Hội An sommaire (2ème partie)

hoian_summary1

English version

Version vietnamienne

Deuxième partie

Contrairement aux Japonais, les Chinois ont connu Hội An depuis longtemps, à l’époque où cette ville appartenait encore au Champa. Ils étaient venus en bateaux pour y chercher du sel, d’or et de cannelle mais ils avaient besoin de se ravitailler aussi en bois de chauffage et en eau potable car Hội An se trouvait  sur leur route maritime. Celle-ci était la route de la soie à travers l’océan. Les vaisseaux marchands arabes et chinois avaient l’habitude de fréquenter, vers le 8ème siècle après J.C., les côtes de la Chine et de l’Asie du Sud-Est. Avant de s’établir à Hội An, les commerçants chinois ont pénétré en nombre limité dans les bras du fleuve Thu Bồn pour construire leurs premiers quartiers soit au port Trà Nhiêu soit à l’embouchure Thanh Hà. Puis survint la menace fréquente de la piraterie japonaise sur les côtes chinoises allant de Shangai jusqu’à l’île de Hainan. En prenant prétexte de cette menace, les empereurs des Ming commencèrent à interdire toutes les communications maritimes excepté l’Asie du Sud Est à partir 1433. Cette politique fut connue en vietnamien sous le nom « Thốn Bản Bất Hạ Bản (Pratiquer la politique de la porte fermée). Malgré cela, les Chinois avaient besoin d’un certain nombre de marchandises de première nécessité. Cela les amenait à se procurer ces produits en Asie du Sud Est, en particulier à Hội An. Il fallait attendre deux événements importants dans la deuxième moitié du XVIIème siècle pour que la communauté chinoise devînt importante à Hội An. D’abord l’avènement des Qing (Mandchous) en Chine provoqua l’exode et l’installation des réfugiés chinois au Vietnam (y comprise la ville Hôi An). En 1679, de nombreuses embarcations des partisans de la dynastie déchue accostèrent Đã Nẵng et Hội An.

Face à l’ampleur de l’exode, le gouverneur Nguyển Phúc Tần, très expéditif en affaires, n’hésita pas à proposer aux partisans des Ming dirigés par les deux généraux Dương Ngạn Địch et Hoàng Tiến de s’installer dans la basse Cochinchine (Mỹ Tho, Thủy Chân Lạp) et de défricher des terres incultes, ce qui lui donna l’occasion d’agrandir son territoire et d’éviter un affrontement éventuel avec une armée décimée comprenant 50 embarcations et 3000 soldats. Puis il permit aux nouveaux réfugiés chinois de fonder Minh Hương (village des Ming) dans le but de remonter leur moral et de leur rappeler qu’ils étaient toujours les partisans émigrés des Ming.

Lire la suite (Tiếp theo)]

img_2658

Quartier français ( Rue Nguyễn Thái Học)

Version vietnamienne

Phần thứ nhì

Ngược lại với người Nhật, người Hoa biết Hội An từ lâu từ thời mà vùng nầy còn thuộc về vương quốc Chămpa. Họ đến đây để mua muối, vàng và quế và để dự trữ củi và nước vì Hội An nằm trên con đường biển của họ mà họ thường gọi là con đường tơ lụa trên biển Đông. Người Hoa và người Á Rập hay thường dùng con đường nầy để dọc theo các bờ biển của Trung Hoa và Đông Nam Á vào thế kỷ thứ 8 sau Công Nguyên. Trước khi ở Hội An, thường thấy một số ít thương gia Hoa định cư ở nhánh sông Thu Bổn hay ở bến cảng Trà Nhiêu hay là cửa sông Thanh Hà. Trước sự đe dọa thường xuyên của các cướp biển người Nhật dọc theo bờ biển Trung Hoa đến đảo Hải Nam, các vua chúa nhà Minh mới ra chỉ thị vào năm 1433 cấm các cuộc giao tiếp đường biển chỉ trừ Đông Nam Á. Đó là chính sách hải cấm với khẩu hiệu là “Thốn Bản Bất Hạ Hải” áp dụng với Nhật Bản. Tuy nhiên người Hoa vẫn cần dùng các thương phẩm cần thiết nên họ phải tìm ở Đông Nam Á nhất là ở Hội An.

Có hai biến cố quan trọng về sau, vào giữa thế kỷ 17 khiến cộng đồng người Hoa trở thành yếu tố chính ở Hội An. Đó là sự sụp đổ triều đại nhà Minh khiến có một cuộc di tản và định cư đáng kể của người Hoa ở Việtnam (luôn cả ở Hội An). Rồi vào năm 1679, có nhiều thuyền của thành phần theo nhà Minh đến Đà Nẵng và Hội An. Để tránh sự đối đầu có thể xảy ra với 3000 quân lính được trang bị vũ khí đầy đủ và 50 chiếc thuyền của các thành phần theo nhà Minh do hai tướng Dương Ngạn ĐịchHoàng Tiến chỉ huy và mở rộng thêm bờ cỏi Vietnam với những vùng đất hoang vu ở Chân Lạp (Cao Miên), chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần) rát khéo léo và khôn ngoan đề nghị họ nên định cư ở vùng Nam Bộ (Mỹ Tho, Thủy Chân Lạp) và cho phép họ thành lập các làng Minh Hương để tưởng nhớ triều đại Minh và giúp họ phấn khởi trong việc định cư.

[ Lire la suite (Tiếp theo)]

maison_hoian_hainan

English version

[Two part]

Unlike the Japanese, the Chinese have known Hội An for a long time, back when this city still belonged to Champa. They came by boat to seek salt, gold, and cinnamon but also needed to replenish supplies of firewood and drinking water because Hội An was on their maritime route. This was the silk route across the ocean. Arab and Chinese merchant ships were accustomed, around the 8th century AD, to frequent the coasts of China and Southeast Asia. Before settling in Hội An, Chinese merchants entered in limited numbers into the arms of the Thu Bồn River to build their first quarters either at Trà Nhiêu port or at the Thanh Hà estuary. Then came the frequent threat of Japanese piracy on the Chinese coasts from Shanghai to Hainan Island. Using this threat as a pretext, the Ming emperors began to prohibit all maritime communications except with Southeast Asia from 1433. This policy was known in Vietnamese as « Thốn Bản Bất Hạ Bản » (Practicing the closed-door policy). Despite this, the Chinese needed a certain number of essential goods. This led them to procure these products in Southeast Asia, particularly in Hội An.

It was necessary to wait for two important events in the second half of the 17th century for the Chinese community to become significant in Hội An. First, the rise of the Qing (Manchus) in China caused the exodus and settlement of Chinese refugees in Vietnam (including the city of Hội An). In 1679, many boats of supporters of the fallen dynasty landed in Đà Nẵng and Hội An.

Faced with the scale of the exodus, the governor Nguyễn Phúc Tần, very efficient in affairs, did not hesitate to propose to the Ming supporters led by the two generals Dương Ngạn Địch and Hoàng Tiến to settle in lower Cochinchina (Mỹ Tho, Thủy Chân Lạp) and to clear uncultivated lands, which gave him the opportunity to expand his territory and avoid a possible confrontation with a decimated army comprising 50 boats and 3,000 soldiers. Then he allowed the new Chinese refugees to found Minh Hương (village of the Ming) in order to raise their morale and remind them that they were still the émigré supporters of the Ming.

[ Reading more (Tiếp theo)]

Musée de la tunique (Bảo tàng áo dài)

 

Version française

ao_dai_vn-1

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bảo tàng áo dài

Muốn viếng thăm bảo tàng áo dài, cách thức hay nhất để di chuyển là xe bus số 88 ở gần chợ Bến Thành. Bãi đậu xe nó nằm ở công viên 23/9, không xa Macdonald ở đường Trân Hưng Đạo. Giá vé rât rẻ chỉ có 6000 đồng mà thôi và một ngày số chuyến có đến 240 chuyến, cứ 8 phút là có một chuyến. Sáng cư dân từ Long Phước ra chợ Bến Thành để buôn bán nên đông chớ chuyến đi ngược vào chợ Long Phước rất ít, nên đi rất thỏa mái. Phải trù liệu mất ít nhất một tiếng để đi, 2 tiếng để xem và 1 tiếng để trở về. Nói tóm là nửa ngày và phài xuống trạm Long Thuận, 2 trạm trước khi đên chợ Long Phước Xe bus có từ 5 giờ sáng đến 19h chiều. Xe bus chứa được 40 chổ ngồi. Còn đi taxi quá đắt và không đáng. Giá vé vào cửa là 100.000 đồng. Đây là một niềm mơ ước và một công trình độc đáo được gầy dựng bởi nhà thiết kế Sĩ Nham qua bao nhiêu năm sưu tầm về lịch sử áo dài. Đây cũng là một trong hai bảo tàng tư nhân ở thành phố Saigon.Galerie des photos

Pour rendre visite au  musée de la tunique, le moyen de transport le plus simple est le recours au bus portant le numéro 88. Il est habitué à stationner à côté du parc 23/9, proche du restaurant Macdonald situé sur l’avenue Trần Hưng Đạo. Le prix du billet est de 6000 piastres seulement. On trouve qu’il y a au moins 240 aller-retours dans la journée, un bus partant toutes les huit minutes. Il est très agréable de  le prendre et d’en descendre à la station Long Thuận (deux stations avant le terminus) car il y a moins de gens pour aller dans la direction inverse de Saigon au marché Long Phước le matin.  Le bus démarre de 5h du matin jusqu’au 19h du soir. Il faut compter une heure pour l’aller, 2 heures de visite et une heure pour le retour. Bref, il faut perdre une demi-journée pour cette visite qui en vaut la chandelle car c’est un coin vraiment zen et intéressant pour la culture. Le billet d’entrée est à peu près de 4 euros. C’est un rêve et un projet unique que le grand couturier vietnamien Sĩ Nham a caressé et réalisé après tant d’années de recherche sur l’histoire de la tunique. C’est aussi l’un des deux musées privés à Saigon.


From Saigon center to Ao dai museum: 40 minutes. From Bến Thành market to Ao dai museum by bus number 88: 60 minutes.


Musée de l’histoire du Vietnam (Hànội)

hanoi_musee

 

Version française

English version

Thường được gọi là Bảo tàng Louis-Finot , xây dựng dưới thời Pháp thuộc bởi nhà kiến trúc sư pháp Ernest Hébrard, ngôi nhà nầy trở thành ngày nay là bảo tàng viện lịch sử của Việtnam (Hànôi).  Toà nhà không những nổi bật trong việc trưng bày các hiện vật  tìm thấy được qua những cuộc khai quật khảo cổ mà còn nhờ sự kết cấu hỗn hợp của phong cách Đông Dương. Dựa trên nguyên tắc  bố cục của chùa chiền và đình, Ernest Hébrard đã thành công thực hiện một cách tài tình và khéo léo bằng cách nối kết  tính hiện đại kỹ thuật của tây phương với sự thành thạo trong việc biết  trọng dụng những không gian tìm thấy  trong truyền thống của châu Á. Ngôi nhà nầy được xem  hiện nay là di sản quốc  gia. Ai thường quan tâm đến lịch sử Việtnam nên đến tham quan nơi nầy vì có đến 200000 hiện vật đựợc trưng bày, có những vật có từ thời đại đồ đá cũ và đồ đồng. Trình tự thời gian được tôn trọng và phân bố trên nhiều tầng.  Ở tầng một thì tìm thấy những di tích của thời tiền sử sau đó trong một phòng khác thì có các công  cụ nông nghiệp thô sơ của thời Đồng Sơn và Sa Huỳnh ở miền trung Vietnam.

Còn có một khu dành riêng cho các di tích của thời đô hộ Trung Hoa (Thời Hán và Đường). Trên tầng nhì thì chia ra 3 lãnh vực. Phần đầu thì dành không những cho thời kháng chiến của Lê Lợi chống giặc Minh mà còn có thời nhà Nguyễn và Pháp thuộc. Phần thứ nhì thì nơi trưng bày điêu khắc Chămpa và phần cuối cùng thì vương quốc Phù Nam. Đây là một điểm tham quan hàng đầu không thể bỏ qua được  nếu có dịp đến Hà Thành.

Bảo tàng lịch sử Hànội

 

Version française 

Étant construite à l’époque coloniale par l’architecte français Ernest Hébrard et appelée « Musée Louis-Finot » du nom de son premier directeur, cette bâtisse devient aujourd’hui le musée de l’histoire du Vietnam. Cet édifice se distingue non seulement par l’exhibition d’un grand nombre d’artefacts trouvés lors des fouilles archéologiques mais aussi par l’architecture mixte de style indochinois que Ernest Hébrard a réussi à réaliser avec ingéniosité en associant à la fois la modernité technique et stylistique occidentale, le savoir-faire et les espaces de la tradition asiatique trouvés dans les principes de composition des pagodes et des maisons communales (đình). Cette bâtisse a été classée au patrimoine national. Pour ceux qui s’intéressent à l’histoire du Vietnam, il est indispensable de rendre visite à ce musée car on y trouve plus de 200 000 objets dont certains sont exceptionnels du fait qu’ils datent du début de Paléolithique et de l’âge de bronze. L’ordre chronologique est respecté et réparti sur plusieurs niveaux. Au premier niveau, dans la première salle, se trouvent les vestiges préhistoriques suivis ensuite dans une seconde salle par les outils agricoles rudimentaires de la période Đồng Sơn et ceux de Sa Huỳnh sur la côte centrale du Vietnam.

Il y a un autre espace réservé aux vestiges de la période d’occupation chinoise ( dynasties Han et Tang). Au deuxième niveau, on se retrouve avec trois sections. La première retrace non seulement la lutte engagée par Lê Lợi contre les Ming mais aussi les dynasties suivantes (y comprise celle des Nguyễn) et l’occupation française. La deuxième section est réservée à la sculpture du Champa. Quant à la dernière section, on a affaire à la culture de Phù Nam. C’est une institution phare à ne pas oublier si on a l’occasion de visiter Hanoï.

English version

Built during the colonial era by the French architect Ernest Hébrard and called the « Louis-Finot Museum » after its first director, this building has now become the Museum of the History of Vietnam. This building stands out not only for exhibiting a large number of artifacts found during archaeological excavations but also for its mixed Indochinese architectural style that Ernest Hébrard skillfully achieved by combining both Western technical and stylistic modernity with the craftsmanship and spatial concepts of Asian tradition found in the composition principles of pagodas and communal houses (đình). This building has been classified as a national heritage site. For those interested in the history of Vietnam, it is essential to visit this museum as it houses more than 200,000 objects, some of which are exceptional because they date back to the early Paleolithic and Bronze Age. The chronological order is respected and distributed over several levels. On the first level, in the first room, are prehistoric remains, followed in a second room by rudimentary agricultural tools from the Đồng Sơn period and those from Sa Huỳnh on the central coast of Vietnam.

There is another area dedicated to the relics from the period of Chinese occupation (Han and Tang dynasties). On the second level, there are three sections. The first not only recounts the struggle led by Lê Lợi against the Ming but also the subsequent dynasties (including the Nguyễn) and the French occupation. The second section is reserved for Champa sculpture. As for the last section, it deals with the culture of Phù Nam. It is a flagship institution not to be missed if you have the chance to visit Hanoi.

 

 

 

Musée d’ethnographie (Hànội)

 

Bảo tàng dân tộc học (Hà Nội).

Version française
English version

Mặc dù  ở cách xa phố cổ, viện bảo tàng nầy vẫn là nơi  mà các du khách ngoại quốc không để mất cơ hội đến tham quan vì chính ở nơi đây nguồn gốc của người dân Việt được thấy rõ hơn hết. Họ không chỉ là người Kinh ngày nay, con cháu của người Việt cổ không mà còn có  hơn 53 dân tộc khác cùng chung sống rải rác ở trên mảnh đất hình chữ S nầy. Tất cả phần đông thuộc về đại tộc Bách Việt và có mặt trên bán đảo Đông Dương qua nhiều niên kỷ. Họ thuộc về văn hoá Hòa Bình mà nhà khảo cổ học người Pháp Madeleine Colani đã phát hiện vào năm 1922. Bảo tàng viện nầy là kết quả của sự hợp tác Pháp Việt. Công trình thiết kế thì do kiến trúc sư Việt  Hà Đức Lịnh gốc Tày  đảm nhận mà  còn phần nội thất  thì thuộc phần của  nữ kiến trúc sư người Pháp  Véronique Dollfus. Bảo tàng nầy được xây cất vào năm 1987 và được khánh thành mười năm sau vào năm 1997 với sự hiện diện của cố tổng thống Pháp Jacques  Chirac lúc có hội nghị thượng đỉnh  cộng đồng Pháp ngữ.  

Tọa lạc tại đường Nguyễn Văn Huyên, phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, bảo tàng nầy gồm có 3 khu: một  khu chính  có  một  toà nhà hình dáng Trống Đồng, nơi nầy  hay thường trưng bày các tập tục và phổ biến  các dụng cụ  của 54 dân tộc ở Việt Nam  trên 2 tầng qua  các chi tiết, rất thú vị và cách bố trí  nội dung rất hợp lí. Đôi khi còn có sự trưng bày đặc biệt như các hình  ảnh trắng đen của nhà nhiếp ảnh Jean Marie Duchange ở những năm 50 của thế kỷ 20 chẳng hạn.  Còn một khu thì ở ngoài trời  với các ngôi nhà đặc trưng của người Việt hay các dân tộc anh em như dân tộc Dao, dân tộc Ê Đê, dân tộc Bà Na vân vân và có cả nhà mộ của người Gia Lai (Jarai). Khu cuối cùng  dùng để trưng bày  các hiện vật của các quốc gia ở Đông Nam  Á.  Có  thể  nói đây là một địa điểm du lịch có một không hai và không thể thiếu cùng với phố  cổ  khi có dịp đến tham quan thủ  đô Hànội.

English version

Although it is far from the old quarter, this museum remains a place that foreign tourists do not miss the opportunity to visit because it is here that the origins of the Vietnamese people are most clearly seen. They are not only the Kinh people of today, descendants of the ancient Vietnamese, but also more than 53 other ethnic groups living scattered across this S-shaped land. Most of them belong to the great Bach Viet tribe and have been present on the Indochinese peninsula for many centuries. They belong to the Hoa Binh culture, which was discovered by the French archaeologist Madeleine Colani in 1922. This museum is the result of French-Vietnamese cooperation. The design work was undertaken by the Vietnamese architect Ha Duc Linh, of Tay ethnicity, while the interior was the work of the French female architect Véronique Dollfus. The museum was built in 1987 and inaugurated ten years later in 1997 in the presence of the late French President Jacques Chirac during the Francophonie summit.

Located on Nguyen Van Huyen Street, Quan Hoa Ward, Cau Giay District, Hanoi City, this museum consists of three areas: a main area with a building shaped like a Bronze Drum, which often displays customs and popular tools of the 54 ethnic groups in Vietnam across two floors through very interesting details and a very reasonable content arrangement. Occasionally, there are special exhibitions such as black and white photos by photographer Jean Marie Duchange from the 1950s, for example. Another area is outdoors with characteristic houses of the Vietnamese people and ethnic groups like the Dao, E De, Ba Na, and even a tomb house of the Gia Lai (Jarai) people. The final area is used to display artifacts from countries in Southeast Asia. It can be said that this is a unique tourist destination and an indispensable place along with the Old Quarter when visiting the capital Hanoi.

Version française

Eloigné du vieux quartier de Hanoï, ce musée n’en reste pas moins un lieu que les touristes étrangers ne manquent pas l’occasion de visiter car c’est ici que l’on peut voir plus clairement l’origine du peuple vietnamien. Celui-ci est  constitué non seulement des descendants des Proto-Vietnamiens,  les Kinh d’aujourd’hui  mais aussi de 53 autres groupes ethniques vivant  dispersés sur cette terre en forme de S. Tous appartenaient au groupe austro-asiatique ou Bai Yue (Cent Yue) et  ils étaient présents sur la péninsule indochinoise depuis de nombreux siècles. Ils étaient les héritiers de la culture Hoà Bình que l’archéologue française Madeleine Colani eut découverte en 1922. Ce musée est le fruit d’une coopération franco-vietnamienne. Le projet d’architecture a été  conçu par l’architecte vietnamien d’origine Tày,  Hà Đức Linh tandis  le design intérieur revient à l’architecte française Véronique Dollfus. Ce musée fut construit en 1987 et inauguré dix ans plus tard en 1997 en présence du feu président français Jacques Chirac lors du sommet de la Francophonie.

Galerie des photos noir et blanc de Jean-Marie Duchange
sur les Hauts Plateaux du Vietnam  dans les années 50.

Étant situé à la rue Nguyen Van Huyen du quartier Quan Hoa, district Cau Giay de la ville de Hanoï, ce musée se compose de 3 zones:
-une zone principale a un bâtiment en forme du tambour de bronze où on a l’habitude de présenter souvent les us et coutumes et  de faire connaître  les outils de 54 groupes ethniques au Vietnam sur 2 étages à travers les détails très intéressants et la disposition de la présentation tout à fait rationnelle. Parfois il y a aussi des expositions spéciales comme les photos  en noir et blanc du photographe Jean Marie Duchange dans les années 50 du XXème siècle, par exemple.
– Une autre zone est en plein air avec la maison typique des Vietnamiens ou celle d’autres ethnies telles que les Yao, les Ede, les Bahnar, etc., et même la maison funéraire des Jarai
– La dernière zone est destinée à la présentation des artefacts de pays d’Asie du Sud-Est.

On peut dire que c’est une destination touristique unique et incontournable avec le vieux quartier de 36 rues et corporations lorsqu’on a l’occasion de visiter la capitale Hanoï. 

Dalat (Version française)

English version

French version

Thành phố sương mù

Đựợc gọi là thành phố sương mù, cách xa thành phố Saigon 250 cây số và nằm trên vùng cao nguyên thuộc Tây Nguyên Việtnam, thành phố Đà Lạt có độ cao trung bình khoảng chừng 1500 thước so với mực nước biển. Trong những năm gần đây, Đà Lat bị đô thị hóa với số lượng người di cư rất đông khiến không còn thấy sự yên tĩnh như thưở nào nhất là ở khu chợ đêm. Người dân cũng không còn hiền hoà, khách du lịch nhất là khách Trung Quốc càng ngày càng đông. Tuy nhiên mình vẫn thích Đà Lạt vì thành phố nầy vẫn còn giữ được nét đẹp của những năm 1920. Chính ở nơi nầy một học trò ưu tú của ông Pasteur và người khám phá trực thuẩn gây bệnh dịch hạch, nhà bác học Alexandre Yersin tìm ra trên đồi Langbian một nơi để xây cất một viện điều dưỡng. Sau dự án nầy, nhà toàn quyền Pháp lúc đó là ông Paul Doumer mới có ý định xây dựng trạm nghỉ dưỡng dành cho công chức và binh lính Pháp ờ Đà Lat vì nơi nầy có một khí hậu tương tự như vùng ôn đới ở Âu Châu. Vì vậy mà Đà Lạt mới còn giữ nét đẹp của những năm 1920 với các toà nhà xây cất theo thời Pháp thuộc: trường trung học Yersin, Couvent des Oiseaux, các biệt thự với phong cách basque, Savoie hay Normandie. Nhà ga Đà Lạt vẫn còn là bản sao thu nhỏ của nhà ga Deauville của Pháp. Đến Đà Lạt sẻ thấy ngay một biểu tượng nổi tiếng của Paris, một kiến trúc bằng thép màu đỏ, nay là đài truyền hình của Đà Lat đó là tháp Eiffel. Muốn tìm nét đẹp hồn nhiên của Đà Lat như thưở nào thì phải đi xa ra ngoại ô của thành phố, đến những nơi còn hoang vu, còn yên tĩnh, còn có một bầu trời không khí trong lành như làng cù lần …. Có thể rồi đây Đà Lạt sẻ không còn là thành phố mộng mơ. Đà Lạt chỉ còn nằm trong ký ức của những người Việt đã từng biết Đà Lạt trước 1975.

Version française

Située sur les hauts plateaux du centre du Vietnam, à environ 250 kilomètres de Saïgon et 1500 mètres d’altitude, Dalat continue à garder le charme des années 20. En 1893, le découvreur de la bacille de la peste et le disciple de Pasteur , Alexandre Yersin trouva sur le plateau du Lang Bian un terrain favorable à l’établissement d’un sanatorium. Son projet fut suivi quelques années plus tard par celui du gouverneur Paul Doumer de transformer Dalat en une station climatique la plus huppée de l’Asie du Sud Est.

C’est ici qu’on trouve le petit Paris du Vietnam avec ses édifices construits à l’époque coloniale: lycée Yersin, couvent des Oiseaux, villas privées dont le style est emprunté tantôt au pays basque, tantôt à la Savoie ou à la Normandie. La gare de Đalat est une réplique en miniature de la gare de Deauville. Même la petite dame de fer rouge et blanche, la petite tour d’Eiffel est là pour rappeler sa consœur parisienne.

Grâce à son climat tempéré ( 10 degrés en hiver et 25 degrés en été) , on peut y cultiver tous les agrumes et les légumes, ce qui permet à Dalat d’être le premier fournisseur officiel du pays. Les serres remplies de fleurs sont aussi à l’honneur dans toute la région. Surnommée « la ville de l’éternel printemps » , Dalat est caractérisée par un grand nombre de « pas »: pas de climatiseurs, pas de feux rouges, pas de cyclos pousses, pas de flics dans les rues, pas de supermarchés, pas de motos-taxis (xe ôm) etc …

Pictures gallery

Le petit Paris au Vietnam

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Saïgon: vue panoramique

 

Toàn cảnh thành phố Hồ Chí Minh