xuất hiện khoảng giữa đời nhà Tấn (265-420) trong đó có  một đoạn văn viết như  sau: Giao Chỉ tích hữu quận huyện chi thời, thổ địa hữu lạc điền.  Kỳ điền tòng thủy triều thượng hạ.  Dân khẩn thực kỳ điền, nhân các vị Lạc dân, thiết Lạc vương, Lạc hầu chủ chư quận huyện.  Đa vi Lạc tướng, đồng ấn thanh thụ. Xưa, khi Giao Chỉ chưa thành quận huyện, đất đai có ruộng gọi là ruộng lạc, ruộng đó tùy thủy triều lên xuống mà làm.  Dân khẩn ruộng đó mà ăn, vì thế tất cả gọi là dân Lạc.  Họ lập Lạc vương, Lạc hầu để coi quận huyện.  Có nhiều Lạc tướng, có ấn đồng lụa xanh.
Chữ Lạc đọc  ở  trên đây  theo âm Hán Việt chớ người Hoa họ đọc theo âm Trung Hoa thì là « lo, ló, lô » như  thành Lạc Dương thủ đô nhà Châu thì  được phiên âm theo chữ Latin ra là Loyang. Như vây chữ có  âm « lo, ló, lô » trong  tiếng Việt cổ là gì ? Nó chỉ là lúa gạo. Bởi vậy từ Thừa Thiên đến Nghệ An, mọi người hay thường dùng chữ ló để ám chỉ  lúa.  Tại vùng Quảng Bình ở miền trung  mới có câu tục ngữ « Cơm mô cho vừa bụng chó, ló mô cho vừa bụng gà». Như vậy chữ Lạc là từ ngữ phát âm theo lối Hán Việt chớ chữ Lạc mà cố tìm sự giải thích nào khác cũng hoàn toàn vô nghĩa vì nó không phải là chữ phiên âm từ tiếng của người Việt cổ. Có thể nói chữ Lạc mà tìm hiểu nghĩa theo chữ Trung hoa thì sẽ bị lạc hướng. Người Hoa  dùng chữ Lạc đễ phiên âm tiếng Ló của người Giao Chỉ và để chỉ tộc người có nền văn minh lúa nước.
Bởi vậy bất cứ chữ Lạc nào  với bất cứ bộ thủ nào, họ cũng đọc là Lo  cả theo sự nhận xét  của  cố học giả Hoàng Văn Chí trong sách  Duy văn sử quan. Ngày nay có nhiều dân tộc miền núi hay nhiều điạ phương ở nước ta vẫn còn dùng từ ngữ ló để nói lúa gạo như Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình hay từ ngữ lọ ở Thanh Hóa.  Còn người Mường thì  gọi  với một âm tiết khá nặng giữa chữ lỏ và lọ (như cơm mường vó, lọ mường vang)   (Đinh Hồng Hải, trang 72). Như vậy  con chim Lạc  là con chim không có thật sự trong môi trường thiên nhiên ở đất nước ta. Nó cũng không có ghi chú  trong các từ điển của nước ta để ám chỉ con chim lạc cả.  Nó không phải là con vật tổ của người  Việt cổ thì nếu không nó được nằm ở vị trí trung tâm của mặt trống đồng. Tuy nhiên nó phải sống, gần gũi  mật thiết hằng ngày  với người trồng lúa nước ở trên đồng  cũng như  con trâu đi trước cái cày theo sau  trong nền văn hóa  Đồng Sơn. Nó được xem như là mô típ trang trí được ghi khắc trên trống đồng làm cho ta liên tưởng đến con cò, con hạc hay con sếu. Các  chim nầy đều có mỏ dài  và chân cao cả nhưng xét dưới gốc độ gần gũi và thân thiết với người  nông dân Việt thì cò ở đâu cũng có hiên diện không những trên ruộng đồng Viêt Nam mà luôn cả trong tục ngữ ca dao Việt Nam. Còn xét duới gốc độ tín ngưỡng   thì  hạc là loại chim có tính biểu tượng cao  thượng được thấy ở các nơi thờ  tự như ở Văn Miếu  (Hànội). Nhìn lại lịch sử và truyền thuyết thì người Việt cổ  (hay Lạc Việt) đã thừa nhận họ  là thị tộc Hồng Bàng (tức là chim và rắn tức là Tiên Rồng).  Như vậy họ đã ghép cho vật tổ của họ là Chim và Rắn rồi với quan niệm song trùng lưỡng hợp  (hai trong một) theo  học giả Hà Văn Thùy. Bởi vậy họ tự cho họ là con Rồng cháu Tiên. Tên Văn Lang có nguồn gốc từ tiếng Việt cổ là Blang hay Klang mà các dân tộc miền núi thường dùng để ám chỉ vật tổ, có thể  đây là một loài chim nước thuộc họ chim Diệc. Có thể xem thời đó nước  Văn Lang như một liên bang của các cộng đồng tộc Việt. Đây cũng là nhà nước đầu tiên của tộc Việt  theo truyền thuyết trong lịch sử Việt Nam. Nói như nhà văn Đinh Hồng Hải thì cần có những phương pháp nghiên cứu sâu hơn để làm rõ danh tính của loại  chim nầy. Còn sử  gia Trần Gia Phụng,  những hình ảnh trên trống đồng đều là hình “câm”. Bởi  vậy  giả thuyết nầy chỉ  là sự phỏng đoán  chưa có phần   kết luận.  Giả thuyết nào hợp lý sẽ đứng vững  mà thôi.

CHIM_LAC

Version française

Cette question est souvent posée après la découverte d’ un grand nombre d’objets datant de l’âge de Bronze dans la vallée de Mã, notamment dans le village de Ðồng Sơn en 1924 par les archéologues de l’Ecole Française d’Extrême-Orient (BEFO) (Louis Pajot, Olov Jansen). Puis, sur la proposition de l’archéologue autrichien R. Heine-Geldern, cette culture a été appelée « culture de  Đồng Sơn », c’est-à-dire la culture des Proto- Vietnamiens. (ou des Luo Yue)

En outre,  à cause du différend de longue date sur l’origine du tambour de bronze entre le Vietnam et la Chine, il y a aussi un débat sur les images décoratives trouvées sur la surface du tambour, en particulier  un oiseau de quelle famille il s’agit.  On n’arrive pas à l’identifier  avec ses longues pattes et son long bec  en posture volante ou assise.  L’érudit Đào Duy Anh l’a reconnu par erreur dans son livre intitulé   « Histoire ancienne du Vietnam » en affirmant que cet oiseau Lạc (Luo) semblable à une oie sauvage était  l’oiseau totémique des Lo Yue (ou des Proto-Vietnamiens)? Autrefois, les clans de la société primitive avaient l’habitude de prendre souvent le nom du clan pour l’attribuer à leur totem. C’était le cas de l’oiseau Lạc (ou Luo). Selon l’historien Trần Gia Phụng ou l’écrivain Đinh Hồng Hải, malgré sa fausse théorie, l’érudit  Đào Duy Anh continua à convaincre l’opinion publique  car il fut l’un des érudits  de renom  au Vietnam à cette époque. Personne n’osa contester sa capacité de discernement mais par contre cela créa en revanche une idée de relation  très étroite entre les Luo Yue et cet oiseau. Puis cette idée devint ainsi un jour sans même en rendre compte l’acceptation du nom « Luo » (ou Lạc) en vietnamien pour cet échassier, l’oiseau totémique des Luo Yue.  Selon l’historien Trần Gia Phụng, tous les livres historiques contenant le mot « Lạc » ou (Luo) » comme  « Thủy kinh chú » de Lịch Đạo Nguyên ( 6ème siècle) ou « Les archives abrégées d’An Nam » de  Lê Tắc (13ème siècle) sont basées essentiellement sur le livre ancien chinois « Giao Châu ngoại vực ký » dont la date d’édition a lieu à l’époque des Jin (265-420) et dans lequel figure un paragraphe écrit en caractères Han-Viet comme suit: Giao Chỉ tích hữu quận huyện chi thời, thổ địa hữu lạc điền.  Kỳ điền tòng thủy triều thượng hạ.  Dân khẩn thực kỳ điền, nhân các vị Lạc dân, thiết Lạc vương, Lạc hầu chủ chư quận huyện. 

Autrefois, lorsque Jiaozhi (ou Viet Nam) n’était pas encore un district, sa terre possédait  des champs des riz appelés  des champs « Luo ».  En fonction de la montée ou la descente  des marées, ces derniers étaient labourés. Les gens qui y travaillaient étaient appelés  les Luo Yue (Les gens de Luo). Leur  roi  était connu sous le nom «Roi Luo (Lạc Vương », leurs marquis « Luo » étaient appelés « Lạc hầu » et ils avaient la mission de  contrôler les districts. Il y a beaucoup de généraux ayant des sceaux en bronze avec la soie  bleue. 

Le mot « Lạc »  ci-dessus  est prononcé en caractère sino-vietnamien (Hán Việt) par les Vietnamiens. Par contre les Chinois le prononcent en recourant à la transcription phonétique.  Ce mot phonétique  devient ainsi « lo, ló, lô ». C’est le cas du nom de la capitale Lạc Dương des Chu qui devient  Loyang lors de la  transcription phonétique en chinois. Que  devient-il  le mot « lo, ló, lô » employé par le Chinois dans la langue des Proto-Vietnamiens ?  Il désigne le paddy ou le riz. C’est pourquoi de la région Thừa Thiên jusqu’à la province Nghệ An du Viet Nam, tout le monde est habitué à employer le mot « ló » pour faire allusion au riz.  Dans la région Quảng Bình du Centre-Vietnam, il y a un proverbe suivant « Cơm mô cho vừa bụng chó, ló mô cho vừa bụng gà»(Le riz cuit donne satisfaction au ventre du chien tandis que le grain de riz remplit bien l’estomac du poulet). Étant en caractère sino-vietnamien, le mot « Lạc » n’a aucune signification car il s’agit bien d’une transcription phonétique  employée par les Chinois à partir du mot ló des Proto-Vietnamiens (ou des gens de Jiaozhi) pour les désigner comme des gens ayant la culture du riz inondé. C’est pourquoi quel que soit le radical employé avec le mot « Lạc », les Chinois continuent à le prononcer en  Ló selon la remarque du feu érudit Hoàng Văn Chí dans son livre intitulé «Duy văn sử quan ». Aujourd’hui,  il reste pas mal des montagnards ou des gens locaux de notre Vietnam continuent à employer le mot « ló» pour évoquer le riz comme  les gens de  Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình ou le mot «lọ» dans la région de Thanh Hóa. Selon l’écrivain Đinh Hồng Hải, les cousins proches des Vietnamiens, les Mường  le prononcent avec un accent situé entre les mots  lỏ et lo (cơm mường vó, lọ mường vang) pour évoquer  le riz de la région Mường Vó et le paddy  de Mường Vang. Ainsi on peut dire que l’oiseau Lạc n’existe pas réellement dans la nature de notre pays. On ne trouve pas non plus son nom  dans les dictionnaires vietnamiens.  Il n’est en aucun cas l’oiseau totémique des Proto-Vietnamiens sinon on doit le trouver au centre de la surface du tambour de bronze.

La grue au temple de la littérature

Cependant, il doit être proche des riziculteurs et vivre quotidiennement avec eux dans le champ comme  le buffle précédant la charrue dans la culture de Đồng Sơn. Il est considéré comme un motif de décoration gravé sur le tambour en bronze.  Cela nous fait penser à une aigrette ou une grue. Ces oiseaux ont tous de longs becs et de hautes pattes, mais compte tenu de la proximité et de l’intimité  journalière avec les riziculteurs vietnamiens, les aigrettes sont présentes partout non seulement dans les champs mais aussi dans les chansons populaires. Du point de vue religieux, la grue est une sorte d’oiseau afférent au caractère noble que l’on retrouve dans les lieux de culte comme au Temple de la Littérature (Văn Miếu, Hanoï). En  jetant un regard dans  l’histoire et les légendes des Lo Yue (Lạc Việt)  ou Proto- Vietnamiens (ou Lac Viet), ils se  reconnurent depuis la nuit des temps  comme des gens appartenant au clan Hồng Bàng (Hồng  désignant  l’oiseau et Bàng le serpent càd l’Immortelle et le dragon). C’était pourquoi ils avaient associé à leur totem le couple (Oiseau/Dragon) avec la notion de dualité (deux en un) selon l’érudit Hà Văn Thùy. Ils étaient fiers d’être Enfants du Dragon et Grands Enfants de l’Immortelle (Con Rồng cháu Tiên). Le nom Văn Lang est dérivé de l’ancien mot Yue Blang ou Klang que les montagnards  utilisent souvent pour désigner le totem, c’est peut-être un oiseau aquatique de la famille des hérons. Le royaume de Văn Lang peut être considéré à cette époque comme une fédération de communautés ethniques Yue. C’est aussi le premier état de l’ethnie Yue selon la légende de l’histoire vietnamienne. Selon l’écrivain Đinh Hồng Hải, il faut des méthodes de recherche approfondies pour clarifier l’identification de cet échassier. Pour l’historien Trần Gia Phung, les images trouvées sur les tambours sont toutes « muettes ». Par conséquent, cette hypothèse n’est qu’une conjecture sans conclusion. Toute hypothèse logique sera debout  seulement.

Références bibliographiques

  • Đinh Hồng Hải.   Những biểu tượng  đặc trưng trong văn hóa truyền thống Việt Nam. Tập 3. Các con vật linh. Nhà xuất bản Thế Giới.
  • Trần Gia Phụng: Hình chim trên trống đồng Lạc Việt.
  • Hoàng văn Chí. Duy văn sử quan. Nhà Xuất bản  Cành Nam, Hoa Kỳ,1990  tt 78-79
  • Đào Duy Anh: Lịch sử Việt Nam. Nhà Xuất Bản  Văn hóa thông Tin 2002

Danse du lion ou de la licorne (Múa lân sư)

Version française

Múa Lân Sư

Nhắc đến Tết không có ai có thể không nhắc đến múa Lân. Đây là môn nghệ thuật múa dân gian được thấy trên đường phố ở Việt Nam. Nó được gọi là múa lân ở trong Nam còn ở ngoài Bắc thì gọi là múa sư (tức là sư tử (hay  wǔshī ). Lân là con linh vật  đứng hàng thứ nhì  trong bốn con vật có sức mạnh siêu phàm hay tứ linh (long, lân, qui, phụng). Trong văn hóa Việt nam, chúng ta thường bị lầm lẫn giữa  con kỳ lân với con ghê. Đặc điểm để phân biệt giữa nghê và lân là ở bộ móng, nghê mang móng vuốt còn kỳ lân mang móng guốc. Thật sự khi gọi kỳ lân, tức là nói đến một cặp: con đực gọi là kỳ và lân là con cái. Múa Lân thường được biểu diễn trong các dịp lễ hội, đặc biệt là Tết Nguyên Đán, Tết Trung Thu hay khánh thành cửa hàng mới vì các loại thú nầy tượng trưng cho thịnh vượng và hạnh phúc. Con lân có cái đầu được trang trí  trông rất đẹp mắt và thân thể của nó được nâng lên bởi một số vũ công uốn lượn theo nhịp điệu âm thanh của các tiếng trống. Nó luôn luôn đi cùng với một vũ công bụng phệ, vui cười hay vẫy quạt, thường đeo mặt nạ  và mặc áo choàng màu vàng nghệ (Ông Địa). Đây là cuộc khiêu chiến giữa người và động vật, giữa Thiện và Ác, luôn luôn kết thúc bằng chiến thắng của con người trên động vật.

Danse de la licorne ou du lion.


 

En évoquant le Têt, personne n’oublie de mentionner la danse de la licorne ou du lion. C’est un art de la danse folklorique que l’on trouve dans les rues du Vietnam. On l’appelle la danse de la licorne  dans le Sud et la danse du lion dans le Nord (ou wǔshī bính âm). La licorne  occupe la deuxième place parmi les  quatre animaux au pouvoir surnaturel (tứ linh)(long, lân, qui, phụng). Dans la culture vietnamienne, on a l’habitude de confondre la licorne avec le chien-lion (con nghê).  La principale caractéristique permettant de faire la  distinction entre la licorne  et le chien-lion  réside dans les doigts de pied, la licorne étant armée  des sabots et le chien-lion des griffes. Quand on parle de la licorne (Kỳ Lân), on a affaire à un couple d’animaux : kỳ c’est le mâle tandis que Lân est une femelle. La danse de la licorne  est souvent pratiquée lors des fêtes traditionnelles, notamment le Nouvel An lunaire, la fête de la Mi-Automne ou l’inauguration d’un nouveau magasin (ou une boutique) car ces animaux sacrés symbolisent la prospérité et  le bonheur. Cet animal légendaire dont la tête est  décorée magnifiquement et dont tout  le corps est porté par plusieurs danseurs, ondule au rythme des sons des tambourins. Il est toujours accompagné par un autre danseur hilare et ventru agitant son éventail et portant une robe de couleur safran (Ông Ðịa). C’est la danse-combat entre l’homme et l’animal, entre le Bien et le Mal qui se termine toujours par le triomphe de l’homme sur l’animal.

Phu Văn Lâu (Pavillon des Édits)

 

Version française

Được tọa lạc trước Kỳ Đài trên trục chính của hoàng thành Huế, quay mặt về phía phía nam (sông Hương), Phu Văn Lâu  là một ngôi lầu nhỏ hai tầng được xây dựng vào năm 1819 dưới thời ngự trị của vua Gia Long. Lầu nầy có chức năng để niêm yết các chiếu chỉ của vua lúc mới ban hành và để công bố tên của các thí sinh được trúng tuyển trong các khoa thi lớn như thi hội và đình. Chính vì lầu có mang tính các long trọng nên mọi người đến đây phải xuống người và phải quỳ lại trước khi đọc chiếu thư của triều đình. Có bia đá trước lầu « Khuynh Cái Hạ Mã » để nhắc nhở mọi người phải xuống ngựa bày tõ lòng kính cẩn. Năm 1829, nơi nầy được vua Minh Mạng dùng để tổ chức cuộc đấu hổ và voi. Dưới thời vua Thành Thái, sau cơn bão năm Giáp Thìn (1904), Phu Văn Lâu bị phá hủy  trầm trọng và được vua Thành Thái hạ lệnh xây dựng lại như xưa. Phu Văn Lâu là một di tích lịch sử vì đây là nơi mà Trần Cao Vân và Thái Phiên  giả vờ câu cá để gặp vua Duy Tân bàn việc khởi nghĩa chống Pháp. Khi sự việc bị đổ vỡ không thành, hai ông bị tử  hình và vua Duy Tân bị đày qua đảo La Reunion. Bởi vậy ai cũng ngầm ngùi thương xót những nhà yêu nước Việt Nam qua ca dao Huế sau đây nhắc nhở  đến sự việc nầy:

Chiều chiều trước bến Văn Lâu,
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm?
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông?
Thuyền ai thấp thoáng bên sông,
Nghe câu mái đẩy, chạnh lòng nước non !

Version française

Situé à l’arrière de la tour du mât (Kỳ Đài) sur l’axe principal de la Citadelle Impériale de Huế et en face de la Rivière des Parfums, Phu Van Lau est un pavillon à deux étages construit en 1819 sous le règne de l’empereur  Gia Long. Cet édifice  a pour fonction d’afficher les arrêtés pris par le roi au moment de leur promulgation et d’annoncer les noms des candidats qui ont été sélectionnés aux concours nationaux et provinciaux. Du fait qu’il avait  un caractère solennel, tous ceux qui venaient ici,  devaient descendre de cheval et se mettre à genoux avant de lire l’édit impérial. Il y avait une  stèle de pierre devant le pavillon  « Khuynh Cái Hạ Mã » pour rappeler à chacun de respecter cette modalité. En 1829, ce lieu fut utilisé par le roi Minh Mang pour organiser un combat de tigres et d’éléphants. Sous le règne du roi Thành Thái, lors de la tempête de l’année Giáp Thin (1904), Phu Van Lau a été sévèrement détruit et  reconstruit comme avant par le roi. Phu Van Lau est un vestige historique car c’est l’endroit où Trần Cao Vân et Thái Phiên ont fait semblant de pêcher pour rencontrer le roi Duy Tân et engager les discussions du soulèvement contre les autorités coloniales françaises. Lorsque le complot avait échoué, ces deux hommes ont été exécutés et le roi Duy Tân a été exilé à La Réunion. C’est pourquoi cela nous remplit de compassion pour les patriotes vietnamiens avec les vers cités ci-dessous dans une chanson populaire de Huế:

Chiều chiều trước bến Văn Lâu,
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm?
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông?
Thuyền ai thấp thoáng bên sông,
Nghe câu mái đẩy, chạnh lòng nước non !

Le soir devant l’embarcadère Văn Lâu,
Qui est assis, qui pêche, qui est triste, qui est malheureux?
Qui aime, qui ressent, qui se souvient, qui regarde ?
La barque glisse  rapidement sur le fleuve,
En entendant le chant éthéré de la batelière, on éprouve un sentiment de tristesse !


 

Le belvédère des cinq phénix (Lầu Ngũ Phụng)

 Lầu Ngũ Phụng

Version française

Lầu ngũ phụng là một trong những công trình kiến trúc bậc nhất của triều  đại nhà Nguyễn ở Tử Cấm Thành. Nhìn tổng thể thì lầu Ngũ Phụng  chỉ có 5 dãy lầu mang  hình tượng 5 con chim phượng hoàng  đậu  xoè cánh thân thiết bên nhau.  Đây là  hình tượng mang tính cách liên tưởng đến sự hòa hợp âm dương nói lên  thời hoàng kim của nước Đại Nam hùng mạnh của vua Minh Mạng.  Phụng là loại chim  chỉ xuất hiện ở thời bình chớ thời loạn nó ẩn dật  trong truyền thuyết.  Lầu ngũ phụng thật sự là một  tổ hợp kiến trúc được dựng lên bằng gỗ lim và được xem như một lễ đài  dùng để tỗ chức các cuộc lễ hàng năm của triều đình như lễ Truyền Lô (nêu danh các sĩ phu trúng tuyển trong các khoa thi Hội, thi Đình), lễ Ban Sóc (lễ ban lịch năm mới), lễ Duyệt Binh v.v…Nó là  phần trên  của tổng thể kiến trúc Ngọ Môn mà  phần dưới là nền đài cao gần 6 thước, rộng 27 m và dài 58 m, được xây trên mặt bằng chữ U với phần lõm quay ra ngoài, vật liệu dùng là gạch vồ, đá thanh và đồng thau khiến hai phần trên dưới được ăn khớp nên có sự hài hoà từ tổng thể đến chi tiết theo sự nhận xét của nhà nghiên cứu  Phan Thuận An.  Chính ở  hệ thống nền đài  (thân cổng) nầy được thấy có 3 lối đi vào song song nhau: lối chính giữa dành cho vua, Tả Giáp Môn và Hữu Giáp Môn dành cho các quan văn võ đi theo  trong đoàn ngự đạo. Còn có  thêm hai lối  bên hông nằm ở trong lòng của hai cánh chữ U  gọi là Tả Dịch Môn và Hữu Dịch Môn dành cho lính tráng và voi ngựa. Tất cả các lối đều có  cánh gỗ kiên cố và sơn màu đỏ thẫm chỉ trừ cửa chính giữa thì sơn màu vàng, màu dành cho Thiên Tử (con của Trời). Ở mặt tường trên vòm cửa giữa có gắn hai chữ Hán lớn: “Ngọ Môn”.  Ngọ  Môn tức là  là cổng chính  nằm ở phiá  nam. Theo Phan Thuận An , chữ  ngọ dùng ở đây có ý nghĩa mang tính không gian chớ không phải thời gian. Bởi vậy  là lúc mặt trời đứng bóng nên không thể dịch  Ngọ Môn bằng « Porte du midi » hay « Noon time gate » .  Lầu Ngũ Phụng  có hai tầng,  tầng dưới  thì để trống đón gió phô  ra một hệ thống  100 cột thanh thoát tựa như  các chân phụng và sơn màu đỏ. Chính ở tầng nầy có một một toà nhà giữa   có hệ thống cửa gương ở mặt trước và măt sau là nơi được vua ngự tọa để  xem duyệt binh khi có các cơ hội quan trọng. Còn tầng trên thì các gian nhà làm theo lối nhà giường phố biển ở miền trung thường gọi là nhà cổ diêm (*). Mặt trước  của dảy gian nhà  ở ô giữa thì  dùng cửa lá sách  còn xung quanh thì nong ván nhưng có thấy nhiều nơi  có cửa sổ với  các hình dạng khác nhau: hình cái quạt, hình tròn, hình cái khánh v. v. Tầng trên gồm có 9 nóc nhà, giáp các mái lại với nhau thành một dãy 5 lầu gác chạy dài theo chiều ngang và hai dãy khác bên hông, mỗi dãy hai lầu nhô ra phía trước. Toàn bộ mái nhà của lầu Ngũ Phụng đều lợp  bằng các gói ống tráng men màu xanh lục chỉ trừ  bộ mái ở dãy ô giữa thì màu vàng óng ả.

Các bờ nóc, bờ dải và góc mái đều được trang trí rất tỉ mỉ và lộng lẫy với các hình rồng, dơi, hưu, vịt , mây cụm hay hoa lá bốn mùa (lan, mai, cúc, trúc). Bởi vậy để nhắc  đến cổng thành Ngọ Môn,  mới có hai câu thơ dân gian như sau trong ca dao:

Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Một lầu vàng, tám lầu xanh, ba cửa thẳng, hai cửa quanh.

Triết lý  Âm Dương Ngũ  Hành nó được gắn bó mật thiết hằng ngày với đời sống của người dân Việt nên những con số âm dương cũng đươc áp dụng một cách chính xác ở  trong kiến trúc Ngọ Môn chẳng hạn số 5, số 9 và số 100. Ngọ  Môn  có 5 con phụng xoè cánh,  5 lối vào,  9 mái nhà và  100 cây cột nhà ở lầu Ngũ Phụng. Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An thì con số một trăm cây cột (100= 55+45) có được là từ  các số cộng lại tìm thấy ở trong Hà Đồ (55)  và Lạc Thư (45)  của Kinh Dịch. Đây không phải là ý kiến ​​của   chuyên gia Liễu Thượng Văn. Con số  một trăm (100) thể hiện sức mạnh trăm họ hay bách tính và phản ảnh quan điểm dân vi bản (lấy dân làm gốc)  trong việc cai trị của triều đại nhà Nguyễn. Nhưng dù thế nào  đi nửa  người xưa đã có ý gửi gắm nhiều ẩn số và ẩn ý sâu xa trong công trình kiến trúc  nầy qua lý thuyết  Âm Dương Ngũ Hành.  Ngọ môn được khởi công xây dựng  lại vào năm Minh Mạng thứ 14 (1833). Đây không những là một kiệt tác  trong  nghệ thuật kiến trúc ở cố đô Huế  mà Ngọ  Môn còn mang đậm tính bản địa và bản sắc của dân tộc Việt.

(*) khoảng cách giữa hai mái gọi cổ diêm.

Version française

Le belvédère des Cinq phénix est l’une des œuvres architecturales les plus remarquables de la dynastie des Nguyễn dans la Cité interdite.  Dans l’ensemble,  on le voit comme un groupement de cinq rangées de dépendances  à l’image de 5 phénix juchés intimement avec leurs ailes déployées. C’est une image  que l’on aime associer à l’harmonie trouvée dans le Ying et le Yang et à l’âge d’or du puissant royaume  Đại Nam  dirigé par le roi Minh Mạng. Le phénix est un oiseau qui n’apparaît qu’en temps de paix et  se cache en cas de troubles  dans les légendes. Le belvédère des Cinq Phénix  est en fait un complexe architectural construit en bois de fer et il est  utilisé  comme la tribune de la cour royale  destinée à organiser des cérémonies annuelles  telles que la cérémonie Truyền Lô (nomination  des lettrés  dans les concours royaux et provinciaux), la cérémonie  Ban Sóc (publication  du nouveau  calendrier lunaire), cérémonie Duyệt Binh (défilé militaire) etc. Il est situé dans  la partie supérieure du complexe architectural Ngọ Môn tandis que  la partie inférieure de ce dernier est un puissant massif en maçonnerie environ de 6 mètres de haut, 27 m de large et 58 m de long  et construite sur une surface en forme de U avec la partie concave tournée vers l’extérieur. Le matériau utilisé est  en  brique, en pierre  « thanh »  et  en laiton. Selon l’observation du chercheur Phan Thuận An, ces deux parties sont bien engrenées  dans une cohésion parfaite, de la totalité de l’ensemble jusqu’aux détails.

C’est dans la partie inférieure du complexe architectural  Ngọ Môn  qu’on trouve  trois  portes parallèles dont celle située au milieu est  réservée uniquement au roi  tandis que les deux autres Tả Giáp Môn et  Hữu Giáp Môn sont pour les mandarins  faisant partie du cortège royal. Il y a aussi deux autres portes latérales situées au cœur des  deux ailes en forme de U appelées  Tả Dich Môn et Hữu Dich Môn. Celles-ci  sont destinées  aux soldats et aux éléphants. Toutes les portes ont des battants  en bois massif et peints en vermillon, à l’exception de la porte réservée au roi  peinte en jaune. C’est  la couleur préférée par le  Fils du Ciel. Il y a deux grands caractères écrits en caractères chinois: « Ngọ Môn » sur la façade de la porte principale  pour signifier que celle-ci est orientée dans la direction sud. Selon Phan Thuận An, le mot Ngọ utilisé porte  une signification liée à la notion d’espace mais il n’a  aucun rapport avec la notion de temps comme tant de gens  ont mal traduit  Ngọ Môn par la « Porte du midi » ou « Noon time gate ». Le belvédère des Cinq  Phénix a  deux étages.  Son étage inférieur est laissé  presque vacant  à part  le  système de 100 colonnes  visiblement dégagées et ressemblant aux pattes des  phénix et  peintes en rouge. C’est  dans cet étage qu’on trouve un bâtiment ayant un système de portes miroirs  établi sur sa façade extérieure pour permettre  au roi de voir le défilé militaire à des occasions importantes. Quant à son étage supérieur, on trouve les dépendances   construites dans le style d’architecture « cổ diêm (*)  trouvé fréquemment dans le centre du Viet Nam. Les fenêtres de devant de la rangée des dépendances  située dans la partie centrale  ont des persiennes  facilitant la vue  sur l’extérieur. D’autres fenêtres  sont  présentes aux alentours  sous des formes  très variées: éventail, cercle, gong etc.   L’étage supérieur se compose de 9 toits liés ensemble en une rangée  horizontale de 5 dépendances et deux rangées latérales  dont chacune  comporte deux appentis faisant saillie vers l’avant.

L’ensemble de la toiture du belvédère  Ngũ Phụng est recouvert de tuiles Yin et Yang vertes à l’exception de la rangée de la toiture de la partie centrale  avec des tuiles Yin et Yang jaunes. Les  arêtes,  les  rives et les coins  de la toiture sont tous magnifiquement et minutieusement  décorés  avec des figurines de dragons,  chauves-souris, cerfs,  canards,  bancs de nuages  ou de fleurs des quatre saisons (orchidée, abricot, chrysanthème, bambou).  Pour évoquer la porte méridienne Ngọ Môn, il y a deux vers  la décrivant dans la chanson populaire:

Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Một lầu vàng, tám lầu xanh, ba cửa thẳng, hai cửa quanh.

Le complexe architectural Ngọ Môn  comporte cinq portes  dont trois  sont droites et deux  latérales et neuf dépendances dont l’une est en jaune et les huit autres en vert. 

La théorie du Yin et du Yang continue à être liée intimement à la vie journalière des Vietnamiens de sorte que les chiffres du yin et du yang sont  également appliqués  dans l’architecture de  Ngọ Môn, tels que les nombres  5, 9 et  100. Le complexe Ngọ  Môn  a 5 phénix aux ailes déployées,  5 entrées, 9 toits et  100 colonnes du pavillon Ngũ Phụng. Selon le chercheur Phan Thuan An, ce nombre de cent colonnes correspond bien à la somme (100= 55+45) des nombres trouvés dans le plan du fleuve Hà Đồ (55) et l’Ecrit de la rivière Luo (Lạc thư cửu tinh đồ) (45) du Yi King. Ce n’est pas l’avis d’un autre spécialiste Liễu Thượng Văn. Selon ce dernier, cela représente la force de 100 familles ou du peuple (bách tính) et reflète bien la notion dân vi bản (prendre le peuple comme base) dans la gouvernance de la dynastie des Nguyễn. Mais de toute façon, les Anciens avaient l’intention de  vouloir transmettre ainsi  de nombreuses inconnues et des arrière-pensées dans cette œuvre architecturale à travers la théorie du Yin et Yang et des cinq éléments. Le complexe architectural Ngọ Mộn commença à être reconstruit  sous sa forme actuelle par le roi Minh Mang (1833). Ce n’est pas seulement un chef-d’œuvre de l’art architectural de l’ancienne capitale de Huế mais le complexe Ngọ Môn est porteur  de caractéristiques  locales et et de l’identité  du peuple vietnamien.

(*)  écart entre les deux toitures appelé (cố diêm)
 

Tài liệu tham khảo ( Références bibliographiques)

Kiên trúc cố đô Huế. Monuments of Huế.  Phan Thuận An. Nhà xuất bản Thuận Hóa 2001
Huế. Un centre culturel et touristique du Viet Nam. Lê Văn Hảo . Les Presses de l’UNESCO. 1982.
Di Tích Cung Đình Huế. Chu Văn Trứ .Viện văn hóa nghệ thuật Việt Nam. 

 

Bảo tàng Bình Định (Quy Nhơn)

Bảo tàng Bình Định

Version française

Được xây dựng vào năm 1969 bảo tàng Bình Định tọa lạc ở 26 Nguyễn Huệ, thành phố Quy Nhơn ngày nay. Ở đây các tượng và các bức phù điêu  của dân tộc Chămpa  mà các nhà khảo cứu Việt Nam và ngoại quốc đã tìm thấy trong các cuộc khai quật được chọn lọc lại và phải phù hợp với nội dung tính chất của bảo tàng trước khi được trưng bày ở nơi nầy cùng với các hiện vật khác có tính chất  tiêu biểu cho vùng đất nầy qua các thời kỳ lịch sử. Có thể nói đây là một bảo tàng tổng hợp có nhiều gian phòng cùng nhiều chủ đề khác nhau như văn hóa Chămpa, con người và đất nước, các nghề truyền thống, các tính ngưỡng cổ truyền  vân vân…, mang lại cho du khách có cái nhìn tổng quan về văn hoá Bình Định.

Galerie des photos

Musée de Bình Định

Étant édifié en  l’an 1969, le musée de Binh Đinh est situé au numéro 26 Nguyễn Huệ de la ville de Quy Nhơn. Ici, les sculptures et les bas-reliefs du peuple cham que les chercheurs vietnamiens et étrangers ont trouvés lors des fouilles archéologiques, sont sélectionnés et doivent correspondre  au contenu et à la nature de ce musée avant d’y être exposés avec d’autres artefacts typiques de cette région à travers les périodes historiques. On peut dire qu’il s’agit d’un musée général avec de nombreuses salles et de nombreux thèmes différents tels que la culture du Champa, les gens et leur pays, les croyances anciennes, les  métiers traditionnels etc.. , ce qui permet au visiteur d’avoir un aperçu général sur la culture de  Bình Định.

 

Espace touristique Quảng Đức

Không gian du lịch Quảng Đức

Version française

Sáng nay sau khi ăn điểm tâm xong với chú tài xế, tụi nầy mới khởi đầu cuộc tham quan ở phía bắc Tuy Hoà. Trên đường đi có ghé tham quan không gian du lich Quảng Đức được nằm ngay đầu đường rẽ vào lối đi Gành Đá Đĩa. Ngoài nhà của quan Tổng Trấn thì có thêm nhà cổ Quảng Đức và nhà Ô Loan. Nhà ở nơi nầy là một loại nhà trệt truyền thống của cư dân bản địa. Ở đây tụi nầy được xem các di vật, cổ vật và đồ gốm được lưu giữ và minh chứng một vùng đất phồn thịnh. Giá vào cửa là 60.000 đồng nhưng ngược lại có được một tách trà và một bánh đặc sản của vùng Phú Yên trong vườn. Đây là một không gian xưa đầy hoài niệm của một thời xa xôi, một nơi quá thơ mộng và bình yên khiến cũng để lại cho tụi nầy ít nhiều một ấn tượng tuyệt vời.

 

L’espace touristique Quảng Đức.

Ce matin, après notre petit déjeuner avec le chauffeur dans le centre-ville, nous avons commencé notre tour par le nord de la ville de Tuy Hòa. Sur le chemin, nous avons visité l’espace touristique Quảng Đức situé au début de la route qui nous permet de faire la déviation vers le récif de Đá Đĩa. Outre la résidence du gouverneur, cet espace comporte les vieilles maisons Quảng Đức et Ô Loan. C’est un type de maison traditionnelle bâtie au raz du sol par les gens d’ici. C’est ici que nous trouvons des reliques, des antiquités et des poteries bien conservées témoignant de la prospérité de la région. Le billet d’entrée coûte 60.000 piastres. Par contre on a le droit d’avoir une tasse de thé et un petit gâteau, une spécialité de la la région Phú Yên dans le jardin. C’est un espace ancien plein de nostalgie d’une époque lointaine, un lieu si poétique et paisible qu’il nous a également laissé plus ou moins une impression remarquable.

 

Tình bạn bè (L’amitié)

Tình Bạn Bè

Version française

Không tựa  như tình yêu, tình bạn bè đòi hỏi ít nhất những đức tính được tìm thấy ở một người nào đó để  rồi mới khơi dậy được tình cảm. Một số nhà tư tưởng Hy Lạp như Epicure và Ciceron nhận thấy ở trong tình bạn phải có dấu hiệu của thành tích cá nhân. Những người khác như Platon cho rằng tình bạn bè giữ một vai trò trọng yếu trong việc hình thành và duy trì các thành quốc Hy Lạp.

Đây cũng là trường hợp của Việt Nam, nơi mà tình bạn bè  không chỉ là xi măng xã hội mà còn là một trong năm mối quan hệ đặc ân mà được Nho giáo Việt Nam coi trọng trong việc duy trì  liên kết xã hội. Tình bạn không phải do ngẫu nhiên mà có bởi vì nó thường được gắn bó với môi trường xã hội mà chúng ta đang sống. Nhưng đây ở Việt Nam thì tình bạn bè luôn luôn được  gắn bó mật thiết với tầm nhìn của nho giáo. Đúng hơn, nó được sinh ra từ lòng quý trọng.

Không bao giờ có hàng rào giai cấp trong tình bạn cả.  Chúng ta  có thể kết bạn với ai đó nếu chúng ta tìm thấy ở họ có  những đức tính của một người hào hiệp. Người này không nhất thiết thuộc về tầng lớp quý tộc hay giai cấp tư sản. Tình bạn có được  sức sống và sức mạnh của nó từ những dữ kiện lịch sử mà được tiếp tục trích dẫn và kể lại cho đến nay  ở đất nước chúng ta.

Đây là trường hợp của mục phu  Ðào Duy Từ với chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Là tác giả cuốn « Ngọa Long Cương mục », học giả Ðào Duy Từ, chán với cuộc sống thế gian và thất bại  trong các kỳ thi quan lại vì nạn tham ô của các giám khảo, nên quyết định ẩn dật  ở Qui Nhơn thuộc miền trung Việt Nam. Để cung ứng cho nhu cầu của mình, ông đồng ý thành người chăn trâu. Sự hiện diện của ông đã được báo cáo cho chúa Nguyễn Phúc Nguyên.  Chúa nầy liền triệu tập ông ta vào dinh của mình. Thấy lãnh chúa tiếp mình với y phục buồng ngủ và mang đôi  màu xanh, ông liền dừng lại trước cổng. Ông mới nói với một người thân cận của chúa mà cũng là cha vợ của ông  là Trần Ðức Hòa như sau: Chúa thượng  xem thường tài năng của tôi. Bởi vậy chúa thượng mới rước tôi như một người tầm thường với y phục như vậy.

Được mách lại với sự nhận xét này, chúa  Nguyễn mới trở vào trong phòng, mặc lễ phục đàng hoàng và ra sân để chào đón Ðào Duy Từ. Nhìn thấy chủ nhân tiếp đón mình lần này với vẻ trang trọng, Ðào Duy Từ chịu quỳ xuống tạ tội. Bằng nghĩa cử cao cả này, chúa Nguyễn đã chứng tỏ cho Ðào Duy Từ  thấy ngài  không chỉ là người đáp ứng được  kỳ vọng  của ông mà còn là một lãnh chúa khôn ngoan và khoan dung.  Đào Duy Từ  không lâu trở thành cố vấn và tri kỷ của chúa Nguyễn.  Ông là tác giả của một số mưu kế chống lại chúa Trịnh, trong đó nổi tiếng nhất vẫn là mưu kế dựa trên cách chơi chữ được trình bày dưới dạng các câu thơ viết bằng chữ « nôm » trên một thẻ bài đặt trong khay hai tầng để  tuyên bố  sự  từ chối phục tùng của chúa Nguyễn với  chúa Trịnh Tác.

Mâu nhi vô dịch
Mịch phi kiến tích
Ái lạc tâm trường
Lực lai tương địch.

Cả triều đình không ai giải và hiểu nổi các câu thơ đành nhờ đến sĩ phu Phùng Khắc Khoan giải thích giùm. Chữ mâu (矛) viết không có dấu phết thì thành chữ dư (予). Chữ mịch (覔) mà bỏ chữ kiến (見) là chữ bất (不).  Chữ ái (愛) nếu viết thiếu chữ tâm (心) thì ra chữ thụ (受). Chữ lực (力) để cạnh chữ lai (來)  sẽ thành chữ sắc (勑). Như vậy  bốn câu trên là: dư bất thụ sắc (ta không nhận sắc) cùng với  tờ sắc phong  mà Trịnh Tác ban cho chúa Nguyễn.

Ông là người đưa ra các kế hoạch xây dựng các đồn lũy  Trường Dục và Ðồng Hới để đối mặt với các cuộc xâm lược của nhà Trịnh mà ông cũng là một trong những người chủ trương chinh phục và thôn tính các lãnh thổ ở  phía Nam (Chiêm Thành, Nam Kỳ) với các chiến sĩ nông dân. Nhờ Ðào Duy Từ, lãnh thổ của các chúa Nguyễn càng ngày càng bành trướng thêm. Nhờ tài trí và mưu kế, Đào Duy Từ đã đem lại cho chúa Nguyễn những gì mà Khổng Minh Gia Cát Lượng đã làm với Lưu Bị (Lưu Hoài Đức) vào thời Tam Quốc ở Trung Quốc.

Tình bạn cũng đồng nghĩa với lòng trung thành. Đây là trường hợp của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cùng hai bộ hạ của ông  Dã Tượng và Yết Kiêu. Yết Kiêu có tài  bơi lội xuất sắc mà Hưng Đạo Vương đã giao cho nhiệm vụ giữ  thuyền ở  bên bờ  sông trong cuộc dọ thám  chớp nhoáng ở  vùng đất của quân Mông Cổ. Bị  phát hiện và truy đuổi, Hưng Ðạo Vương đang do dự định đi  về hướng khác thì được  Dã Tượng nhắc nhở ông rằng Yết Kiêu tiếp tục đợi vẫn chờ ông ở bờ sông. Nhờ lòng tin cậy và tính hào hiệp mà Hưng Ðạo vương  luôn có  đối với các thuộc hạ trung thành nên ông đã được cứu trong gang tấc. Tình bạn này tiếp tục được tôn vinh cho đến ngày nay vì chúng ta không chỉ tìm thấy trên bàn thờ Hưng Ðạo Vương, vị anh hùng, mà còn có hai người hầu trung thành của ông.

Tình bạn bè bắt buộc phải có nghĩa vụ mà đôi khi có thể dẫn đến sự hy sinh. Đây là trường hợp của tướng Võ Tánh với chúa Nguyễn Ánh, vị hoàng đế tương lai Gia Long.

Cảm phục dũng cảm và mưu trí của Võ Tánh, chàng thanh niên Nguyễn Ánh đã không tiếc công sức để  kết bạn với ông mà còn  gả người em gái nhỏ của ngài cho ông tức là công chúa Ngọc Du. Vài năm sau Võ Tánh trở thành một trong những danh tướng tài ba của Nguyễn Ánh. Để chống lại quân Tây Sơn, ông được giao nhiệm vụ bảo vệ thành Qui Nhơn. Điều này làm nhà Tây Sơn phải huy động  nhiều tháng một lực lượng quan trọng. Mặc dù có lời năn nỉ của  Gia Long và những người thân cận nên từ bỏ Qui Nhơn, ông chọn lựa  tự sát thay vì đầu hàng khi thành phố thất thủ.

Đây cũng là một cái bẫy mà ông ta muốn giăng ra cho kẻ thù của mình nhưng cũng là một nghĩa vụ mà ông ta muốn đền đáp, như một dấu hiệu của tình bạn, lòng trung thành và lòng biết ơn, đối với Nguyễn Ánh bằng cách giúp Nguyễn Ánh  chiếm Huế rất dễ dàng hơn vì quân Tây Sơn rất ít ỏi. Học giả Ðặng Ðức Siêu, thượng thư  bộ lễ, được Nguyễn Ánh ủy nhiệm soạn bài tang lễ vài năm sau để tưởng nhớ Võ Tánh, tình bạn và lòng trung thành của ông.

Tình bạn bè là  nguyên nhân của một số truyền thuyết Việt Nam, trong đó nổi tiếng nhất vẫn là Lưu Bình Dương Lễ. Đây là câu chuyện kể lại một tình bạn chân thật  của hai chàng trai Lưu Bình và Dương Lễ. Lưu Bình xuất thân từ một gia đình giàu có trong khi Dương Lễ sống khổ cực. Lúc cha mẹ họ mất, Lưu Bình đón  rước Dương Lễ về nhà để  cùng chung  sống. Họ cùng  học giống nhau và có cùng sở thích. Nhận thức được hoàn cảnh bấp bênh của mình, Dương Lễ rất chăm học và cần cù. Mặt khác, Lưu Bình, ỷ lại  giàu có  mà lo ăn chơi trác tán. Đến ngày thi cử, Dương Lễ được  đổ  làm quan ở  vùng xa. Còn Lưu Bình thì  thất bại trong cuộc thi. Vì cuộc sống sa đọa nên mấy năm sau, Lưu Bình bị sạt nghiệp và chạy đến cầu cứu  ở người bạn là Dương Lễ.  Ngạc nhiên  vô  cùng, Lưu Bình  không được Dương Lễ tiếp đón nồng hậu mà còn cho thị vệ đuổi đi.

Bị đau đớn với sỉ nhục này, Lưu Bình  tự hứa với bản thân mà không thực  tin tưởng chi cho mấy rằng mình sẽ thành công trong cuộc thi  tới để mà rửa hận.Trên đường trở về quê, anh ta  ghé vào một quán trọ do Châu Long, một cô phụ nữ trẻ độc thân điều hành. Được  cô  nầy bày tỏ ra sự  thông cảm, Lưu Bình  tự  để  mình bị thuyết phục bởi sự động viên và quan tâm của cô  khiến anh ta  bắt đầu chuẩn bị học lại nghiêm túc cho cuộc thi  tới. Nhờ đó anh ta  thành công trúng cử  trong kỳ thi tới. Anh ta vội vả  trở  về phòng trọ báo tin vui  này cho Châu Long.

Anh quá  thất vọng vì nhà trọ đóng cửa và Châu Long đã biến mất. Anh ta đã nhanh chóng tìm bạn của mình là Dương Lễ để dạy cho anh nầy một bài học. Anh rất ngạc nhiên trước sự đón tiếp chu đáo và thân thiện của Dương Lễ. Anh ta định trách móc Dương Lễ về hạnh kiểm và thói đạo đức giả của anh nầy. Nhưng anh bất ngờ trước sự xuất hiện đột ngột của Châu Long. Sau đó anh mới được biết Châu Long là vợ thứ hai của Dương Lễ và Dương Lễ đã giao cho Châu Long nhiệm vụ giúp đỡ anh về vật chất và động viên anh trên con đường học vấn để mà thành công. Anh hiểu rằng đây chỉ là một kế hoạch do người bạn của mình nghĩ ra để giúp anh vượt qua mọi khó khăn. Vừa xúc động, anh ta hòa thuận lại với  Dương Lễ và  mạnh mẽ ôm lấy hắn.

Tình bạn hiếm khi bị cắt đứt ở vùng đất huyền thoại này. Chúng ta thường coi trọng tình bạn nầy cho đến cuối cuộc đời. Đây là trường hợp của  vua Gia Long với  Cha Cả Pigneau de Béhaine hoặc trường hợp của Hồ Chí Minh với ủy viên Pháp Jean Sainteny.

Mặc dù vua Gia Long  không có thiện cảm với các nhà truyền giáo nước ngoài, nhưng ngài vẫn thích chấp nhận sự hiện diện của họ trong thời kỳ trị vì của mình. Điều này phần lớn là do sự biết ơn  và lòng trung thành của ngài đối với người đàn ông đã liều mình che giấu và giúp đỡ ngài  giành lại ngai vàng cùng với những người lính đánh thuê người Pháp. Còn cụ Hồ Chí Minh, mặc dù có sự khác biệt về chính trị với Jean Sainteny, nhưng ông luôn dành sự quan tâm sâu sắc cho vị ủy viên này vì trong thâm tâm của họ, họ vẫn tôn trọng lẫn nhau. Mỗi người đều biết rằng dù muốn dù không khi ở phe đối lập  trong cuộc đối đầu, mỗi bên ai cũng cố gắng bảo vệ đất nước của mình bằng mọi giá. Các cuộc thương lượng kéo dài càng kéo dài thì lòng kính trọng giữa hai người càng ngày càng tăng lên. 

Sự  đối mặt không ngăn trở  được sự cảm tình và sự ngưỡng mộ lẫn nhau. Ánh  mắt của họ không ngớt  nhìn nhau trên chiếc thủy phi cơ đưa họ đến điểm hẹn ở Vịnh Hạ Long với đô đốc D’Argenlieu vào ngày 24 tháng 3 năm 1946. Tình bạn này đã minh chứng cho sự hiện diện và cảm xúc tột cùng của ủy viên Jean Sainteny trong ngày tang lễ của  cụ Hồ Chí Minh, vào ngày 9 tháng 9 năm 1969 tại Hànội mà Jean Sainteny đã tiết lộ sau này trong cuốn sách có tựa đề  « Face à Hồ Chí Minh », Seghers, 1970.

Tình bạn bè không chỉ là lối sống khôn khéo  mà nó còn phản ánh lối suy nghĩ của người  dân Việt đã được hun đúc bởi tầm nhìn của nho giáo  qua bao năm tháng.

L’amitié

A la différence de l’amour, l’amitié exige néanmoins des qualités trouvées en quelqu’un pour pouvoir faire naître les sentiments. Certains penseurs grecs comme Epicure et Cicéron voient dans l’amitié un signe de la réalisation personnelle. D’autres comme Platon accordent à cette amitié un rôle déterminant dans la formation et le maintien des cités.

C’est aussi le cas du Vietnam où l’amitié n’est pas non seulement un    ciment social mais aussi l’une des cinq relations privilégiées à laquelle la société confucéenne vietnamienne accorde une grande importance dans le maintien de la cohésion sociale. L’amitié ne naît pas par hasard car elle est liée d’une manière générale à l’environnement ou le milieu social où on vit. Mais ce n’est pas le cas du Vietnam où l’amitié est toujours en relation étroite avec la vision confucéenne. Elle est née plutôt de l’estime.

Il n’y a jamais la barrière sociale dans cette amitié. On peut se lier d’amitié avec quelqu’un si on trouve en ce dernier les qualités d’un gentilhomme. Celui-ci n’appartient pas nécessairement à l’aristocratie ou à la bourgeoisie. L’amitié puise sa vitalité et sa force dans les faits historiques qui continuent à être cités et relatés jusqu’à aujourd’hui  dans notre pays.

C’est le cas du bouvier Ðào Duy Từ avec le seigneur Nguyễn Phúc Nguyên. Auteur de la « Cime du Dragon couché » (Ngọa Long Cương), le lettré Ðào Duy Từ, lassé de la vie mondaine et de l’échec qu’il avait eu aux concours mandarinaux à cause de la corruption des examinateurs, préféra de se retirer à Qui Nhơn dans le Centre du Vietnam. Pour pourvoir à ses besoins, il accepta de devenir le gardien de buffles. Sa présence fut rapportée auprès du seigneur Nguyễn Phúc Nguyên. Celui-ci ne tarda pas à le convoquer dans sa résidence. En voyant le seigneur le recevoir avec une robe de chambre et des semelles de couleur verte, il s’arrêta devant le portail. Il dit à l’un des proches du seigneur qui n’était autre que  son beau-père Trần Ðức Hòa:

Le seigneur sous-estime mon talent. C’est pour cela je suis reçu comme une personne ordinaire avec cette tenue.

Saisi par cette remarque, le seigneur retourna dans sa chambre, s’habilla avec un costume d’apparat et se présenta dans la cour pour accueillir Ðào Duy Từ. En voyant le seigneur le recevoir cette fois avec solennité, Ðào Duy Từ accepta de s’agenouiller et de lui présenter ses excuses. Par ce geste magnanime, le seigneur montra à Ðào Duy Từ qu’il était non seulement à la hauteur de son attente mais aussi un homme de valeur, de sagesse et de tolérance. Ðào Duy Từ ne tardait pas à devenir son conseiller et son confident. Il était l’auteur de plusieurs stratagèmes contre les Trịnh dont le plus connu restait le stratagème s’appuyant sur un jeu de mots présentés sous forme de vers écrits en « nôm » sur une carte rangée dans un plateau à deux étages pour signifier au seigneur Trịnh Tác le refus de soumission du seigneur Nguyễn.

Mâu nhi vô dịch
Mịch phi kiến tích
Ái lạc tâm trường
Lực lai tương địch.

Toute la cour n’arrivait  pas à donner des explications  aux quatre vers trouvés sur cette carte placée  dans ce plateau et était obligée de recourir au talent du lettré de ce temps Phùng Khắc Khoan.  Le mot (矛)  sans virgule devenait le mot  dư (予). Le mot  mịch (覔) dépourvu du mot kiến (見) était le mot bất (不). Le mot  ái (愛) écrit sans le mot  tâm (心) n’était autre que le mot  thụ (受). Le mot  lực (力) trouvé côte à côte avec le mot   (來) devenait ainsi  le mot  sắc (勑). On pouvait donner à ces 4 vers l’interprétation suivante: dư bất thụ sắc (Je refuse la nomination royale).

Il était à l’origine des plans des fortifications de Trường Dục et Ðồng Hới pour faire face aux invasions des Trịnh mais il était aussi l’un des acteurs préconisant la conquête et l’annexion des territoires du Sud ( Champa, Cochinchine ) par l’intermédiaire des paysans soldats. Grâce à Ðào Duy Từ, le territoire des seigneurs Nguyễn s’agrandit ainsi. Par son ingéniosité et par ses stratagèmes, Ðào Duy Từ a su apporter aux seigneurs Nguyễn ce qu’avait fait le conseiller Zhuge Liang (Khổng Minh Gia Các Lượng ) à Liu Bei (Lưu Hoài Ðức) à l’époque des Trois Royaumes en Chine.

L’amitié est aussi synonyme de fidélité. C’est le cas du général Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn avec ses serviteurs Dã Tượng et Yết Kiêu.  Ce dernier était un excellent nageur à qui Hưng Ðạo Vương avait confié la tâche de garder l’embarcation au bord d’un fleuve lors d’une excursion éclair sur le terrain des Mongols. Découvert et poursuivi par ces derniers, Hưng Ðạo Vương, hésitant et étant sur le point de prendre une autre direction, fut rappelé par son serviteur Dã Tượng que Yết Kiêu continuait à l’attendre au bord du fleuve. Grâce à la confiance et la magnanimité que Hưng Ðạo avait su entretenir toujours envers ses subordonnées et à leur fidélité infaillible, il fut sauvé de justesse. Cette amitié continue à être honorée jusqu’à aujourd’hui car on trouve non seulement sur l’autel dédié à Hưng Ðạo Vương, le héros lui-même mais aussi ses deux fidèles serviteurs.

L’amitié impose des devoirs qui peuvent même parfois conduire jusqu’au sacrifice. C’est le cas du général Võ Tánh avec le jeune seigneur Nguyễn Ánh, le futur empereur Gia Long. Admirateur de la bravoure et de la témérité de Võ Tánh, le jeune Nguyễn Ánh ne tardait à se lier d’amitié avec lui et à lui accorder la main de sa petite soeur, la princesse Ngọc Du. Võ Tánh devint quelques années plus tard l’un des généraux brillants de Nguyễn Ánh. Pour contrer l’armée des Tây Sơn ( ou Paysans de l’Ouest ) , il fut chargé de protéger la ville Qui Nhơn. Cela permit de mobiliser durant des mois entiers le gros des forces de Tây Sơn. Malgré les supplications de Gia Long et de ses proches d’abandonner Qui Nhơn, il préféra de se suicider au lieu se rendre lors de la chute de la ville.

C’était un piège qu’il voulait tendre à ses ennemis mais aussi un service qu’il rendait, en signe d’amitié, de fidélité et de reconnaissance, à Nguyễn Ánh en permettant à ce dernier de prendre Huế plus facilement car celle-ci était dégarnie entièrement. Le lettré Ðặng Ðức  Siêu, ministre des rites, fut chargé par Nguyễn Ánh de composer quelques années plus tard une oraison funèbre en l’honneur de Võ  Tánh, de son amitié et de sa fidélité.

L’amitié est à l’origine de plusieurs légendes vietnamiennes dont la plus célèbre reste Lưu Bĩnh Dương Lễ. C’est l’histoire d’une vraie amitié, celle de deux garçons Lưu Bình et Dương Lễ. Lưu Bình était issu d’une famille riche tandis que Dương Lễ vivait dans la misère. A la mort de leurs parents respectifs, Lưu Bình accueillit Dương Lễ dans sa maison et le fit profiter de son aisance. Ils faisaient les mêmes études et partageaient les mêmes loisirs. Conscient de sa situation précaire, Dương Lễ était studieux et laborieux. Par contre, Lưu Bình, fort de son héritage, s’adonnait aux plaisirs et aux jeux. Le jour des concours nationaux, Dương Lễ fut reçu au poste du gouverneur dans une contrée lointaine. De son côté Lưu Bình échoua. A cause de sa vie de débauche, il fut ruiné quelques années plus tard et alla chercher de l’aide auprès de son ami Dương Lễ. A sa grande surprise, il ne fut pas reçu par Dương Lễ et fut chassé par les gardes de ce dernier.

Meurtri par cette humiliation, il se promit sans trop y croire de réussir l’année prochaine aux concours afin de faire sa revanche.

Sur le chemin de retour dans son village natal, il s’arrêta dans une auberge tenue par Châu Long, une jeune femme célibataire. Comme celle-ci lui témoignait de la sympathie, Lưu Bĩnh finit se laisser convaincre par ses encouragements et ses attentions et se remit a préparer sérieusement son concours. Il réussît brillamment à la session suivante. Il se dépêcha de retourner à l’auberge pour annoncer cette nouvelle à Châu Long.

Il fut déçu car l’auberge était fermée et Châu Long avait disparu. Il ne tardait pas à aller chercher son ami Dương Lễ pour lui infliger une leçon. Il fut surpris par son accueil en grande pompe et son amabilité. Il fut sur le point de reprocher à Dương Lễ sa conduite et son hypocrisie. Mais il fut étonné par l’apparition subite de Châu Long. Il apprit par la suite que Châu Long était la seconde femme de Dương Lễ et que celui-ci lui donnait pour mission de l’aider matériellement et de l’encourager sur le chemin de la réussite. Il comprit qu’il s’agissait d’un plan élaboré par son ami pour l’aider à surmonter ses difficultés. Emu, il se réconcilia avec Dương Lễ et l’embrassa fortement.
L’amitié se rompt rarement sur cette terre des légendes. On préfère de l’honorer jusqu’à la fin de la vie. C’est le cas de l’empereur Gia Long avec Monseigneur Pigneau de Béhaine ou celui de Hồ Chí  Minh avec le commissaire Jean Sainteny.

Le premier, malgré son antipathie envers les missionnaires étrangers, préférait tolérer leur présence durant son règne. Cela a été dû en grande partie à sa reconnaissance et sa fidélité à la mémoire de l’homme qui avait risqué sa vie pour le cacher et le nourrir et qui l’avait aidé à reconquérir le trône avec ses mercenaires français.

Quant au second, malgré sa divergence politique avec Jean Sainteny, il avait toujours un égard profond envers ce commissaire car au fond d’eux-mêmes, ils se respectaient mutuellement. Chacun savait que quand on était bon gré mal gré dans la partie adverse et dans l’affrontement, on essayait  de défendre  chacun à tout prix sa patrie. Plus les discussions traînaient en longueur, plus de l’estime naissait entre ces deux hommes. Le face à face n’empêchait pas la  sympathie et leur admiration réciproque. Leur regard se croisait inlassablement dans l’hydravion qui les conduisit le 24 Mars 1946 au rendez-vous de la baie d’Along avec l’amiral D’Argenlieu. Cette amitié témoignait de la présence ultime et de l’émotion de Jean Sainteny lors des funérailles de Hồ Chí Minh, le 9 Septembre 1969 à Hànội, ce qu’a révélé plus tard Jean Sainteny dans son livre « Face à Hồ Chí Minh », Seghers, 1970.

L’amitié n’est pas seulement sur cette terre des légendes une voie de sagesse mais elle reflète aussi le mode de pensée du peuple vietnamien qui a été  façonné au fil des années par la vision confucéenne.

 

 

 

 

 

 

 

Groupe littéraire indépendant (Tự Lực Văn Đoàn)

Tự Lực văn đoàn

Version française

Rất đáng tiếc không thấy tên của Nhất Linh và Khái Hưng trong các chương trình dạy học ngày nay hoặc trong các tuyển tập được xuất bản gần đây bằng tiếng ngoại quốc  ở Việt Nam. Tuy nhiên, họ là hai tiểu thuyết gia xuất sắc nhất của Việt Nam vào buổi bình minh của thế kỷ 20. Người ta  vẫn tiếp tục tìm kiếm và mua lại những bản in hiếm hoi được  xuất bản ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975.

Mặc dù các chủ đề họ  chọn có  chiều hướng về tình yêu, nỗi dày vò trong tâm trí  và các thảm kịch giai cấp tư sản địa chủ  ở  thời kỳ Pháp thuộc, họ vẫn tiếp tục nhận được sự ngưỡng mộ đồng thuận của giới trẻ Việt ngày nay, đặc biệt là giới trẻ Việt đang sinh sống ở nước ngoài vì các tác phẩm của họ không chỉ thừa nhận một nền văn hóa phương Tây ít nhiều mà còn có mang tính  lãng mạn thuần túy của người  dân  Việt. Họ đã thành công mang lại một lối viết  sáng tạo cho các tác phẩm của mình mà còn biết sử dụng được các từ vựng đơn giản loại trừ được  tất cả các từ Hán-Việt mà giới trẻ Việt coi là những từ khó hiểu và đề cập đến các chủ đề có khả  năng nhận được sự ủng hộ của giới trẻ: tình yêu thương mang cả sự hy sinh, tình yêu không thể, nỗi u sầu trong tâm hồn vân vân … với cái nhìn khó  xử  giữa  cảm xúc và bổn phận của nhà văn hào Pháp Corneille hay  lãng mạn  theo cách của Alfred Musset. Hồn Bướm Mơ Tiên, Nữa Chừng Xuân, Ðoạn Tuyệt, Anh phải sống  vân vân …vẫn  tiếp tục là những cuốn sách nổi tiếng nhất được giới trẻ Việt Nam yêu thích hiện nay. Cũng không có gì phải ngạc nhiên khi thấy sự hy sinh mà được  Khái Hưng đề cập đến cách đây đã  có hơn  50 năm trong tác phẩm của ông, được nhà văn tài ba Nguyễn Huy Thiệp nhắc lại trong ở trong tiểu thuyết có  tựa  đề  « Chảy đi sông ơi » mặc dù bối cảnh chính trị hoàn toàn khác hẳn.

Chúng ta nhận thấy ở  trong các tác phẩm của họ không chỉ có tính hiện đại ở mức độ biết sử dụng  các mệnh đề, các trạng từ, các chỉ  thị  thời gian vốn không có ở trong văn xuôi Việt Nam từ trước đến nay mà còn biết sử dụng luôn cả các đại từ nhân xưng. Chữ  “tôi” được dùng  cũng như các từ “anh”, “em”, “mình”, “cậu” mà trước đây không được sử dụng trong câu nói. Chúng ta cũng ghi nhận ở  trong cấu trúc của các câu nói của họ có sự tiết kiệm về phương tiện, một cách rõ ràng đáng kinh ngạc và một hiệu quả rất lớn lao.

Xuất thân từ đô thị và được thấm nhuần nền văn hóa Pháp từ thuở nhỏ, cũng không có  gì phải bỡ ngỡ khi nhận thấy họ có  được  nguồn cảm hứng ở  trong các tác phẩm từ các mô hình của các văn hào Pháp như  Musset, Lamartine, Daudet vân vân…  nhất là các nhà văn hào Pháp này được liệt kê  ở  trong chương trình giảng dạy tại trường Albert Sarraut của Pháp ở Hànội, nơi mà Khái Hưng được đào tạo trong thời  kỳ thuộc địa. Ông lấy bằng cử nhân năm 1927 và giảng dạy tại trường  tư  thục Thăng Long trong khi đó Nhất Linh trở về Việt Nam vào năm 1930 sau khi hoàn thành bốn năm nghiên cứu khoa học tại Pháp.

Cuộc gặp gỡ của Nhất Linh  với Khái Hưng tại trường tư thục Thăng Long đã khiến họ trở thành cặp đôi văn học nổi tiếng và  gắn bó với nhau từ đấy. Họ cùng nhau thành lập nhóm văn học  Tự Lực Văn Ðoàn (hay Nhóm Văn học Độc lập) vào năm 1933 cùng nhà văn Hoàng Đạo, người em trai của Nhất Linh.

Khái-Hưng, tuy lớn  hơn Nhất-Linh chín tuổi, tự coi mình là « người thứ hai » của cặp đôi này và tự lấy bút danh là « Nhị Linh » vì Nhất-Linh đã là tác giả của hai cuốn tiểu thuyết vào năm 1926 và 1927. Họ đã có công mang lại cho văn học Việt Nam sự trong sáng,  tính ngắn gọn và hiện đại mà còn biết cách mang lại cho nền văn học có được  một  tâm  hồn lãng mạn của người dân Việt.

 

Không giống như các tiểu thuyết gia khác cùng thời (Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố chẳng hạn), Khái Hưng và Nhất Linh không có cái nhìn sâu sắc về bất bình đẳng xã hội và  phong tục tập quán nông thôn. Họ không biết lơi dụng đấy để đấu tranh và tố cáo những bất bình đẳng này. Mặt khác, họ cố gắng miêu tả một cách khéo léo và chính xác tầng lớp xã hội bị nghèo khổ nhất mà cũng không có nghĩa vụ cần phải bảo vệ  tầng lớp nầy  một cách ầm ĩ.

Đây có phải là lý do tại sao họ bị chỉ trích vì thiếu tinh thần chiến đấu và không hiện thực, hững hờ  trong cách diễn tả các hiện thực của xã hội đô thị và được  thấm nhuần văn hóa phương Tây không?. Có thể Khái Hưng lấy một đoạn văn  của « Les Contes de Musset » làm gương mẫu vì nhân vật chính của truyện ngắn « Anh Phải Sống », người vợ trẻ của anh thợ hồ Việt tên Thức,  tự  để mình  chìm đắm giữa dòng sông  cũng như Cécile (hay bà đầm des Arcis) ở  trong truyện “Pierre et Camille” của Alfred de Musset vào năm 1844. Khái-Hưng có công biết cách tạo cho nữ anh hùng trong câu chuyện tính cao thượng hay thường  được thấy  trong truyền thống Việt Nam.

Chúng ta không thể  đặt nghi vấn về lòng yêu nước của họ, sự  tham gia chính trị của họ đối với các phong trào quốc gia Việt Nam. Bởi  vì họ có định hướng chính trị dân tộc chủ nghĩa và sống cho lý tưởng đơn giản, cả hai  đều bỏ mạng cũng như các nhân vật  được miêu tả  ở trong truyện “Anh phải sống” của Khải Hưng và trong “ Bóng người  trong sương mù” của Nhất Linh.

Khái Hưng mất  vào năm 1947 trong hoàn cảnh bí ẩn gần bến đò Cửa Gà ở huyện Xuân Trường (tỉnh Nam Định) trong khi Nhất Linh thất vọng vì bị hiểu lầm, đã đầu độc tự tử vào ngày 7 tháng 7 năm 1963 tại Sài Gòn (hoặc Thành phố Hồ Chí Minh)

Cuộc sống của họ, cả hai đều cố gắng có đuợc giống như những nhân vật  mà họ mô tả trong truyện với  tính kiên cường mẫu mực.  Di sản văn học mà họ để lại cho dân tộc Việt Nam là vô giá. Tóm lại, họ không chỉ là những người mở đường cho nền văn học hiện đại Việt Nam mà còn là những nhà tiểu thuyết lãng mạn nhất mà Việt Nam được biết đến.

Các tiểu thuyết nổi tiếng 

Hồn Bướm Mơ Tiên (1933)
Nữa Chừng Xuân (1934)
Ðoạn Tuyệt (1935)
Trống Mái (1936)
Lạnh Lùng (1937)
Tiêu Sơn Tráng sĩ (1937)
Thoát Ly (1938)
Tắt đèn (1939)
Bướm Trắng (1941)

Version française

Il est regrettable de ne pas voir figurer les noms de Nhất Linh et Khái Hưng dans les programmes d’enseignement d’aujourd’hui ou dans les anthologies publiées récemment en langues étrangères au Vietnam. Pourtant, ce sont les deux meilleurs romanciers vietnamiens à l’aube du XXème siècle.

On continue à chercher et à acheter les rares rééditions parues au Sud-Vietnam d’avant 1975. Malgré leurs thèmes choisis portant d’une manière générale sur l’amour, sur les contorsions sentimentales, sur les drames de la bourgeoisie latifundiaire etc…  à l’époque coloniale, ils continuent à bénéficier pourtant de l’admiration unanime de la jeunesse vietnamienne d’aujourd’hui, en particulier de celle des jeunes Vietnamiens vivant à l’étranger car leurs écrits sont porteurs non seulement d’une culture plus ou moins occidentalisée mais aussi celui d’un romantisme purement vietnamien. Ils ont réussi à apporter à leurs œuvres un style novateur, à utiliser un vocabulaire simple débarrassé de tous les mots sino-vietnamiens perçus par les jeunes vietnamiens comme des mots savants, à aborder des thèmes susceptibles d’avoir l’adhésion de la jeunesse: l’amour-sacrifice, l’amour impossible, le vague à l’âme etc… avec un regard à la fois cornélien et romantique à la manière d’Alfred Musset. « Hồn Bướm Mơ Tiên » (ou Âme de papillon dans un rêve d’immortalité », « Nữa Chừng Xuân » (ou A mi-printemps)» « Ðoạn Tuyệt (ou La Rupture) », « Anh phải sống (ou Tu Dois Vivre) » etc … continuent à être les best-sellers préférés par la jeunesse vietnamienne d’aujourd’hui. Le thème du sacrifice abordé par Khái Hưng, il y a eu plus d’une cinquantaine d’années, dans son œuvre, est repris récemment par l’écrivain talentueux « Nguyễn Huy Thiệp » dans son roman  intitulé  «Coule, coule ô fleuve» (Chảy đi sông ơi) malgré un contexte politique tout à fait différent.

 

 On trouve non seulement dans leurs écrits la modernité au niveau d’emploi des propositions, des adverbes et des indicateurs de temps qui sont absents jusqu’alors dans la prose vietnamienne mais aussi au niveau d’emploi des pronoms personnels.  Le « moi » fait son entrée ainsi que les mots « anh », « em », « mình », « cậu » qui, auparavant n’étaient pas employés dans la phrase. On note aussi dans la construction de leurs phrases une grande économie des moyens, une clarté inouïe et une grande efficacité.

Issus du milieu urbain et  imprégnés dès leur plus jeune âge de la culture française, il n’est pas étonnant de trouver qu’ils s’inspirent dans leurs œuvres des modèles de Musset, Lamartine, Daudet etc… lorsqu’on sait que les œuvres de ces écrivains français faisaient partie du programme d’études au lycée français Albert Sarraut  (Hà-Nội) où Khái Hưng fit ses études à l’époque coloniale. Il fut reçu bachelier en 1927 et enseigna au collège Thăng Long tandis que Nhất Linh rentra au Viêt-Nam en 1930 après avoir suivi ses quatre années d’études scientifiques en France.

Sa rencontre avec Khái Hưng au collège Thăng Long fit d’eux du jour au lendemain un couple littéraire célèbre et inséparable depuis lors. Ils fondèrent ensemble le club Tự Lực Văn Ðoàn (ou Groupe Littéraire indépendant) en 1933 avec l’écrivain Hoàng Đạo, le petit-frère de Nhất Linh.

Plus âgé que Nhất-Linh de neuf ans, Khái-Hưng se considérait pourtant comme le « second » de ce couple et se donnait comme pseudonyme « Nhị Linh » car Nhất-Linh était déjà l’auteur de deux romans en 1926 et 1927. Ils ont eu le mérite d’apporter à la littérature vietnamienne la clarté, la concision, la modernité et de savoir donner surtout à cette dernière l’âme du romantisme vietnamien.

Contrairement à d’autres romanciers de leur époque (Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố par exemple), ils n’avaient pas un regard aussi aigu sur les inégalités sociales, sur les mœurs et les coutumes rurales. Ils n’avaient pas su s’en servir pour combattre et dénoncer ces inégalités. Par contre, ils tentaient de dépeindre avec beaucoup de finesse et de justesse la couche sociale la plus déshéritée sans être obligés de la défendre à cor et à cri.

Est-ce pour cela qu’on leur reproche le manque de combativité et de réalisme, la tiédeur dans leur manière de dépeindre les réalités de la société urbaine et l’imprégnation d’une culture à l’occidentale ?. Il est certain que l’épisode des Contes de Musset a pu servir de modèle à Khái Hưng car l’héroïne du roman intitulé  «Tu dois vivre (ou Anh phải sống)», la jeune femme du maçon vietnamien de nom  Thức, se laisse couler dans les flots comme Cécile (ou  Madame des Arcis) dans les Contes « Pierre et Camille » d’Alfred de Musset en 1844. Mais Khái Hưng a eu le mérite de savoir donner à son héroïne la noblesse et la grandeur trouvée fréquemment dans la tradition vietnamienne.

On ne peut pas remettre en doute non plus leur patriotisme et leur engagement politique auprès des mouvements nationalistes  vietnamiens. À cause de leurs orientations politiques nationalistes et surtout à cause de leur simple idéalisme, tous les deux ont péri comme leurs héroïnes respectives dans les romans  « Tu dois Vivre » de Khái Hưng et « Une silhouette dans la brume » de Nhất Linh.

Khái-Hưng fut décédé en 1947 dans les conditions mystérieuses près du débarcadère Cửa Gà dans le district de Xuân Trường (province Nam Ðịnh) tandis que Nhất Linh, déçu d’être incompris, s’empoisonna le 7 Juillet 1963 à Saïgon(ou Hồ Chí Minh Ville)

Leur vie, tous les deux ont essayé de la mener comme les héros décrits dans leurs romans  avec un stoïcisme exemplaire. Leur héritage littéraire qu’ils ont laissé au peuple vietnamien est inestimable. En un mot, ce sont non seulement les pionniers de la littérature moderne du Vietnam mais aussi les romanciers les plus romantiques que le Vietnam a connus.

 

Titres des romans connus

Hồn Bướm Mơ Tiên (1933)
Nữa Chừng Xuân (1934)
Ðoạn Tuyệt (1935)
Trống Mái (1936)
Lạnh Lùng (1937)
Tiêu Sơn Tráng sĩ (1937)
Thoát Ly (1938)
Tắt đèn (1939)
Bướm Trắng (1941)