Dân tộc M’nông: Phần nhì (Version vietnamienne)

dantoc_mnong

Version française 

Version anglaise

Dân tộc M’nông: Phần 2

Khi người M’nông quyết định ra nước ngoài (tức là đến các làng lân cận khác) thì người M’nông cần phải đi cùng với một người mai mối tốt nhất là được tuyển chọn từ các kuang ở trong làng. Người kuang trên thực tế là một người đàn ông mạnh mẽ và nổi tiếng, không được so sánh qua các tài sản tích lũy mà qua số hiến sinh các trâu mà anh ta tổ chức và hoàn thành. Nhờ những chi phí hoành tráng mà anh chịu chi trong việc hiến tế trâu cho người thân, khách jok và làng của mình, anh mới có được uy tín. Điều này cho phép anh ta dần dần có được một mạng lưới quan hệ, có uy lực trong các cuộc thảo luận ở làng và trở thành một « rpuh kuang » (hoặc trâu đực) về khả năng tình dục.

Ngay cả các sừng của hêeng rpuh « linh hồn của trâu » mà anh ta có, nuôi dưỡng bởi các thần linh được dài ra tùy theo số lượng tế trâu được hoàn thành. Quan tài của anh sẻ nặng hơn khi những chiếc sừng này đã đạt được kích thước khổng lồ. Một kuang vĩ đại là một người dám thực hành chiến lược mắc nợ. Anh ta càng dám chi tiêu cho việc hiến tế trâu và mua hàng thì uy tín của anh ta càng tăng. Anh ta vẫn còn một số nợ chậm trễ phải trả. Anh ấy không cần phải chờ đợi để hoàn trả tất cả các giao dịch mua bán của mình làm cho người khác bởi vì tác động nầy mang lại cho anh sự ngưỡng mộ và nổi tiếng.

Một dân làng M’nông trở thành người kuang với sự hiến sinh trâu đầu tiên. Do đó, anh ta trở thành người đàn ông « cần thiết » mà chúng ta dựa vào nhằm để đảm bảo không chỉ sự an toàn lúc đi đường mà cònđược sự  thành công trong các giao dịch thương mại khi rời khỏi làng. Chính với anh ta mà chúng ta lên kế hoạch cuộc hành trình. Chính nhờ mạng lưới quan hệ, anh ta sẽ giới thiệu người jook địa phương của làng đến, người biết tất cả cư dân ở nơi nầy và biết những ai quan tâm đến các hàng hóa của cuộc giao dịch nầy với sự bảo đảm về khả năng thanh toán.

Tương tự như các người dân tộc Bà Na, người M’nông theo thuyết duy linh. Họ nghĩ rằng mọi thứ đều có linh hồn ngay cả trong các dụng cụ để sử dụng nghi lễ (ví dụ như ché rượu cần). Vũ trụ được tạo ra bởi các thần yaang. Đây là lý do vì sao lời kêu gọi các vị thần không chỉ ở một nơi nào đặc biệt mà có thể nằm rải rác ở khắp mọi nơi trong làng hoặc trong rừng hoặc trên núi hay ở vùng biển. Không có ngõ ngách nào được tránh cả. Thần linh sẽ được gọi tập thể hoặc được vinh danh qua một nghi lể riêng trong một hoàn cảnh đặc biệt. Đây là trường hợp của thần lúa có một bàn thờ nhỏ được dành riêng ở giữa đồng. Trong mùa gieo hạt, người M’nông sẽ đến để cúng dường. Thu hoạch tập thể không thể bắt đầu được nếu không có nghi thức đặc biệt gọi là « Muat Baa ». Vì lúa thóc có linh hồn, nên cần tránh làm thần linh tức giận và chạy trốn nên cần có các biện pháp phòng ngừa: tránh huýt sáo, khóc, hát trên cánh đồng hoặc cãi vã, ăn dưa chuột, bí ngô, trứng, những sinh vật trơn trượt vân vân …

Một con gà mái sẽ hiến sinh gần túp lều nhỏ của linh hồn lúa nằm ở trên một thân tre được bao chung quanh bởi những cây tre mang theo các tổ chim. Đối với thần mưa, người M’nông cung cấp trứng trên chiếc mâm nhỏ. Để làm dịu cơn giận dữ của các thần rừng trước khi khai khẩn một phần đất, việc chăm sóc và cầu nguyện nghi lễ tuyệt vời phải được thực hiện. Một cọc tre dài cùng với một con cá được câu và được treo, cắm ở giữa vùng đất khai hoang. Khi ngọn lửa bắt đầu bùng phát, hai « người đàn ông thiêng liêng » hay croo weer cầu xin sự bảo vệ của các thần linh trong khi một người thứ ba xức dầu cây cọc và gọi thần linh. Thậm chí có những vị thần được cho là người bảo vệ linh hồn của cá nhân. Linh hồn nầy bao gồm một cơ thể vật chất và một số linh hồn hoặc heêng dưới nhiều dạng: một linh hồn trâu được nuôi dưỡng ở một tầng trời bởi các thần linh, một linh hồn nhện trong đầu của con người, một linh hồn thạch nằm ngay sau trán. Thậm chí còn có hồn chim sẻ hay kuulêel được biểu tượng bằng một sợ dây làm bằng các sợi bông màu đỏ và trắng và trải dài trên cơ thể của người chết giữa hai cây tre để phân biệt kuulêel với chim ưng thông thường.

Linh hồn chim ưng này bay đi khi con người qua đời. Một điều ác phạm từ một trong những linh hồn này sẻ có ảnh hưởng đến các linh hồn khác. Các thần có thể khiến làm ai đó bị bệnh bằng cách trói linh hồn trâu của họ vào cột hiến tế của họ. Việc nhờ pháp sư rất cần thiết bởi vì chỉ có ông nầy mới có thể thiết lập một cuộc đối thoại với các thần linh trong phiên điều trị (mhö). Ông nầy cố gắng mặc cả về giá mà các thần linh đòi hỏi cho việc giải thoát linh hồn trâu của người bệnh nếu không khi người bệnh chết, một trong những linh hồn khác của ông ta sẻ xuống tầng một của địa ngục. Linh hồn sẻ biến mất hoàn toàn khi đến tầng thứ bảy của địa ngục sau cái chết lần thứ bảy. Thế giới bên kia được xem như ở dưới lòng đất. Nghi thức chữa bệnh không có khiá cạnh lễ hội. Điều này đòi hỏi ít chi phí phải trả ngoài con trâu bị giết và lệ phí phải trả (tương đương với số lượng gùi lúa thóc) cho pháp sư. Ông nầy cũng nhận được một đùi của con vật được hiến sinh. Đối người dân tộc M’nông, việc linh hồn bất tử là không có. Mặt khác, khái niệm luân hồi có trong truyền thống người Mnong. Nó có thể xảy ra với tổ tiên được giữ ở tầng một của địa ngục, họ có thể tái sinh lại thành một trong những người hậu duệ của mình.

Musée d’ethnologie du Vietnam (Hanoi)

Trong truyền thống của người dân tộc M’mông, trâu là một con vật linh thiêng. Người M’nông sử dụng trâu làm tiền tệ định giá. Cũng trong hệ thống tín ngưỡng của người Mnông, con trâu được tương đương với con người. Một trong những linh hồn của nó là linh hồn trâu hay hêeng rput được nuôi dưỡng trên thiên đàng bởi các thần linh khi sinh ra và có một vai trò tiên quyết trên các linh hồn khác của cá nhân. Trước khi được chôn cất, người quá cố được đặt trong một cỗ quan tài có hình con trâu. Người M’nông không có tổ chức tang lễ và họ từ bỏ ngôi mộ sau một năm chôn cất. Nói chung, nhà tang lễ được xây dựng trên một ngọn đồi và được trang trí bằng những bức tượng gỗ chạm khắc hoặc các hoa văn khác nhau được sơn màu đen, đỏ hoặc trắng. Sức mạnh của một cá nhân được đo bằng số lượng các đầu trâu hiến sinh được chất chồng lên các cột trụ.

Theo truyền thuyết người M’nông, con trâu được thay thế người trong lễ hiến sinh. Đây là lý do tại sao chúng ta thấy trong sự hiến sinh này là kết quả cuối cùng của tất cả các nghi thức mà được tách ra bởi một lễ hội huy hoàng với các diễu hành cồng chiêng và các trò đánh trống để kêu gọi các thần linh, các bài hát vân vân… và kèm theo các cuộc chiêu đãi rượu cần. Đây là một sự kiện quan trọng và đặc biệt trong cuộc sống ở làng quê. Không ai có thể tránh khỏi sự kiện này. Ngôi làng trở thành một khu vực thiêng liêng, nơi mà phải vui chơi tập thể, uống rượu, ăn ngon và tránh đánh lộn với nhau vì có thể chọc giận các thần linh.

Dân tộc Mnong được chia thành nhiều nhóm nhỏ (Mnông Gar, Mnông Chil, Mnông Nông, Mnông Preh, Mnông Ku Sự, Mnông Prâng, Mnông Rlam, Mnông Bu đâng, Mnông Bu Nor, Mnông Din Bri, Mnông Bu Ðêh, Mnông Si Tô, Mnông Káh, Mnông Phê Dâm). Mỗi nhóm có một phương ngữ khác nhau, nhưng nói chung, người Mnong từ các nhóm khác nhau này có thể nói chuyện với nhau mà không gặp bất kỳ sự khó khăn nào cả.

Tự hào có tứ chi dài và thân hình trần trụi và rám nắng bất chấp những đau khổ trong một cuộc sống bấp bênh, người đàn ông người M’nông thường đóng khố, một loại vải dài màu chàm, được quấn tựa vào phần thắt lưng và phần cuối được có viền tua bằng đồng và len đỏ rơi xuống giữa đùi của họ như một chiếc tạp dề nhỏ (suu troany tiek) (3). Vành đai tạp dề này được sử dụng để mang tất cả các loại đồ vật như dao, hộp thuốc lá, dao găm và bùa hộ mệnh (hoặc đá thiên). Họ sử dụng áo khoác ngắn hoặc dài hoặc chăn làm áo khoác trong mùa lạnh. Tìm thấy trên đầu của họ một chiếc khăn xếp màu đen hoặc trắng hoặc một búi tóc, nơi họ thường cắm một con dao bỏ túi bằng thép với cán cong. Họ thường quen sử dụng rìu để chặt các thân cây. Phụ nữ Mnong ngực trần mặc váy ngắn (suu rnoôk) quấn quanh ở dưới bụng. Người Mnong ngưỡng mộ các đồ trang trí. Họ đeo  ở cổ ngực, các dây chuyền ngọc trai bằng sắt hoặc thủy tinh hoặc răng chó sau khi một nghi thức trừ quỷ mang lại cho các đồ vật trang trí có đặc tính bảo vệ trừ tà. Thường thấy ở dái tai các xoán ốc bằng ngà voi. Phụ nữ đặc biệt thích các dây chuyền thủy tinh ngọc trai. Các dái tai của của họ thường bị căng bởi các đĩa gỗ lớn màu trắng. Chúng ta vẫn thấy ở các nhóm nhỏ người Mnông hầu hết có tục lệ mài răng cửa ở hàm trên.

Cả đàn ông và phụ nữ đều hút thuốc lá và dùng rất nhiều rượu cần. Nó không chỉ là một yếu tố thiết yếu trong tất cả các bữa tiệc và các nghi lễ mà còn là một thức uống để chiêu đãi khách. Để vinh danh chủ nhà, một chum rượu cần được mở ra trong vài phút trước khi được phục vụ khách. Sự tiêu thụ nầy được thực hiện tập thể bằng cách sử dụng một hoặc nhiều ngọn đuốc tre (hay cần) được cắm vào chum rượu. Số lượng uống »cóng » (hay đơn vị) được áp đặt cho mỗi người uống theo tập tũc của mỗi dân tộc. (2  cóng uống với người dân tộc Mnongs Gar, 1 cóng với người Ê Đê). Để duy trì mức độ của ché rượu, cần phải đổ nước vào ché, làm loãng dần chất cồn trong rượu cần và biến nó trở thành một thức uống không có hại cho sức khoẻ.

Tựa như người dân tộc Bà Na, người dân Mnông rất tự hào là người tự do. Đây là những gì nhà cố dân tộc học Pháp nổi tiếng G. Condominas tìm thấy ở nơi người dân Mnong Gar. Tại ngôi làng Sar Luk, nơi mà ông đã thực hiện một năm sống hoàn toàn với các người dân tộc Mnong Gar thì không có trưởng làng mà chỉ có một nhóm ba hoặc bốn người đàn ông có nhiệm vụ « thiêng liêng ». Đấy là những người hướng dẫn nghi lễ, đặc biệt là trong các vấn đề nông nghiệp. Đối với họ, mất đi tự do có thể là một thảm họa mà người dân tộc Mnong hằng lo sợ. Chúng ta luôn tìm thấy ở họ hai đặc thù khác biệt với các dân tộc khác ở Việt Nam: tinh thần đoàn kết và bkhông màng quyền lợi và  tự nguyện không  làm giàu một cách ích kỷ.

Bất chấp nỗi đau khổ trong cuộc sống bấp bênh, người dân tộc M’nông vẫn còn biết khái niệm chia sẻ mà chúng ta, những người được gọi là những người văn minh, đã quên từ lâu rồi.

[Trở về trang Dân Tộc M’Nông]

Tham khảo tài liệu

De la monnaie multiple.G. Condominas. Communications 50,1989,pp.95-119
Essartage et confusionisme: A propos des Mnong Gar du Vietnam Central. Revue Civilisations. pp.228-237
Les Mnong Gar du Centre Vietnam et Georges Condominas. Paul Lévy L’homme T 9 no 1 pp. 78-91
La civilisation du Végétal chez les Mnong Gar. Pierre Gourou. Annales de géographie. 1953. T.62 pp 398-399
Tiễn đưa Condo của chúng ta, của Tây Nguyên. Nguyên Ngọc
Chúng tôi ăn rừng …Georges Condominas ở Việtnam. Editeur Thế Giới 2007
Ethnic minorities in Vietnam. Đặng Nghiêm Vạn, Chu Thái Sơn, Lưu Hùng . Thế Giới Publishers. 2010
Mosaïque culturelle des ethnies du Vietnam. Nguyễn Văn Huy. Maison d’édition de l’Education. Novembre 1997
Les Mnongs des hauts plateaux. Maurice Albert-Marie 1993. 2 tomes, Paris, L’Harmattan, Recherches asiatiques.

Dân tộc Mnông (Version vietnamienne)

 

 

dantoc_mnong

Dân tộc M’nông

Version française

Version anglaise

Tưởng nhớ đến  nhà dân tộc học Georges Condominas.

Condo, bạn là người  dân tộc M’nông cuối cùng. Khi bạn ra đi vĩnh viễn, văn hóa của chúng tôi cũng sẽ ra đi. Đây là lời mà trưởng làng ở Sar Luk hiện tại đã nói với Georges Condominas lúc gặp ông lại khi ông nầy quay trở về làng vào năm 2006. Điều này cho thấy mức độ mà người dân tộc M’nông đồng ý, xem ông ta không chỉ là một người trong cộng đồng của họ mà còn là người đại diện cuối cùng bảo vệ không biết mệt  mỏi văn hóa của họ và làm thế giới biết cách sống của họ mà hầu hết mọi người  còn sợ ở một thời điểm nhất định. Họ có thực sự là những người « rừng rú », những người làm nương rẫy, những người đốt rừng mà chúng ta tiếp tục thường nghĩ trong quá khứ? Từ đây họ có được tên mới là « dân tộc thiểu số » và họ là một trong 54 dân tộc ở Việt Nam? Những người nầy mà nhà dân tộc học Georges Condominas đã dành hai cuốn sách chuyên khảo « Chúng tôi ăn rừng » và « Cái xa lạ là cái hàng ngày« . Họ có xứng đáng được sự chú ý và nghiên cứu của ông ấy không khi chúng ta biết rằng ở tuổi 27, ông phải trả giá bằng sức khỏe, ông phải cố gắng hòa mình sống trong môi trường của họ, để được đồng hóa dần dần và học ngôn ngữ mẹ đẻ của họ để biết họ rõ hơn và mô tả họ trong các tác phẩm tuyệt vời của ông với một lối viết văn rõ ràng và trôi chảy khiến ông được xem coi là ông Proust của dân tộc học.

Georges Condominas thừa nhận rằng với người Đông Dương cổ (2) ông ta được có thiểt yếu để học làm người. Đối với ông, dân tộc học có khác thường ở nơi  nó vừa là một lối sống mà cũng vừa là một môn khoa học. Theo nhà văn Việt Nguyễn Ngọc được biết đến  nhờ các nghiên cứu văn hóa, một nhà nghiên cứu dù ở lĩnh vực khoa học nào đi nửa, cũng có thể có hai lối sống riêng biệt, một dành cho việc nghiên cứu khoa học và một dành riêng cho cuộc sống riêng tư của mình. Không nhất thiết phải liên kết cái này với cái kia. Đây không phải là trường hợp của một nhà dân tộc học như Georges Condominas. Ông ta chỉ có một cách sống duy nhất tương ứng với cuộc sống riêng tư và lĩnh vực khoa học của ông ta. Dân tộc học là một hình thức của cuộc sống mà ông bị đồng hóa hoàn toàn ở nơi ông ấy sống và cũng là ngành khoa học mà ông cống hiến cả cuộc đời. © Đặng Anh Tuấn

Những người dân tộc M’nông này là ai? Họ rất đông vào đầu thế kỷ XX với dân số ước tính khoảng chừng 1.200.000 người (1) nhưng họ bị tàn sát trong các cuộc chiến tranh Đông Dương bởi một chính sách cưỡng chế mà nhà dân tộc học Georges Condominas gọi là « diệt tộc« .Theo số liệu thống kê được thực hiện vào năm 1999, dân số của họ được có vào khoảng 120.000 người, 20.000 người ở Cao Miên thuộc tỉnh Mondulkiri, gần biên giới Việt Nam ở các tỉnh Đắk Lak và Đắk Nông. Người M’nông chiếm ở hai bờ của con sông Serepok hùng mạnh (hay Daak Kroong theo tiếng m’nông) đổ nước xuống từ vùng cao nguyên miền trung Việt Nam về phía sông Mê Kông. Người M’nông thuộc nhóm tộc Môn-Khmer thuộc gia đình dân tộc học Nam Á. Họ thường đốt phá các bụi rậm hoặc họ ăn rừng theo cách nói riêng của họ. Họ chọn một phần đất ở khu rừng, sau đó họ khai hoang và đốt lửa trước khi gieo lúa qua các lỗ trên mãnh đất bị đốt cháy và được bón phân nhờ đống tro tàn.

Nhưng phương pháp này không cho phép họ thu hoạch thêm sau hai năm gặt lúa. Đây là lý do tại sao họ buộc lòng phải liên tục thay đổi vị trí của các lĩnh vực của họ (miir) cứ sau hai năm để cho rừng được tái sinh. Họ có thể sử dụng lại nó chỉ mười hoặc hai mươi năm sau. Do từ cách thức cày cấy nầy, họ buộc lòng thường xuyên di chuyển ngôi làng của họ. Chính trong việc bành trướng địa phận đích thực này, có những ngôi nhà dài mà mỗi ngôi  thường có nhiều hộ. Đôi khi sự di chuyển nầy từ dịch bệnh gây ra khiến có  các người chết trong làng. Sự lựa chọn và xây dựng lại một ngôi làng mới ở một địa điểm khác (hoặc rngool) thường đòi hỏi các nghi thức lễ mà một số lượng lớn trâu cần phải hiến  sinh. Trong trường hợp xảy ra dịch bệnh, số người chết tương đương với số lượng trâu phäi hiến sinh. Tuy nhiên, thời gian lưu trú trên cùng một địa điểm không vượt quá bảy năm liên tiếp, khoảng thời gian tối đa ngăn cách hai lễ hội lớn cúng thần Đất.

Nơi mà họ ưa thích trồng các cây là vị trí của ngôi làng cũ của họ. Ở đây, chúng ta không chỉ tìm thấy cây thực phẩm (kê, vừng, khoai lang, khoai tây, sắn vân vân …) mà còn cả những cây không phải thực phẩm (thuốc lá, bông gòn, nghệ, vân vân…). Ngoài trồng trọt, việc hái lượm tiếp tục chiếm một vị trí quan trọng ở người M’nông. Rừng cung cấp cho họ các cây dược liệu hoang dã,  các cây độc dược, các cây trái ăn được (măng tre, tim của cây mây, quế, vân vân…) và các vật liệu xây dựng. Người M’nông không dựa vào lịch âm trong việc khai thác đất mà họ nhớ từng giai đoạn khai thác bằng các từ vựng rất đặc biệt:

ntôih:  khai hoang cho đến khi đốt.

miir: cánh đồng gieo cho đến khi thu hoạch

mpôh: miir bị bỏ rơi trong năm đầu tiên

mpôh laak: miir bị bỏ rơi năm thứ hai.

Theo nhà dân tộc học G. Condominas, người M’nông không chờ đợi Minkowski hay Einstein mới có khái niệm về không gian và thời gian. Bằng cách sử dụng một từ ngữ liên quan đến không gian, họ chỉ ra được thời gian. Đây là những gì chúng ta thấy trong việc khai thác đất của họ với các từ vựng họ dùng. Họ nói ra một cách phỏng chừng tuổi của ai đó liên quan đến một sự kiện nổi bật.

Ngôi làng của họ là một không gian xã hội rất nhỏ. Trưởng làng (hoặc rnut) chịu trách nhiệm quản lý các công việc của làng xã. Kích thước của ngôi làng thường có khoảng một trăm người. Khi vượt qua giới hạn của ngôi làng, một cư dân có thể trở thành người  xa lạ, kẻ thù hoặc người khách mà được họ quen chỉ định dưới cái tên « nec ». Những ngôi nhà của họ, có mái cỏ  xuống thấp đến mức thường che giấu những bức tường gỗ, là những túp lều hình chữ nhật dài (mnong gar) hoặc nhỏ (mnong rlam). Các nhà nầy  nằm trên sàn đất sét thuộc về người Mnong Gar trong khi đó người Mnong Rlam sống ở nhà sàn.  Trung tâm chính của xã hội là gia đình. Tổ chức xã hội là  chế độ mẫu hệ và ngoại hôn. Trẻ em được đặt tên theo gia tộc của mẹ. Việc truyền lại tài sản diễn ra từ mẹ sang con gái.

Người chồng đến sống với bố mẹ vợ. Những dấu ấn của tục lệ tái hôn với anh em chồng  hay với các chị em vợ vẫn còn có thấy. Mặt khác, sự vi phạm quy tắc ngoại hôn được xem coi là tội phạm nghiêm trọng nhất và  cũng có các biện pháp trừng phạt của xã hội. Một chàng trai trẻ cần nên tìm hiểu cặn kẽ về gia tộc của cô gái trước khi bước đến việc hôn nhân. Việc ngoại hôn củng cố mối quan hệ họ hàng và tạo nên một mạng lưới liên minh cho phép không gian xã hội nhỏ của ngôi làng được  dễ thở. Điều này tạo thuận lợi cho sự hiếu khách khi một người rời khỏi làng trong các chuyến đi mậu dịch.

Mối quan hệ này có thể được thiết lập và duy trì bởi một tổ chức có uy tín được gọi là trao đổi hy sinh (hay tam bôh), điều này có thể tạo ra một liên minh đặc quyền giữa hai cá nhân (hoặc joôk) và gia đình của họ. Có một nghi thức trong đó không chỉ có các joôks (bạn bè thân thiết) mà  có luôn các làng tương ứng của họ được tham gia. Mối quan tâm về sự bình đẳng trong việc thương mại có thể thấy rõ trong nghi lễ: số lượng trâu bị hiến sinh trong làng của một người phải bằng với số lượng  mà người kia sẽ biếu lại khi trở về làng của mình. Tương tự như vậy, những món quà mà người ta đã nhận phải có giá trị tương đương và tương tự như những món quà mà anh ta sẽ tặng lại cho người kia. Ngay cả trong bữa tiệc, các phần thịt lợn do chủ nhà cung cấp cúng tế phải có cùng kích thước với phần được cung cấp bởi « chủ nhà đối tác » của mình trong buổi lễ trao đổi đầu tiên được tổ chức để vinh danh ông ở làng bên kia. Để đạt đến giai đoạn quan hệ này, các jooks phải sử dụng một người mai mối. Trong khái niệm trao đổi, người M’nông luôn cần có một người mai mối, cho dù đây  là trao đổi giữa người đàn ông hay giữa con người và các thần linh. Trong trường hợp nầy, người mai mối không ai khác chính là pháp sư (hay njau mhö). Đôi khi cần đến một người chữa bệnh bình thường (njau) cho một căn bệnh nhẹ.

Với người M’nông, từ « trao đổi (hoặc tam) » được sử dụng rộng rãi trong ngôn ngữ hàng ngày của họ. Từ « tam » luôn được dùng theo sau bởi một từ khác để chỉ định loại trao đổi.

tam töor: trao đổi tình yêu, đang yêu.

tam löh: trao đổi  các cú trong cuộc chiến đấu.

tam boo, tam sae: trao đổi vợ chồng, liên minh hôn nhân, kết hôn

tam boôh: trao đổi nảy lữa,  lễ hiến sinh quan trọng  của cuộc liên minh

tam toong: trao đổi bài hát vân vân…

Trao đổi đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của người dân tộc Mnong. Chúng ta nhận thấy rằng việc trao đổi không chỉ ở cấp độ hàng hóa mà còn ở cấp độ lao động dưới hình thức hỗ trợ lẫn nhau trong công việc xây dựng cũng như trong công việc nông nghiệp (khai quang, thu gặt vân vân..). Luôn luôn có sự quan tâm cho  việc trao đổi bình đẳng. Mỗi đội bên phải dành số thời gian bằng nhau trên ruộng đồng của mỗi  thành viên trong nhóm. Nếu việc trao đổi lao động được đơn giản hóa cùng số giờ mà mỗi đội bên phải cung cấp, thì nó sẽ phức tạp hơn khi nói đến hàng hóa vì người Mnong không có một tiêu chuẩn duy nhất như đồng euro hoặc đô la. Trong việc đánh giá các món đồ  trao đổi, họ có phải sử dụng đến các tiêu chuẩn có nhiều giá trị được sử dụng trong xã hội của họ: ché nhỏ không có cổ (yang dam), các chum cũ, váy suu sreny, lợn, trâu, cồng chiêng vân vân.. Đây cũng là những phương tiện trao đổi và thanh toán các hàng hóa có được.  Người ta định giá món đồ trau đổi theo giá thỏa thuận để rồi tất cả các món nhận lại trong việc trao đổi cũng được có  giá trị tương đương với giá này. Đôi khi với một giá trị thỏa thuận, chúng ta có thể kết thúc với hai con trâu cỡ trung bình, hoặc một con trâu và một cái ché cũ hoặc thậm chí một cái chăn lớn và mười hai cái hũ nhỏ không cổ  vân vân…). Điều này rất giống với hệ thống mà chúng ta dùng để trả giá hàng hóa bằng các tiền giấy to lớn hay các đồng tiền. Được sử dụng như là một tiêu chuẩn giá trị và một phương tiện thanh toán, những hàng hóa này là tiền tệ thực sự mà nhà dân tộc học G. Condominas đã chỉ định dưới tên « nhiều loại tiền tệ ».

Mặc dù vậy, những tài sản này vẫn tiếp tục giữ được sử dụng như buổi ban đầu trước khi xem xét đến tiền bạc. Những ché thường dùng để chứa rượu cần được làm và và uống trong khi đó cồng chiêng là nhạc cụ được dùng cho những dịp đặc biệt. Tương tự như vậy, váy, chăn và nồi kim loại là một trong những đồ vật thường dùng trong cuộc sống hàng ngày. Mặc dù  sư trao đổi có nhiều hình thức nhưng vẫn có một sự phân biệt rất rõ ràng trong từ vựng mnong cho các khái niệm mua (ruat) và bán (tec). Một khi kết thúc sự trao đổi, thì có giá môi giới mà người mua (croo ruat) phải trả cho bên trung gian. Người bán (croo tec) không tặng gì cho người mai mối (ndraany) cả đôi khi  họ nhận được một món quà khiêm tốn từ người bán chỉ vì thái độ tử tế và lòng biết ơn. Có hai chum trong số tiền môi giới: một chum để trả cho người mai mối và  chum kia ít có giá trị hơn cho việc an toàn  khi đi đường bộ qua một nghi lễ. Trong trường hợp bán được một bộ cồng chiêng, chum thứ nhất (yang mei) sẽ to lớn và chum thứ hai nhỏ không có cổ. Ngoài ra, người mua phải tặng quà cho người khiêng (hoặc bạn đồng hành) để mang về các hàng được mua. Có một nghi thức còn được tôn  trọng việc ký kết hợp đồng. Điều này được thể hiện bằng cách hiến sinh một con vật được tiêu thụ tại chỗ và mở liền hai ché rượu cần, một ché dùng để  khấu trừ các vật  được tính trong việc thanh toán (qua  trò chơi các cành cây gãy) và một  ché còn lại nhằm tránh sự lăng mạ.

Người trung gian chịu trách nhiệm cho việc hợp đồng bằng cách nhận một chiếc vòng tay bằng đồng quấn quanh cổ tay, đây là một dấu hiệu của một  cuộc cam kết chắc chắn. Người trung gian vừa là người môi giới, người bảo lãnh của người mua, người phát ngôn của người bán và người làm chứng cho cuộc giao dịch. Trong một công ty của người M’nong không có văn bản chi cả, vai trò của người trung gian là rất quan trọng bởi vì nhờ  lời nói và cam kết của ông ta, điều này đảm bảo tính công khai của hợp đồng  vừa được ký kết. Tất cả các chi phí bổ sung được đề cập ở trên (hai ché, một con thú được tiêu thụ tại chỗ, một  món quà tặng cho người mang và  người môi giới ndraany) không được tính vào việc đánh giá tổng quát của giá trị tài sản mà có được. Trong trường hợp có  sự tranh chấp, mỗi bên có một ndraany đóng vai trò làm luật sư. Trong một vụ kiện nầy, các người ndraany của hai bên cần nói chuyện với nhau, thảo luận lại và làm sáng tỏ những lời nói của họ về công lý.

Có một trường hợp cụ thể trong đó có sự trao đổi  tương đương tuyệt đối (caan). Sự hiến sinh một con trâu là việc cần thiết trong cuộc đối thoại giữa pháp sư và vị thần linh sẵn sàng từ bỏ nạn nhân bị bệnh. Thật không may, gia đình bệnh nhân không có tiền liền để tôn vinh nhanh chóng sự hiến sinh này. Họ phải mua một con trâu theo cách caan từ một người dân địa phương hoặc ở  làng khác và trả lại một con thú có cùng kích thước trong vòng một hoặc hai năm mà không phải bồi thường chi cả. Trong trường hợp này, sự  trao đổi xem như là việc buôn bán  không có tiền lời.

[ Dân tộc Mnông: Phần 2]


(1): Source Encyclopédie Universalis.
(2): un néologisme assez laid employé par G. Condominas pour désigner les Mnongs à la place du mot péjoratif « Mọi (ou Sauvage) ».

Charles Edouard Hocquard


Version française

Version anglaise

Charles Edouard Hocquard, một bác sĩ quân y và một phóng viên của cơ quan Havas ở Bắc Kỳ từ năm 1884 đến 1886 đã để lại cho chúng ta một bộ sưu tập hình ảnh đẹp của cuộc chiến tranh thuộc địa đầu tiên ở Việt Nam. Ông đã mang về hơn 200 clisê (bản in đúc) được soạn thành một danh mục gồm có 80 tấm bản in lõm quang hóa (*)  được xuất bản vào năm 1887. Ông kể lại  một cách nhạy bén và hài hước trong « Cuộc thám hiểm ở Bắc Kỳ », những giai thoại sống động với người nông dân trong vùng, kiến ​​thức về hệ thực vật địa phương, những kỷ niệm  về cuộc chiến Bắc Kỳ và người dân Việt Nam vân vân… Ông không đạt được ý nguyện trên phương diện thương mại như ông mong đợi qua các bài phóng sự hình ảnh của ông. Nhưng ông  lại thành công để cho thấy rằng có thể tìm thấy được một cái nhìn khách quan hơn trong cuộc xung đột Pháp-Việt, đó là  cái nhìn của một nhà khoa học gặp gỡ một nền văn hóa khác vào buổi bình minh của thế kỷ 20. Ông qua đời vì bệnh cúm truyền nhiễm vào ngày 11 tháng giêng năm 1911 ở tuổi năm mươi tám.

(*) Đây là  phương pháp in chụp không thay đổi được nhằm thay thế các bản in bạc và cho phép phân phối số lượng lớn với chi phí thấp hơn.

 

hocquard

 Version française

Charles Edouard Hocquard, médecin militaire et  reporter correspondant pour l’agence Havas au Tonkin de 1884 à 1886 nous a légué en héritage une collection de belles photos de la première guerre coloniale du Vietnam. Il a rapporté plus de 200 clichés composant une porte-folio de 80 planches en photoglyptie (*)publié en 1887. Il a relaté avec acuité et humour dans « Une expédition au Tonkin« , les anecdotes pittoresques avec les paysans de la région, la connaissance de la flore locale, les souvenirs  sur la guerre du Tonkin et sur le peuple vietnamien etc.. Il n’a pas obtenu le succès commercial escompté avec la publication de ses reportages photographiques.  Mais il a réussi à montrer qu’il est possible de trouver dans le conflit franco-vietnamien un autre regard plus objectif, celui d’un homme de science à la rencontre d’une autre culture à l’aube du  XXème  siècle. Il est décédé d’une grippe infectieuse le 11 Janvier 1911 à l’âge de cinquante huit ans.

(*):  Il s’agit d’un procédé d’impression photomécanique inaltérable destiné à remplacer les tirages argentiques et permettant la diffusion en grand nombre à des coûts moindres.

English version

Charles Edouard Hocquard, a military doctor and correspondent reporter for the Havas agency in Tonkin from 1884 to 1886, left us a legacy of a beautiful collection of photos from the first colonial war in Vietnam. He brought back more than 200 shots composing a portfolio of 80 photoglypty plates (*) published in 1887. He recounted with sharpness and humor in « An Expedition to Tonkin » the picturesque anecdotes with the local peasants, knowledge of the local flora, memories of the Tonkin war and the Vietnamese people, etc. He did not achieve the expected commercial success with the publication of his photographic reports. But he succeeded in showing that it is possible to find in the Franco-Vietnamese conflict another, more objective perspective, that of a man of science encountering another culture at the dawn of the 20th century. He died of infectious influenza on January 11, 1911, at the age of fifty-eight.

(*): This is a process of indelible photomechanical printing intended to replace silver prints and allowing large-scale distribution at lower costs.

Thành Thái (Version vietnamienne)

 

Version française

English version

Để tưởng nhớ một người đã cống hiến cả cuộc đời cho đất nước và người dân Việt qua bốn câu thơ Lục Bát:

Ta điên vì nước vì dân
Ta nào câm điếc một lần lên ngôi
Trăm ngàn tủi nhục thế thôi
Lưu đày thể xác than ôi cũng đành

Trước khi trở thành vua Thành Thái, ông được biết đến với cái tên Bửu Lân. Ông là con trai của vua Dục Đức, người đã bị hai vị quan nho giáo sát hại là Tôn Thất ThuyếtNguyễn Văn Tường và cháu trai của danh thần Phan Đinh Bình. Khi ông nầy vụng về chống lại sự lên ngôi của vua Ðồng Khánh bởi chính quyền thực dân, Ðồng Khánh  nhanh chóng trả thù sau đó bằng cách bức tử  một các hèn nhát vị quan này và quản thúc tại gia Bửu Lân và mẹ của ông ta trong nội cung ở điện Trần Võ để tránh mọi mầm mống của cuộc nổi dậy. Bởi vậy sau cái chết của Đồng Khánh và việc lựa chọn con trai của mình làm người kế vị  được thông báo bởi  chính quyền thực dân, mẹ của Bửu Lân rất ngạc nhiên và bật khóc vì bà vẫn còn  bị ám ảnh bởi ý tưởng rằng con trai của bà sẽ  có một  số phận tương tự như chồng bà, vua Dục Đức và cha bà  Phan Đình Bình. Nếu Bửu Lân được chọn thay thế các hoàng tử khác thì chắc chắn điều đó nhờ đến tài khéo léo của Diệp Văn Cương, người tình nhân của cô của ông, công chúa  công nữ Thiện Niệm bởi vì Diệp Văn Cương là thư ký riêng của khâm sứ Trung kỳ Rheinart. Ông nầy  được  khâm sứ giao trách nhiệm tìm kiếm  một thỏa hiệp với triều đình  trong việc chọn người để kế vị vua Ðồng Khánh.

Do đó, ông vô tình trở thành vị vua mới của chúng ta được gọi là Thành Thái. Ông sớm nhận ra quyền lực của  ông rất bị hạn chế.  Hiệp ước Patenôtre không bao giờ được tôn trọng. Ông cũng không có quyền hành chi cả  trong việc cai trị và điều khiển đất nước. Khác với vua Ðồng Khánh, người gần gũi với chính quyền thực dân, ông  thường  kháng  cự  thụ động bằng cách chống đối  triệt để chính sách của chính quyền qua  những nhận xét khiêu khích và  những cử chỉ không thân thiện.  Người ta ghi nhận được một cuộc chạm trán đầu tiên của ông với  khâm sứ Alexis Auvergne ở thời điểm khánh thành cái cầu mới bắc qua sông Hương. Tự hào về  kỳ công kỹ thuật và sự vững chắc của cái cầu, Alexis Auvergne không ngần ngại  trả lời với thái độ ngạo  nghễ: Khi nào cầu nầy sụp đổ thì nước ngài sẻ được độc lập.

Pont Tràng Tiền

Để cho thấy sự quan trọng mà chính quyền thực dân đã dành cho cái cầu mới này, họ đặt cho nó một cái tên mới là cầu « Thành Thái ». Điều này khiến làm Thành Thái tức giận vô cùng vì ông viện cớ rằng từ nay mọi người có thể giẫm đạp lên đầu ông ta qua  cái cầu này. Ông cấm mọi người  gọi  cầu nầy bằng tên mới và xúi giục họ sử dụng tên cũ « Tràng Tiền ». Vài năm sau, trong một cơn bão dữ dội năm thìn, cái cầu nầy bị sập. Thành Thái nhanh chóng nhắc nhở lại câu nói của  Alexis Auvergne với sự hài hước  hóm hỉnh của ông. Alexis Auvergne đỏ mặt xấu hổ và buộc phải lánh trốn trước những lời  nói khó chịu này. Sự bất đồng ý kiến với chính quyền càng ngày càng gia tăng với sự thay thế đổi khâm sứ cũ  bởi ông Sylvain Levecque. Ông nầy không lãng phí thời gian nhiều trong việc thiết lập một mạng lưới giám sát chặt chẽ kể từ khi ông biết rằng Thành Thái tiếp tục gần gũi người dân thông qua các cuộc cải cách và việc cải dạng thường xuyên làm người dân  thường. Ông là vị vua đầu tiên của Việt Nam chủ động cắt tóc ngắn và mặc y phục theo phương cách của người châu Âu. Điều này đã làm kinh ngạc rất nhiều quan lại và quần chúng khi ông xuất hiện lần đầu tiên. Nhưng đó cũng là vị vua  đầu tiên khuyến khích người dân nên theo đuổi  học tiếng Pháp. Ông là  người đề xướng ra một số thành tựu kiến ​​trúc (chợ Đông Ba,  Quốc học Huế, bắc cầu Trường Tiền vân vân..). Ông cũng là  vị vua đầu tiên của triều Nguyễn quan tâm nhiều  đến cuộc sống và thấu hiểu những khó khăn hàng ngày của người dân. Được biết, trong một chuyến du ngoạn mà ông được hộ tống, ông gặp một người nghèo trên đường đang gánh nặng các bó củi. Vệ sĩ của ông dự định dọn lối đi cho ông nhưng ông ta ngăn lại mà nói:

Chúng ta  đâu có được làm công dân hay hoàng đế ở đất nước này đâu. Tại sao chúng ta phải đuổi  người ta đi? Trong những chuyến du ngoạn  ở ngoài thành ông thường ngồi trên chiếu, được bao xung quanh bởi dân làng và  tranh luận cùng họ về bất cứ câu hỏi nào. Đó là cũng một trong những chuyến du ngoạn nầy mà ông mang về Tử Cấm Thành một người phụ nữ trẻ tuổi đồng ý kết hôn và trở thành sau đó một cung phi của ông. Thành Thái rất nổi tiếng và xuất sắc trong việc chơi trống. Đây là lý do tại sao ông không ngần ngại  triều tất cả những tay trống giỏi nhất trong cả nước đến nội cung, yêu cầu họ chơi trống giữa triều đình và ban thưởng tiền cho họ rất nhiều. Được biết, một ngày trời đẹp ông bắt gặp một tay trống  hay  thường lắc đầu khi lúc chơi trống. Muốn giúp anh chàng sửa chữa cái thói quen này, ông mới nói đùa với anh chàng nầy: Nếu ngươi tiếp tục chơi theo cách này một lần nữa, trẩm phải mượn đầu của ngươi đấy.Từ đó trở đi, tay trống nầy  không ngừng lo sợ được triệu tập lần sau khiến  lo lắng và chết đi sau đó vì một cơn đau tim. Khi  biết cái chết của tay trống này, Thành Thái rất hối hận, triệu tập gia đình của tay trống và cho họ một khoản tiền lớn để đáp ứng lại nhu cầu hàng ngày. Cách nói đùa, việc ngụy trang thường xuyên, các cử chỉ đôi khi kỳ lạ và khó hiểu của ông khiến chính quyền thực dân  và các quan ở trong triều có cơ hội  để nói là ông bị mất trí.

Tương tự như Tôn Tẩn sống ở thế kỷ thứ nhất của thời Chiến Quốc (Trung Quốc) và nhờ sự giả điên mà đã trốn thoát khỏi người bạn vô ơn Bàng Quyên và đánh bại  Ngụy quốc trong vài năm sau, Thành Thái, thay vì tự bảo vệ mình trước sự vu khống có chủ ý này, cũng nghĩ rằng điên rồ là  một phương tiện che chở và ngăn chặn có hiệu quả nhất chính sách của chính quyền thực dân qua các hành động điên rồ của mình. Nhờ vậy ông mới có thể hành động đằng sau hậu trường bằng cách tuyển mộ một đội quân gồm các cô gái trẻ, vai trò của họ không bao giờ được làm sáng tỏ và  chờ đợi thời điểm thuận lợi cho cuộc nổi dậy nhân dân. Nhưng ông không bao giờ có thời gian để thực hiện tham vọng của mình bởi vì được sự đồng ý của  thượng thư  bộ lai thời đó, Trương Như Cương, chính quyền thực dân đã lợi dụng sự điên rồ trá hình của ông mà buộc ông phải thoái vị và nhờ thượng thư Trương Như Cương lo việc thành lập  một phụ nhiếp chính dưới sự điều khiển của khâm sứ Pháp. Trước sự từ chối quyết liệt của Trương Như Cương,  lòng trung thành  vững chắc của ông đối với triều Nguyễn và yêu sách của ông tôn trọng tuyệt đối hiệp ước Patenôtre, chính quyền thực dân buộc lòng phải chọn một trong những đứa con của Thành Thái lên làm vua được  biết về sau dưới cái tên “Duy Tân”.

Về phần Thành Thái, ông bị  đày đầu tiên đến Vũng Tàu (Cap St Jacques cũ) vào mùa thu năm 1907 và sau đó đến đảo La Réunion cùng con trai của ông, vua Duy Tân vào năm 1916.  Ông chỉ được phép trở về Việt Nam vào năm 1945 sau cái chết của vua Duy Tân và bị cầm giữ lại ở Vũng Tàu miền Nam Việt Nam trong những năm cuối đời.
Có thể nào xem ông  như là kẻ mất trí  khi chúng ta biết rằng qua bài thơ của ông có tựa đề « Hoài Cổ« , Thành Thái rất minh mẫn và không ngừng  bày tỏ nổi đau trước tình trạng nghiêm trọng của  đất nước? Những bài thơ  thất ngôn bát cú như Vịnh trận bão năm thìn hay Cảm hoài không những  thể hiện sự  thông thạo hoàn hảo của ông trong việc sử dụng các quy tắc chặt chẽ và khó làm của thơ ca Việt Nam  mà còn là niềm tự hào của một vị vua yêu nước.  Dù bị lưu đày gần nửa thế kỷ (1907-1954) bởi chính quyền thực dân, ông vẫn tiếp tục thể hiện niềm tin vững chắc trong cuộc giải phóng đất nước và dân tộc. Chúng ta đã cảm nhận được thông qua ông, ở trên mảnh đất huyền thoại  nầy,  sự thành hình các công cụ của cuộc nổi dậy trong tương lai.

Đối với ông, căn bệnh nan y của ông chỉ nhằm mục đích muốn đạt được ý đồ vĩ đại, muốn khôi phục lại  phẩm cách cho người dân Việt chờ đợi từ lâu nay và muốn thể hiện cho hậu thế sự hy sinh và cái giá mà ngay cả người được xem là mất trí  bởi chính quyền thực dân phải trả cho đất nước này với 47 năm lưu đày. Ông không thể nào khôi phục lại được từ « căn bệnh điên » này trong bối cảnh chính trị thời bấy giờ.

Cho đến ngày hôm nay, không có tài liệu lịch sử nào chứng minh sự  điên rồ của vua Thành Thái mà nó chỉ cho chúng ta thấy được sự mất trí của một vị vua vĩ đại vì quá yêu thương đất nước và dân tộc và nổi thống khổ muôn thưở của một nhà yêu nước trước  vận mệnh quốc gia.

 

 

 

 

 

Les Lô Lô (Version vietnamienne)

Version française

English version

 

Được biết ở Trung Quốc với tên Yi và còn được gọi là Mùn Di, Màn Di, La La, Qua La, Ô Man, Lu Lộc Mà bởi người Việt, dân tộc Lô Lô  thuộc  nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến. Họ sống  phân bố ở các vùng núi của Trung Quốc (Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu và Quảng Tây) trừ một  thiểu số  đến từ  Vân Nam định cư ở thượng bắc bộ  Việt Nam (Hà Giang, Cao Bằng, Đồng Văn, Lào Cai) với hai   luồng di trú diễn ra ở thế kỷ 15  và  thế kỷ 18. Hiện nay,  dân số của dân tộc này có khoảng 4.300  người ở Việt Nam. Theo các nhà dân tộc học, người Lô Lô là hậu duệ của những người du mục và người chăn cừu Khương tộc di cư từ miền đông nam Tây Tạng đến định cư ở Tứ Xuyên (Sichuan) rồi xuống Vân Nam.

彝族  (Dân tộc Lô Lô)


Vào thời Xuân Thu,  dân tộc LôLô vẫn còn chiến tranh với cư dân ở Hoàng Hà, tổ tiên của người Hoa. Sự bành trướng của họ bị chặn đứng  lạ bởi quốc quân  Tần Mục Công của nước Tần trong khoảng từ -660 đến -621 và là một trong năm bá chủ nổi tiếng ở thời kỳ này nhờ sự hỗ trợ của tướng quốc tài ba Bách Lý Hệ còn được gọi là  Ngũ Cổ đại phu.
dantoc_lolo_1
Người dân Lô Lô chia ra hai nhóm: Lô Lô Hoa và Lô Lô Đen. Chúng ta có thể phân biệt các nhóm nầy vì mỗi nhóm mặc quần áo hơi khác nhau. Trang phục nữ tính của Lô Lô Hoa được  gồm có áo cổ tròn xẻ ngực mà hoa văn ghép vải hình tam giác hay vuông màu thì rất sặc sở có đỏ xanh tím dọc theo ngực và sau lưng cùng mũ được trang trí khéo léo và  quần ống què  trong khi đó các phụ nữ Lô Lô Đen thì mặc váy,  áo cổ vuông với tay áo màu sọc vàng, hồng hoặc xanh lá cây và khăn quàng cổ. Còn nam giớ thì trang phục rất giản dị. Tất cả sống trồng lúa nước và làm nương rẫy chủ yếu là ngô, gạo nếp và gạo tẻ được tìm thấy ở các vùng Đồng Văn,  Mèo Vạc, Bảo Lạc (Cao Bẳng) hay  Mường Khương (Lào Cai). Có nơi  họ sử dụng các ruộng bậc thang. Thức ăn chính của họ vẫn là bột ngô xay được đun cách thủy. Canh không thể thiếu trong bữa ăn của họ vì vậy họ phải sử dụng bát thìa bằng gỗ.

Một trong 54 dân tộc thiểu số Việt Nam

Nói chung, các ngôi nhà Lô Lô nằm ở những nơi vừa cao vừa khô trên các thung lũng. Họ thích sống ven những khu rừng rậm rạp vì đối với họ, rừng và suối được coi là nơi sinh sống của các thổ thần. Đây là những người thích sống hòa hợp với thiên nhiên. Họ thích sử dụng gùi có hai dây đai làm bằng mây hoặc loại tre (giang) để vận chuyển đồ đạc Họ thích kết hôn với người dân tộc của họ. Họ có một tục kết hôn kỳ lạ  gọi là chế độ ngoại hôn trong trường hợp hôn nhân diễn ra giữa những người có dòng dõi khác nhau. Người Lô Lô  thường là một vợ một chồng. Cô dâu sống  bên gia đình chồng. Ngoại tình bị lên án trong truyền thống của họ. Mặt khác, việc hôn nhân anh em chồng  được dung thứ vì em trai của người quá cố có thể lấy chị dâu làm vợ. Tương tự, con trai của cô bên nội được phép kết hôn với con gái của cậu ruột (cậu) nhưng nghiêm cấm làm điều trái ngược lại.

    Nghệ thuật tạo hoa văn

Trong gia đình, mọi việc đều do người chồng quyết định. Con gái thừa hưởng trang sức từ mẹ và nhận của hồi môn ở thời điểm kết hôn. Về phần thừa kế hợp lý, tất cả thuộc về  các đứa con trai của gia đình. Khi một người qua đời, gia đình tổ chức một nghi lễ để giúp linh hồn của người quá cố  tìm thấy con đường dẫn họ trở về đoàn tụ với tổ tiên của họ. Được biết đến như là « điệu nhảy của các hồn ma », vũ điệu nhịp nhàng này được dẫn dắt bởi con  rể mang trên vai một chiếc túi chứa một quả bóng bằng vải tượng trưng  cái đầu của người quá cố. Đôi khi thay vì quả bóng chúng ta tìm thấy một miếng gỗ hoặc một quả bí đao được vẽ hình người quá cố. Điều này cho thấy dấu ấn của phong tục săn đầu người vẫn còn tồn tại  ở  dân tộc Lô Lô. Trong đám tang,  người con rể này phải  phụ khiêng một góc cạnh của quan tài và cùng các anh em của người góa phụ  còn phải ném những nắm đất đầu tiên vào mộ của người quá cố.

Người Lô Lô phân biệt rất rõ ràng giữa tổ tiên gần (dưới 5 thế hệ) và tổ tiên xa. (kể từ thế hệ thứ sáu). Đối với các tổ tiên gần gũi, có luôn một bàn thờ sạch sẽ trong mỗi gia đình trong khi đối với các tổ tiên xa, các nghi thức được diễn ra trong ngôi nhà của người đứng đầu dòng dõi ( hay trưởng tộc). Tương tự như người  dân Việt, người Lô Lô có trống đồng mà họ chỉ sử dụng khi có các đám tang. Những chiếc trống này luôn có cặp: một nam và một nữ được đặt đối diện nhau trên cái giá khiêng nằm ở bên cạnh chân của người chết. Sau đó, có một người đánh trống đứng giữa và đánh xen kẽ với một cái dùi. Một nhịp cho trống nam, một nhịp khác cho trống nữ, toàn bộ được đánh  với nhịp điệu đều đặn.

Người đánh trống phải là một người độc thân hoặc một người đàn ông đã có vợ mà vợ không có thai ở thời điểm tang lễ. Được coi là một nhạc cụ thiêng liêng, trống được chôn hoặc giấu ở một nơi vừa sạch sẽ vừa kín đáo. Chỉ người đứng đầu dòng họ biết nơi chôn giấu. Đối với người Lô Lô, có một truyền thuyết liên quan đến trống đồng:

Có một lần có môt trận lụt dìm ngập đất nước và  các cư dân. Trời thương xót  người chị lớn  cùng đứa em trai sắp chết và giúp họ bằng cách trợ người chị lớn vào cái trống đồng lớn và người em  trai  vào cái trống  nhỏ. Các chiếc trống không bị  chìm bởi trận lụt này, nhờ  thế  cứu được hai  chị em nầy. Sau trận lụt, họ  lánh nạn trên núi và kết hôn. Do đó, họ trở thành tổ tiên của loài người được hồi sinh.

Tương tự như người  dân Việt  và người Hoa,  người Lô Lô cũng ăn mừng năm mới  và có thêm  các lễ hội và các nghi thức khác như  lễ được lúa mới. Chúng ta cũng đừng quên nhắc đến điệu nhảy dưới  ánh trăng, một điệu nhảy có thể kéo dài suốt đêm và tập hợp một phần lớn các cô gái và các cậu trai trong làng hoặc một nhóm các cô gái trẻ  hay nhóm phụ nữ đã kết hôn. Điệu nhảy bắt đầu sự thành hình một vòng tròn với các vũ công và vũ nữ. Họ đặt tay mỗi người  lên vai người khác và họ được kèm theo các bài hát và họ nhảy múa gỉa vờ làm lại các tác động hàng ngày như giã gạo, hái trái cây hoặc thêu vân vân … Là  một trò tiêu khiển của giới trẻ, điệu nhảy dưới ánh trăng diễn ra ở giữa làng hay ở vùng đất gần đó, đôi khi còn có thể kéo dài cho đến bình minh.

butviet Dân tộc Lô Lô  tuy không có đông ở Việt Nam, nhưng  họ được phân biệt dễ dàng  với các nhóm dân tộc khác  nhờ các trang phục hoa văn sặc sở  và sự gắn bó sâu sắc với thiên nhiên.

Dương Vân Nga (La reine des deux dynasties Đinh et Lê antérieur)

Version française

Thái hậu
Dương Vân Nga

Chúng ta ít khi nói về Dương Vân Nga trong lịch sử Việt Nam. Tên của bà ít được trích dẫn hơn so với hai bà Trưng TrắcTrưng Nhị hoặc Triệu Ẩu. Tuy nhiên, bà là một người phụ nữ khác thường, một bà hoàng hậu vĩ đại của hai triều đại đầu tiên  Đinh và Tiền Lê ở Việt Nam. Cuộc đời của bà cũng như sự nghiệp, chúng ta có thể tóm tắt lại qua bốn câu thơ sau đây được truyền khẩu cho đến ngày hôm nay và được một nhà sư bí ẩn để lại ở trên tường của tu viện Am Tiên, được đúng một ngàn năm xưa, khi gặp bà Dương Vân Nga:

Hai vai gồng gánh hai vua
Hai triều hoàng hậu, tu chùa Am Tiên
Theo chồng đánh Tống bình Chiêm
Có công với nước, vô duyên với đời

Trong số mười hoàng hậu của hai triều đại này, bà là người duy nhất được phép có một tượng hình. Tượng này, trong thời gian phục hồi và chuyển qua đền thờ dành riêng cho vua Lê Hoàn, vào đầu triều đại Hậu Lê đã bị rĩ một cách kỳ lạ, có lẽ là do tượng bị phơi nắng bất ngờ và đặt trong một thời gian dài ở một nơi ẩm ướt. Hiện tượng này người ta cho là sự đau đớn cùng cực mà cuộc đời dành cho bà, khi lúc bà còn sống.

Tên thật của bà là Dương Thị Vân Nga. Đây là tên mà người ta cho rằng được đặt từ sự liên kết của tên vùng đất của cha bà là Vân Long và của mẹ là Nga Mỹ. Bà xuất thân từ một gia đình rất nghèo. Bà phải khổ cực tìm kiếm cũi ở trong rừng từ khi còn trẻ và bắt cá trên sông để cung cấp cho sinh hoạt của gia đình ở một vùng núi hiểm trở. Sáng sớm thì ở trong rừng, chiều tối thì ở dưới sông, bà sớm trở thành một cô gái trẻ trong làng.
Nàng có một khả năng tổ chức bẩm sinh khiến cho phép nàng trở thành một nữ tướng của một nhóm cô gái trẻ ở trong khu vực của nàng vài năm sau đó. Nàng xoay sở rất giỏi để chống cự lại một đạo quân đối thủ gồm toàn những cậu con trai chăn trâu dưới quyện lãnh đạo của một chàng trai trẻ gan dạ và thông minh Đinh Bộ Lĩnh bằng cách làm cháy đuốc nứa nổ khiến làm tháo chạy tứ tung đàn trâu của anh chàng Đinh nầy và nhờ có các thuyền thúng khiến các nữ binh vận chuyển nhanh chóng thông qua sông và đầm lầy. Nhưng Đinh Bộ Lĩnh vẫn có lời nói cuối cùng nhờ mưu mẹo của chàng. Anh dùng sào và thuyền nhẹ làm bằng thảm tre để chọc thủng thuyền và làm bất động tất cả các thuyền thúng của Dương Vân Nga. Từ đó trở đi, Ðinh Bộ Lĩnh giành được không chỉ sự ngưỡng mộ của Dương Vân Nga mà cả tình yêu của nàng. Đây là lý do để gợi lên ngày nay, mối quan hệ vợ chồng và món nợ ban đầu của một cặp vợ chồng, người ta thường nhắc đến câu nói phổ biến sau đây: « Thuyền tre đè thuyền thúng« ).

Thuyền thúng

Nhờ sự liên kết của hai vợ chồng, họ thành công qui tụ tất cả những người trẻ của Hoa Lư dưới bóng ngọn cờ lau của họ và không lâu sau đó  loại trừ các đối thủ lợi hại trong cuộc chinh phục quyền lực. Nhờ thế Đinh Bộ Lĩnh trở thành vị vua đầu tiên của triều đại Đinh thường được gọi là Ðinh Tiên Hoàng. Ông ấy rất độc đoán và hay thường sử dụng chức vụ và lương bổng để mua chuộc lòng trung thành của các cấp dưới nhưng ông cũng thường dùng vũ lực và những hình phạt tàn khốc không thể tưởng tượng được để trừng phạt các đối thủ và những kẻ dám chỉ trích ông ta.
Bất chấp lời khuyên của Dương Vân Nga, ông vẫn tiếp tục điềm tĩnh và tạo ra có nhiều kẻ thù ngay cả trong gia đình. Thay vì phong chức thái tử cho con trai cả của ông, Đinh Liễn, người đã gíúp ông rất nhiều năm trong cuộc đấu tranh để thống nhất đất nước, ông lại chọn con trai kế Đinh Hoàng Lang làm thái tử. Điều này dẫn đến sự tức giận và ganh tị của Ðinh Liễn và thúc đẩy đến việc ám sát em trai của mình. Dương Vân Nga lần đầu tiên chứng kiến cuộc tranh chấp điên cuồng giữa các đứa con của mình, sau đó là lại thêm cái chết của chồng bà, vua Đinh Tiên Hoàng và con trưởng Đinh Liễn bị ám sát bởi tên quan lại cuồng tưởng Đỗ Thích, tin rằng vương quốc nầy thuộc về hắn  qua giấc mộng.  Tên sát nhân nầy bị tầm nã ba ngày liên tục trước khi khám phá nằm dưới mái nhà và bị kết án tử hình bởi  tể tướng Nguyễn Bặc. Giả thuyết nầy không thuyết phục chi cho mấy ngày nay. Các sử gia như Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vĩ hay  Lê Văn Siêu nhận thấy sự ám sát Đinh Tiên Hoàn có bàn tay của thống soái Lê Hoàn với sư đồng lõa của Dương Vân Nga. Sự tham vọng của Đỗ Thích  có phần quá đỗi và tột cùng bởi vì Đỗ Thích đâu có quân ngũ như Lê Hoàn. Ông còn là nhân vật duy nhất chứng kiến sự tàn sát nầy vì ông là thái giám của Đinh Tiên Hoàng.  Qua  lời tường thuật lịch sử, ông không có đồng lõa nào cả.  Thật đáng nghi ngờ  trong  cách lý luận nầy. Bà còn đau đớn thay  khi  nhìn thấy nỗi khốn khổ của con gái mình, công chúa Phật Kim bị chồng Ngô Nhật Khánh  thuộc dòng họ của tướng  quân Ngô Quyền bỏ rơi và  trốn sang Chiêm Thành để cầu viện quân nước nầy để chống lại đất nước mình, nhầm giành lại quyền lực mong muốn.

Tại sao Ngô Xuân Khánh chạy sang Chiêm Thành để  cầu viện binh chống lại xứ sở của mình? Tại sao Trung Hoa viện cớ để xâm lược nước Việt Nam? 

Nên nhớ rằng Đinh Tiên Hoàn đã thành công trong việc thống nhất đất nước vào thời điểm đó là nhờ ông áp dụng một chính sách cơ bản dựa trên sự kết hợp giữa sự mềm dẻo và liên minh đối với các lực lượng nổi dậy từ dòng họ của danh tướng Ngô Quyền để có sự ủng hộ của nhân dân Việt Nam trong việc chinh phục  quyền lực. Đó là lý do tại sao ông đồng ý gả con gái Phất Kim cho Ngô Xuân Khánh và lấy mẹ và em gái của Ngô Xuân Khánh làm vợ và cho con trai cả củA mình, Đinh Liễn. Cùng với mẹ của Ngô Xuân Khánh, ông có một đứa con trai tên là Đinh Hạng Lang. Để lấy lòng Ngô Xuân Khánh và mẹ, ông chọn Đinh Hạng Lang làm thái tử thay vì cho con trai cả của mình Đinh Liễn. Sự sai lầm tai hại này đã khiến Đinh Liễn tức giận và ra tay ám sát em trai của mình Đinh Hạng Lang. Thay vì xử tội Đinh Liễn, Đinh Tiên Hoàng lại tha tội cho con khiến làm Ngô Xuân Khánh hết còn hi vọng cướp quyền hành một ngày nào  ở người em trai còn nhỏ tuổi cùng mẹ khác cha,  Đinh Hạng Lang như Vương Mãng ở thời nhà Hán khi vua Đinh Tiên Hoàng qua đời. Chính vì vậy Ngô Xuân Khánh mới trốn qua Chiêm Thành để  xin viện binh và để giành lại quyền lực mong muốn. Còn nhà Tống đây là cơ hội hiếm có để chiếm lại nước An Nam vì nhà Tống chỉ công nhận Đinh Liễn là người kế vị duy nhất nên phong cho Đinh Liễn chức vị là « Nam Việt vương« .

Phong cảnh hữu tình của Ninh Bình 

 Bởi vì đứa con trai út còn nhỏ tuổi (6 tuổi) Ðinh Toàn, Dương Vân Nga  phải đảm nhận chức vụ nhiếp chính với tướng quân Lê Hoàn. Nhưng bà gặp ngay sự kháng cự vũ trang từ những người ủng hộ Đinh Tiên Hoàng bị sát hại, muốn loại trừ Lê Hoàn bằng mọi giá và bà phải đối mặt không chỉ với mối đe dọa và cuộc xâm lăng  của nhà Tống mà luôn cả với Chiêm Thành. Bà phải đối mặt với một vấn đề nan giải mà người phụ nữ dường như khó vượt qua nổi khi bà sống ở trong thời đại Khổng giáo và khi Việt Nam mới được giải phóng chỉ có mười năm ra khỏi sự thống trị của Trung Quốc. Bà rất can đảm đưa ra một quyết định có vẻ khả nghi vào thời điểm đó và gây ra nhiều hậu quả tai hại cho triều đại nhà Đinh bằng cách nhường lại ngai vàng cho tướng quân Lê Hoàn và liên kết với ông trong việc quản lý  Đại Cồ Việt. Điều này làm  Lê Hoàn có được sự ủng hộ phần lớn của quần chúng và khôi phục lại không những  lòng tự tin mà còn có luôn sự đoàn kết của cả dân tộc. Nhờ đó, ông thành công trong việc đàn áp cuộc nổi loạn (Nguyễn Bặc, Đinh Điền), tiêu diệt quân Tống trên sông Bạch Đằng, khởi đầu hành trình « Nam Tiến » và khôi phục lại hòa bình cho đất nước. Chúng ta cần phải tự đặt mình vào bối cảnh chính trị bối rối này mà Dương Vân Nga thừa  biết để nhận thấy rằng đây là một hành động được suy nghĩ kĩ càng và sự can đảm lạ thường của một người phụ nữ, được đào tạo cho đến giờ để sống trong khuôn khổ của Khổng giáo, dám chấp nhận sự nhục nhã và khinh miệt để đảm bảo rằng đất nước nầy không bị trở lại dưới ách thống trị của Trung Quốc và Việt Nam không rơi vào tình trạng hỗn loạn chính trị.

Cuộc chiến của bà có vẻ khó khăn hơn so với hai bà Trưng Trắc Trưng Nhị vì đây không chỉ là cuộc chiến chống quân xâm lược mà còn chống lại cả lợi ích riêng tư và tình cảm cá nhân của bà. Dưới triều đại của Lê Hoàn, bà không ngừng khuyên ông thực hành chính sách khoan hồng đối với các đối thủ của mình, xóa bỏ đi những hình phạt tàn khốc mà Ðinh Tiên Hoàn thiết lập và trọng dụng các thiền sư tài năng như Khuông Việt Ngô Chấn Lưu, Hồng Văn, Vạn Hạnh) trong việc quản lý đất nước. Tính tình rất hiếu chiến nên có tên là Lê Đại Hành, ông tiếp tục mở rộng bờ cõi Việt Nam bằng cách tiến hành không chỉ một cuộc viễn chinh trên biển phá hủy thủ đô Chiêm Thành Indrapura ở miền trung Việt Nam ngày nay vào năm 982 và giết đi vua chàm Bề Mị Thuế (Paramec Varavarman) mà cũng là một chính sách bình định toàn diện ở các lãnh thổ của các dân tộc thiểu số. Chính tại ở một trong các lãnh thổ nầy người con trai cuối cùng của Dương Văn Nga và Ðinh Tiên Hoàng, Ðinh Toàn đã bị ám sát thay thế cho Lê Hoàn bởi người Mán. Cái chết này tiếp theo sau đó việc tự sát của con gái bà, Công chúa Phật Kim và cái chết vì bệnh của con trai bà Long Thâu mà bà có với Lê Đại Hành. Bà bị dồn dập đau khổ bởi sự ra đi liên tiếp của những người xung quanh bà mà bà không nao núng một chút nào cả. Bà dành những ngày cuối đời ở tu viện Am Tiên và chôn vùi những nỗi đau cá nhân của một người phụ nữ đối mặt một mình với số phận.

Chúng ta có công bằng đối với một người phụ nữ yêu nước như Dương Vân Nga mà bị số phận áp đảo hay không, có được công đức nào trích dẫn xứng đáng như hai bà Trưng, Trưng Trắc và Trưng Nhị hay không trong lịch sử Việt Nam? Đây có phải là một điều thiếu sót cố ý vì sự vi phạm giáo điều của Dương Vân Nga kết hôn và phục vụ hai vị vua trong một xã hội phong kiến và Nho giáo của chúng ta không? Chúng ta không thể xóa bỏ được sự thật của lịch sử, nhất là các chi tiết của nó mà nhà sử học Trung Quốc Tư Mã Thiên thường nói.

Đã đến lúc phải trả lại cho Dương Vân Nga sự công bằng và địa vị xứng đáng từ lâu trong trang lịch sử của chúng ta và để các thế hệ tương lai nhận thức được sự quyết định dũng cảm và sáng suốt này. Điều này, mặc dù có vẻ bất minh và vô đạo đức đối với xã hội Khổng giáo, được thực hiện vào thời điểm mà tình hình chính trị đòi hỏi hơn bao giờ hết sự đoàn kết và thống nhất của cả một dân tộc trước sự xâm lược của ngoại bang mà còn phải cần có một nhân tài xuất chúng như vua Lê Đại Hành của chúng ta. Không có ông, cuộc Nam Tiến sẽ không bao giờ được thực hiện cả.

Đồng Bằng sông Cửu Long (Delta du Mékong)

Cửu Long nơi có chín rồng
Có sông nhiều cá có đồng lúa xanh
Thưở xưa là đất tranh giành
Người Nam nhắc đến không đành lìa xa

Version française
English version

 

Vùng đất nầy thưở xưa là lãnh thổ cũ của vương quốc Phù Nam. Người dân cư ở đồng bằng sông Cửu Long đến từ  sự hỗn hợp của  nhiều dân tộc Vietnam trong đó có người Kinh, người Hoa, người Chămpa và người Cao Miên.  

Một phần năm dân số sống ở đồng bằng này. Các hecta nhỏ nhất, các lô đất ít trồng trọt nhất của đồng bằng nầy cũng được khai thác bởi người bản xứ. Chính tại đây, chúng ta tìm thấy vô số tôn giáo: Phật giáo, Công giáo, Cao Đài giáo, Hồi giáo và Hoà Hảo giáo. Được tưới  nước bởi sông Cửu Long, vùng đồng bằng này đã sản xuất chỉ riêng nửa số gạo của Việt Nam, khiến quốc gia này trở thành  một nước xuất khẩu gạo nhiều nhất  thứ ba ở trên thế giới.

Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay được chia thành 12 tỉnh:

Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau.

Trước khi trở thành một phần đất không thể thiếu của Việt Nam, đồng bằng sông Cửu Long này thuộc về người dân  Khơ Me. Những người dân Việt định cư đầu tiên chỉ xuất hiện từ thế kỷ 16 trên lãnh thổ này, một vùng đầm lầy cho đến thời điểm đó  có nhiều cá sấu và rừng cây đước. Chỉ đến thế kỷ 17, lãnh thổ này mới thuộc về người dân Việt dưới sự lãnh đạo của nhà Nguyễn. Đây cũng là nơi mà có các cuộc chạm trán kịch liệt giữa quân Tây Sơn và những người theo chúa Nguyễn được sự hỗ trợ của các lính đánh thuê mà được đức giám mục Pigneau de Béhaine (Cha Cả) tuyển dụng vào cuối thế kỷ 18.

Ở vùng đồng bằng này có một hệ thống kênh rạch và sông tổng cộng được 4.000 cây số, tương đương với chiều dài của sông Cửu Long. Sông nầy được sinh ra từ các ngọn núi  đầy tuyết phủ của Tây Tạng ở tỉnh Thanh Hải, chạy xuyên hơn  4500 cây số  để đến đồng bằng và đi ngang qua sáu quốc gia: Trung Quốc, Miến Điện, Lào, Thái Lan, Kampuchia và Việt Nam. Nó được chia ra thành hai nhánh ở thủ đô của Cao Miên, Nam Vang: Tiền giang và Hậu giang (Bassac) chảy vào Việt Nam một cách riêng rẽ. Thượng lưu của sông Tiền chia thành bốn nhánh tại Vĩnh Long để chảy ra biển Đông.

 

  

Tọa lạc ở trung tâm của xứ Cao Miên, Biển Hồ (hay là Tonlé Sap) không chỉ là nơi điều tiết dòng chảy tự nhiên để ngăn chặn lũ lụt của đồng bằng mà còn là bể cá tự nhiên. Vào mùa hè, do những cơn mưa gió mùa, mực nước sông Mê Kông được nâng lên so với hồ nước và được nối liền với nhau qua một con kênh. Nhờ vậy biển Hồ được lấp đầy, từ 3000 km2 vào mùa nước thấp đến hơn 10.000 km2 vào cuối mùa mưa. Biển Hồ bắt đầu đổ nước ra  đồng bằng vào những ngày hết mưa. Đồng bằng sông Cửu Long không cần những công trình phát triển lớn hay là các con  đê để  chống lũ lụt  cũng như là một việc rất cần thiết với đồng bằng Bắc Bộ. Chính nhờ hệ thống tưới nước  của sông Cửu Long mà đồng bằng rất màu mỡ. Ở nơi nầy có rất nhiều vườn tược, cánh đồng, ruộng lúa  và  vườn trái cây.

Đây là những mảnh đất nhỏ được tưới bởi các kênh đào được liên kết với nhau bằng những cây cầu tre thường được gọi là   Cầu khỉ  Khi nói đến đồng bằng, chúng ta thường nói cò bay thẳng cánh. Điều này có nghĩa là vùng đồng bằng rộng mênh mông đến mức những con sếu có thể dang rộng đôi cánh khi chúng bay trên đồng. Chính ở vùng đồng bằng này, tại Sa Đéc, mẹ của tiểu thuyết gia Pháp  Marguerite Duras, điều hành một trường nữ sinh. Một thanh niên gốc Hoa  xuất thân từ một gia đình danh giá cũng sống ở đó. Anh nầy trở thành nhân vật chính của tiểu thuyết « Người tình ». Cuốn tiểu thuyết này đã làm bà Marguerite Duras trở thành một nhà văn hào nổi tiếng của văn học Pháp với giải thưởng Goncourt vào năm 1984 và bán được một triệu ba trăm nghìn quyển  trong phiên bản thông thường của nhà xuất bản “Editions de Minuit” và một triệu bản trong phiên bản  của tiệm sách “France-Loisirs”. Cũng ở vùng đồng bằng này, chúng ta  tìm thấy mỗi buổi sáng, hàng trăm con thuyền tập trung ở chợ nổi Phùng Hiệp  nằm ở ngã tư  của bảy con kênh theo hướng Cần Thơ đến Sóc Trăng hay các chợ ít tiếng tăm hơn như Cái Răng và Phong Ðiền, các phụ nữ đội nón lá cùng với các núi trái cây, các  đoàn vịt, gà và lợn đến chợ trên những chiếc thuyền nhỏ hoặc sử dụng phương tiện giao thông thô sơ (xe đạp, xích lô). Nhờ các vườn cây trái của đồng bằng mà chúng ta  tìm thấy một số lượng lớn của các loại trái cây như sau: xa pô chê, chôm chôm, khế, mãng cầu (hay na) vân vân … trên các chợ của Sài Gòn. Người ta  có thể nói rằng  vùng đồng bằng Cửu Long  nuôi dưỡng Sài Gòn và một phần lớn ở Việt Nam. Ở phía đông bắc của bán đảo, thì có Đồng Tháp Mười  mà một thời là nơi ẩn náu của Việt cộng và ngày nay trở thành vùng Camargue của châu Á.

Mặc dù thiếu sự giàu có trên phương diện khảo cổ, đồng bằng nầy vẫn tiếp tục đóng một vai trò kinh tế quan trọng đối với Việt Nam. Do đó, nó đã trở thành một vùng phải  đối đầu với  sự tranh chấp và thèm muốn  trong nhiều năm qua. Có một thời gian gần đây vùng đất nầy  mang  tên là Cochinchine (Nam Kỳ). Ngay cả Hồ Chí Minh, trong lúc ông còn sống, đã cho vùng nầy một tầm quan trọng  qua việc  chôn cất cha mình ở Sa Đéc. Có tên của những người lúc nào cũng nằm trong ký ức của người dân Việt như  Phan Thanh Giản, Võ Tánh, Nguyễn Trung Trực, Huỳnh Phú Sổ vân vân…   mà cũng  là những người xuất thân từ vùng đồng bằng nầy.


 Không có Đồng Bằng sông Cửu Long nầy Việt Nam không bao giờ có tự do và độc lập

vi đây là vựa lúa của

Việt Nam.  


La culture des vergers (Văn hóa miệt vườn)

La culture des vergers (Văn hóa miệt vườn)

Version vietnamienne
Version anglaise

Avant de devenir le delta du Mékong du Vietnam, ce territoire appartint au début de l’ère chrétienne au royaume de Founan durant 7 siècles. Puis il fut repris et inclus dans l’empire angkorien  au début du VIIIème siècle avant d’être rétrocédé au seigneur des Nguyễn au début du 17ème siècle par les rois khmers. C’est une région irriguée par un réseau de canaux et de rivières  permettant de fertiliser ses plaines par les dépôts d’alluvions au fil des siècles et de favoriser ainsi  la culture des vergers.   Le Mékong met en lutte perpétuelle le natif de son delta comme le Nil de l’Égypte avec son fellah. Il réussit à lui bâtir une identité « sudiste » et à lui octroyer une culture, celle que les Vietnamiens ont l’habitude d’appeler « Văn hóa miệt vườn (culture des vergers) ». Outre sa gentillesse, sa courtoisie et son hospitalité, le natif de ce delta montre un attachement profond à la nature et l’environnement.

Avec la simplicité et  la modestie dans la manière de vivre, il  accorde une place prépondérante  à la sagesse et  à la vertu dans l’éducation de ses enfants. C’est le caractère  particulier de ce fils du Mékong, celui des gens du Vietnam du Sud qui sont nés sur une terre imprégnée du bouddhisme theravada au début de l’ère chrétienne et qui sont issus du brassage de plusieurs peuples vietnamien, chinois, khmer et cham durant les deux derniers siècles. On ne s’étonne pas  d’entendre  des expressions bizarres  où il y a  le  mélange des  mots chinois,  khmers et vietnamiens.  C’est le cas de l’expression suivante:

Sáng say , Chiều xỉn , Tối xà quần

pour dire qu’on est soûl le matin, l’après-midi et le soir.  Le Vietnamien, le Chinois et le Cambodgien emploient  respectivement  say, xỉn, xà quần   dans leur langage pour signifier le même mot « soûl« .  Le même verre de vin peut  être bu à tous les moments de la journée   et partagé avec plaisir et fraternité par les trois peuples.

Le natif du delta du Mékong accepte facilement toutes les cultures et toutes les idées  avec tolérance. Malgré cela, il doit façonner au fil des siècles  ce delta  avec la sueur en transformant une terre jusque là inculte et peu peuplée en une terre riche en vergers d’agrumes et de fruits et surtout en un grenier à riz. Cela ne contredit pas ce qu’a écrit le géographe français Pierre Gourou, un spécialiste du monde rural en Indochine,  dans son ouvrage sur les paysans du delta  (1936):

C’est le fait  géographique le plus important du delta.  Ils réussissent  à modeler la terre de leur delta par leur labeur.

culture_verger

Avant d’être la Mésopotamie du Vietnam, le delta du Mékong était un  immense espace de forêts, de marécages  et d’îlots.   Il était un milieu apparemment inhospitalier foisonnant de diverses formes de vie et d’animaux sauvages (crocodiles, serpents,  tigres  etc.).  C’est le cas de l’extrême sud du  province de Cà Mau où se trouve aujourd’hui le deuxième mangrove du monde. C’est pourquoi on ne cesse pas de  raconter les difficultés rencontrées au  début de leur installation par les premiers arrivants vietnamiens dans les chansons populaires. 

Muỗi kêu như sáo thổi
Đỉa lội như bánh canh
Cỏ mọc thành tinh
Rắn đồng biết gáy.

Le bourdonnement des moustiques  ressemble au son d’une flûte,
les sangsues nagent à la surface de l’eau comme  le flottement des nouilles dans une soupe,
les herbes sauvages poussent comme les petits lutins,
les serpents des champs savent siffler. 

ou

Lên rừng xỉa răng cọp, xuống bãi hốt trứng sấu
Monter dans la forêt pour ramasser des dents de tigre, descendre sur le rivage pour ramasser des œufs de crocodile.

On décrit l’aventure des gens osant s’aventurer périlleusement  dans la forêt pour affronter les tigres et descendre dans le fleuve pour ramasser la ponte d’œufs des crocodiles. Malgré leur intrépidité, le danger continue à les guetter et à leur donner parfois  des frissons dans le dos si bien que le chant d’un oiseau ou le bruit de l’eau provoqué par le mouvement d’un poisson accentué par celui de la barque les font sursauter dans un milieu inhospitalier et complice de tous les dangers. Durant la période des moussons, dans certains coins du delta inondés, ils n’ont pas l’occasion de mettre leurs pieds sur terre  et doivent enterrer leurs proches  en suspendant les cercueils dans les arbres dans l’attente du retrait de l’eau ou dans l’eau elle-même pour que la nature s’en charge à travers les récits émouvants rapportés par le romancier célèbre Sơn Nam dans son best-seller « Hương Rừng Cà Mau« .

Tới đây xứ sở lạ lùng
Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng ghê.

C’est ici que de jour comme de nuit, la nuée de moustiques affamées est visible dans le ciel. C’est pourquoi on a l’habitude de dire dans une chanson populaire: 

Cà Mau là xứ quê mùa,
muỗi bằng gà mái, cọp tùa bằng trâu.

Cà Mau est une région campagnarde.  Les moustiques sont aussi grosses  que les poules et les tigres  sont comparables à des buffles.

Le courage et la ténacité font partie des qualités de ces natifs du delta  pour tenter de trouver une vie meilleure dans un environnement ingrat. Le grand  canal Vĩnh Tế  long de plus de 100km au début du 19ème siècle témoigne d’un projet pharaonique que les aïeux des natifs de ce delta  ont  réussi à réaliser durant cinq années ( 1819-1824 ) pour dessaler la terre et  pour relier  le Bassac du Mékong (Châu Ðốc) jusqu’à l’embouchure Hà Tiên  (Golfe de Siam) sous la direction du gouverneur Thoại Ngọc Hầu. Plus de 70.000 sujets vietnamiens,  chams et khmers ont été mobilisés  et enrôlés de force dans cette réalisation. Beaucoup de gens y ont dû périr. Sur l’une des  9 urnes dynastiques rangées devant le temple pour le culte des rois de la dynastie des Nguyễn (Thế Miếu) à Huế, on trouve une inscription relatant les travaux de creusement du canal Vĩnh Tế avec reconnaissance par l’empereur Minh Mạng pour les aïeux des natifs du Mékong. Vĩnh Tế est le nom de l’épouse de Thoại Ngọc Hâu que l’empereur Minh Mạng a choisi pour reconnaître  son mérite d’aider courageusement  son mari dans la réalisation de ce canal. Elle est  décédée deux ans avant la fin de cet ouvrage.

Le delta était  à une certaine époque le point de départ pour l’exode des boat-people après la chute du gouvernement de Saigon (1975).  Certains ont péri dans le voyage sans la moindre connaissance de la navigation. D’autres n’ayant pas réussi à le quitter, ont été repris par les autorités communistes pour être envoyés aux camps de rééducation. La dureté de la vie n’empêche  pas les natifs du Mékong d’être heureux dans leur environnement. Ils continuent à garder toujours l’hospitalité et  l’espoir de retrouver un jour une vie meilleure. Ils se forgent  au fil des siècles  une détermination et un esprit communautaire sans pareil en quête d’une terre nourricière et un espace de liberté.  En parlant de ces gens du delta, on peut reprendre la phrase de l’écrivain Sơn Nam à la fin de son livre intitulé «  Tiếp Cận với đồng bằng sông Cửu Long » (En contact avec le delta du Mékong ): Personne n’aime ce delta plus que nous. Nous acceptons d’en payer le  prix.

C’est dans ce delta  qu’on trouve aujourd’hui   toutes les facettes  séduisantes du Mékong  (le soleil,  le sourire, l’exotisme, l’hospitalité,  les silhouettes à chapeau conique, les sampans, les marchés flottants, les maisons sur pilotis, une variété abondante des fruits tropicaux, la pisciculture en cage, le riz flottant,  les spécialités locales  etc.). C’est ce qu’on retrouve  dans le dicton suivant:

Ðất cũ đãi người mới
L’ancienne terre accueille les nouveaux arrivants.

Lors de la réunification du pays en 1975, le gouvernement vietnamien a installé plus de 500.000 paysans du Nord et du centre du Vietnam dans le labyrinthe de ce delta. Nourri par les  riches alluvions, il est d’une grande fertilité. Il devient aujourd’hui le poumon économique du pays  et une manne pour les 18 millions de la région. Il pourrait à lui seul, dit-on, nourrir tout le Vietnam. 

Paris le 26/04/2020

Chính sách giao hảo với Việt Nam (Thailande)

Version francaise

Sự hiếu khách mà vua Rama I dành cho Nguyễn Ánh sau này sẽ là cơ sở cho việc phát triển mối quan hệ tương lai giữa hai nước. Không lạ gì với cách cư xử chu đáo của Nguyễn Ánh trong việc tìm kiếm một giải pháp thích hợp để quản lý sự đô hộ ở Lào và Cao Miên với người Thái. Theo nhà nghiên cứu Vietnam Nguyễn Thế Anh, những quốc gia này được xem vào thời điểm đó là những đứa trẻ được hai nước Xiêm La và Việt Nam cùng nhau nuôi dưỡng, Xiêm La thì đóng thường ngày vai trò người cha còn danh hiệu của mẹ thì dành cho Viêt Nam. Sự phụ thuộc này được biết đến trong tiếng Thái dưới tên là « song faifa ». Theo nguồn tin của Xiêm La, Nguyễn Ánh đã gửi cây bạc và vàng từ Gia Định đến Vọng Các 6 lần, đây là một dấu hiệu bày tỏ sự trung thành của Nguyễn Ánh vào giữa năm 1788 và năm 1801. (2).

Trong một lá thư gửi đến vua Rama I trước khi trở về Gia Định, Nguyễn Ánh đã đồng ý đặt dưới quyền bảo hộ của Xiêm La trong trường hợp ông thành công trong việc khôi phục quyền lực. Đại Nam (tên cũ của Việt Nam) có chấp nhận trở thành quốc gia theo độ hình mandala không? Có một số lý do để bác bỏ giả thuyết này. Đầu tiên Đại Nam không chịu ảnh hưởng của Phật giáo Nguyên thủy và cũng không có môt nền văn hóa Ấn Độ như hai nước Cao Miên và Lào vì tôn giáo đóng một vai trò rất quan trọng trong độ hình mandala được định nghĩa bởi nhà nghiên cứu O. Wolter. Xiêm La cố gắng bành trướng ảnh hưởng và thống trị ở các khu vực mà người Thái được du nhập ít nhiều và nơi mà văn hóa Ấn Độ hóa được trông thấy rõ rệt.

Đây không phải là trường hợp ở Việt Nam. Chakri và người tiền nhiệm Taksin đã thất bại trong việc tiếp cận ở Nam Kỳ, một vùng đất mới nên có rất nhiều người dân Việt cư trú với nền văn hoá khác nhau. Chế độ chư hầu dường như không thể. Chúng ta không bao giờ biết được sự thật nhưng chúng ta có thể dựa vào thực tế mà để nhận ra những ân huệ của Rama I. Nguyễn Ánh có thể có một thái độ dễ hiểu này, rất phù hợp với tính tình của ông và đặc biệt nhất là với tinh thần Nho giáo thì việc phản bội không bao giờ có ở nơi ông. Chúng ta tìm thấy ở Nguyễn Ánh sự biết ơn và lòng nhân từ mà chúng ta không thể phủ nhận sau này với Pigneau de Béhaine (Cha Cà). Ông nầy đã dành rất nhiều nỗ lực để thuyết phục Nguyễn Ánh theo đạo Công giáo.

Dưới triều đại của ông, không có sự bắt bớ người Công giáo, có thể xem đây là sự biết ơn  của ông  với Pigneau de Béhaine. Từ quan điểm này, chúng ta có thể thấy ở nơi ông nguyên tắc nhân đạo (đạo làm người) bằng cách tôn vinh cả lòng biết ơn đối với những người đã bảo vệ ông trong suốt 25 năm thăng trầm và trả thù những kẻ đã giết hại tất cả người thân và gia đình của ông. (thù phải trả, nợ phải đền) 

Vào thời điểm lên ngôi  vào năm 1803 tại Huế, Nguyễn Ánh đã nhận được vương miện do vua Rama I cung cấp nhưng ông đã trả lại cho ông nầy ngay lập tức vì ông không chấp nhận được coi là chư hầu của vua và nhận được danh hiệu mà vua Xiêm Rama I thường quen  ban cho các chư hầu của mình. Thái độ này đi ngược lại với lời buộc tội mà người ta vẫn có về Nguyễn Ánh.Đối với một số nhà sử học Việt Nam, Nguyễn Ánh là kẻ phản bội vì ông ta cho người nước ngoài có cơ hội để chiếm Việt Nam. Người ta  thường dùng cụm từ tiếng Việt « Đem rắn cắn gà nhà »  với Nguyễn Ánh. Thật không công bằng khi gọi ông là kẻ phản quốc vì trong bối cảnh khó khăn mà ông có, không có lý do nào mà không hành động như ông khi ông  ở trong vực thẳm tuyệt vọng. Có lẽ là thành ngữ sau đây « Tương kế tựu kế » phù hợp với ông ta hơn mặc dù có nguy cơ trở thành con cờ của người nước ngoài. Cũng nên nhớ rằng nhà Tây Sơn đã có cơ hội gửi một sứ giả đến gặp vua Rama I vào năm 1789  với ý đồ (Điêu hổ ly sơn) nhầm để chóng lại Nguyễn Ánh nhưng nỗ lực này là vô ích vì Rama I tôi từ chối ngay.(3)

Là người thông minh, can đảm và nhẫn nhục với hình ảnh của vị vua  Cẫu Tiển của thời Xuân Thu, ông  ta dư biết hậu quả của các hành động của mình. Không chỉ có  vua Gia Long mà thôi  còn có hàng ngàn người đã đồng ý theo ông sang Thái Lan và nhận trách nhiệm nặng nề này là đưa người nước ngoài vào đất nước để chống lại  nhà Tây Sơn. Có phải tất cả họ đều là kẻ phản bội? Đó là một câu hỏi hóc búa mà rất khó để đưa ra một câu trả lời khẳng định và một sự lên án vội vàng mà không có  trước đó  sự công bằng  và không  nên bị thuyết phục bởi những ý kiến ​​đảng phái  chính trị khi chúng ta biết rằng Nguyễn Huệ luôn luôn là  người anh hùng được người  dân Việt ngưỡng mộ nhất nhờ thiên tài quân sự của ông.Thất vọng trước sự từ chối của Gia Long, vua Rama I, không có tỏ ra dấu hiệu oán giận nhưng ông ta đã nhận thấy sự biện minh nầy trong sự khác biệt  về văn hóa. Chúng ta tìm thấy ở vua Rama I không chỉ sự khôn ngoan mà còn có cả sự hiểu biết. Bây giờ vua Rama I muốn được đối xử như một người bình đẳng với Nguyễn Ánh. Sự đối xử bình đẳng này có thể được hiểu là mối quan hệ song phương « đặc quyền » giữa người anh cả  và người em trẻ với sự tôn trọng lẫn nhau. Mỗi người nên biết rằng  người nầy rất cần người kia dù đây chỉ là một liên minh hoàn cảnh. Các quốc gia của họ bị theo dõi bởi những kẻ thù ghê gớm đó là Miến Điện và Trung Quốc.

Mối quan hệ đặc quyền của họ không phai nhạt theo thời gian khi Rama I đem lòng yêu mến chị gái của Nguyễn Ánh trong thời gian đó. Chúng ta không biết bà nầy trở thành như thế nào  về sau là vợ  hoặc là cung tần của vua Rama I. Trái lại, có một bài thơ tình mà vua Rama I dành riêng cho bà và bài nầy vẫn được tiếp tục hát vào những năm 1970 trong cuộc diễn hành hàng năm của những chiếc thuyền hoàng gia. Về phần Nguyễn Ánh (hay Gia Long), trong thời gian trị vì, ông đã tránh đối đầu với Thái Lan về mặt quân sự với các vấn đề gai góc của  hai nước Cao Miên và Lào. Trước khi qua đời, Gia Long đã không ngừng nhắc nhở người kế nhiệm, vua  Minh Mạng để duy trì tình bạn này mà ông đã thành lập với vua  Rama I và coi Xiêm là một đồng minh đáng kính nể trên bán đảo Đông Dương (4). Điều này sau đó được chứng minh qua việc vua  Minh Mạng từ chối tấn công Xiêm La theo lời yêu cầu của người Miến Điện.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Anh, ở Đông Nam Á, trong số hai mươi quốc gia vào khoảng 1400, chỉ còn có ba vương quốc thành công được xem vào đầu thế kỷ XIX  là các cường quốc ở khu vực trong đó có Xiêm La và Đại Việt, một nước bắt đầu hành trình về phía Đông và một nước về phía Nam để gây thiệt hại cho các quốc gia bị ảnh hưởng  Ấn Độ giáo (Lào, Cao Miên, Chămpa). Sư xung đột lợi ích này ngày càng gia tăng với sự qua  đời của Rama I và Nguyễn Ánh. Những người kế vị của họ (Minh Mạng, Thiệu Trị ở phía Việt Nam và Rama III ở phía Xiêm La) đã bị vướng vào vấn đề kế vị của các vị vua Cao Miên đã không ngừng chiến đấu lẫn nhau và yêu cầu sự giúp đỡ và bảo vệ của Viet Nam và Xiêm La. Sau đó, được hướng dẫn bởi chính sách của chủ nghĩa thực dân và thôn tính khiến hai nước phải đối đầu hai lần về mặt quân sự vào năm 1833 và năm 1841  ở  lãnh thổ Cao Miên và Việt Nam và tìm thấy mỗi lần sau cuộc đối đầu một thỏa hiệp  có lợi cho hai nước và gây bất lợi cho các  nước bảo hộ của họ. Sự liên minh hoàn cảnh không còn được xem xét đến. Sự cạnh tranh càng ngày thể hiện rõ ràng hơn giữa hai quốc gia đối thủ  Đại Nam và Xiêm La, tạo ra giờ đây một khoảng cách cho việc giao hảo và liên minh nào có thể.  Ngay cả chính sách của hai nước cũng khá khác nhau, một nước theo mô hình Trung Hoa để tránh tiếp xúc với thực dân phương Tây còn một nước thì theo mô hình Nhật Bản để ủng hộ việc mở cửa biên giới.Thủ đô Nam Vang của Cao Miên  đã bị quân đội Việt Nam của tướng Trương Minh Giảng  chiếm đóng một thời trong khi đó các vùng ở  phiá Tây Cao Miên (Xiêm Riệp, Battambang, Sisophon) đều nằm trong tay Thái Lan. Theo nhà sử học người Pháp Philippe Conrad, nhà vua Cao Miên được coi là một thống đốc  bình thường của vua Xiêm La.  Các dấu hiệu hoàng gia như kiếm vàng, ngọc ấn đã bị tịch thu và giữ cất tại Vọng Các. Sự xuất hiện của người Pháp ở Đông Dương kết thúc  quyền bá chủ của hai nước đối với Cao Miên  và Lào.  Sự đô hộ  nầy giúp người Cao Miên và Lào thu hồi một phần lãnh thổ của họ trong tay của  người Việt và người Thái. Nước Đại Nam của Hoàng đế Tự Đức phải đối mặt với chính quyền thực dân Pháp đã sáp nhập sáu tỉnh Nam Bộ (Nam Kỳ).

Nhờ sự sáng suốt của các vị vua Xiêm La (nhất là Chulalongkorn hoặc Rama V), người Thái dựa vào chính sách cạnh tranh giữa người Anh và người Pháp, mà cố gắng giữ độc lập với cái giá phải trả là sự nhượng bộ lãnh thổ của họ ( các lãnh thổ Miến Điện và Mã Lai mà họ chiếm đóng trả lại cho người Anh và Lào và Cao Miên thì nhường lại cho  người Pháp). Họ đã chọn chính sách đối ngoại  mềm dẽo (chính sách cây sậy) như cây sậy thích nghi với gió. Không phải sự ngẫu nhiên khi thấy sự liên minh thiêng liêng của ba hoàng tử Thái Lan ở  thời kỳ khởi đầu thành hình quốc gia Thái Lan vào năm 1287 và sự phục tùng ngoan ngoãn của họ trước đoàn quân Trung-Mông của Hốt Tất Liệt (Kubilai Khan).

Chính chính sách tổng hợp thích ứng này cho phép họ tránh được các cuộc chiến tranh thuộc địa, luôn sát cánh với những kẻ chiến thắng và được tồn tại cho đến ngày nay như một quốc gia hưng thịnh mặc dù đã thành hình muộn ở lục địa Đông Nam Á. (chỉ có từ đầu thế kỷ 14)

[Hình ảnh ở Vọng Các]

[Trở về trang Thái Lan]

Mù Cang Chải (Yên Bái) Phần 2

 

Version française
English version
Picture gallery

Rất mất nhiều thì giờ sáng hôm 11/9 để đi Nghĩa Lộ trước khi đến Tú Lệ qua đèo Khâu Phạ. Mưa rơi không ngừng khiến xe không chạy mau và mình cũng không săn ảnh được ở đèo Khâu Phạ. Đến Tú Lệ thì thấy ở ven đường bà con làm cốm đem bán rất nhiều. Vì thế mình mới ghé hỏi mua cốm ăn thử để xem mùi vị nhất là cốm ở đấy nổi tiếng lắm. Bà vợ người Thái đề nghị bán cho mình một kí với giá tiền phải chẳng. Mình cười chỉ mua ăn một tí để xem coi có ngon không mà thôi. Vì thế hai vợ chồng đồng ý bán cho mình một tí với giá 20.000 đồng. Mình nhờ ông chồng tái diễn lại cái màn giã cốm để mình chụp hình. Tiện đó mình mới biết họ là người Thái trắng nên mình mới hỏi ông chồng rằng: Anh, vậy Thái trắng và Thái đen khác nhau chổ nào vậy ? Mình biết họ khác nhau qua cách trang phục. Anh chàng Thái nầy tiếu lâm lắm vừa trả lời vừa cười khác nhau ở cái mông. Mình cười xoè nhìn thấy bà vợ cũng cười. Mình cũng sợ nên không dám hỏi tiếp nửa đấy. Người Thái họ thường ở nhà sàn. Còn người Hmong nhà cửa của họ thường ở cheo leo giữa rừng hoang vắng. Cho đến trưa trời mới tạnh mưa thì cũng là lúc mình chọn một quán cùng cháu tài xế Huân ăn cơm. Ở núi rừng phong cảnh rất hữu tình nhưng về thức ăn khó mà tìm được món ăn vừa khẩu vị lắm. Nguời ở miền núi họ ít có ăn rao cải lắm. Họ ăn có vẽ khô khan lắm khiến thời gian ở miền núi là một vấn đề cho ai thích ăn ngon.

Chạy xe ở miền núi phải cẩn thận vì trâu bò gà vịt qua đường rất thường phải biết né và kiên nhẫn. Cán các con vật nầy thì có lắm chuyện phiền phức vì phải bù đền cho chủ nhân số tiền họ muốn. Đó là điều cần phải biết khi lái xe ở miền núi. Tuy nhiên ở miền núi không bao giờ có chuyện ăn trộm gà vịt như ở thành phố vì người miền núi họ không có gian dối ăn cắp như ở các thành phố. Trời lại chuyển mưa tiếp và sầm uất tối khiến tụi nầy phải tìm kiếm khách sạn mô hình sinh thái mà mình được biết trước địa chỉ khi còn ở Paris tìm qua internet. Trên đường đất mòn cong quẹo không ngừng đến nhà trọ sinh thái nầy, trời nó tối om, đèn không có, một bên là vực thẩm, còn bên còn lại là vách đá còn đằng xa thì có vài cái nhà có đèn leo lét. Mình hơi lo nên cứ hỏi Huân tới chưa hoài. 20 cây số từ ở ngoài thảnh phố đến đây. Khi đến thấy xung quanh nhà trọ sinh thái toàn là các ruộng bậc thang. Xe phải bỏ ở trước cỗng cùng Huân đi bộ vào trong cũng có mấy trăm thuớc mới đến nhà trọ. Tên của nó là: Mù Căng Chải Ecolodge. Đến đây mới biết hết các phòng ngủ riêng chỉ còn phòng ngủ tập thể mà thôi nên mình cũng ok vì quá mệt. (400.000 đồng một giường). Ở nhà trọ nầy, thức ăn cũng giới hạn. Chỉ có hai món: gà xào xã và bò xào ăn vơi khoai. Khách sạn nầy khá sạch sẽ và lúc nào cũng đầy du khách ngọai quốc. Suốt đêm mình cũng hơi lo vì ngày đầu mà mưa như thế nầy tuy rằng đôi khi trời lại nắng có thể săn hình mà chả được là bao nhất là ngày mai theo thời tiết dự đoán 15 ngày trước sẻ mưa nữa vì độ ẩm nó rất cao 80% thôi thì cũng đành chịu .

Sáng lại thấy nắng soi qua hiên cửa mới biết là ngày hôm nay trời rất đẹp, mới biết mình có duyên với mãnh đất nầy. Sau đó còn biết được ở Lã Pán Tấn còn các mâm xôi, lúa chưa chín nên chưa có gặt qua lời kể của cháu hướng dẩn viên của một đoàn người Ý. Chú chỉ đi bộ vài cây số khi đến Lã Pán Tấn thì rồi sẽ gặp các mâm xôi. Vì vậy mình và Huân tìm đường đến Lã Pán Tấn. Đến đây, đậu xe giữa đường vì trên đó không có chổ đậu xe, tìm đường lên đến đồi mâm xôi. Đi hoài chả thấy đồi nào cả mà mình thì mệt vì trên vai lúc nào cũng mang túi xách khá nặng (hơn 5 kilô) nào thuốc nào ống kín và máy chụp ảnh. Thấy hai vợ chồng người Hmong ngồi trước tiệm sửa xe mới hỏi họ nơi nào có mâm xôi. Họ bảo còn xa lắm chú ơi phải đi 8 cây số nữa mới đến mà đường dóc quá cheo leo nhất là trời lại nắng. Mình mới bảo với cháu bé trai người Hmong : chú trả tiền cho tụi con, chở chú lên đó có được không?. Hai vợ chồng trẻ người Hmong vui vẽ bằng lòng chở tụi nầy đi bằng xe gắng máy hai bận đi và về, mỗi người 100.000 đồng.

Mình ngồi xe ôm với người chồng còn cháu tài xế ngồi với cô vợ vì cô nầy theo lời kể của người chồng khi trò chuyện mới biết cô bé nầy yếu tay lái. Mẹ cha ơi lên ngồi mới biết nó chạy xe rất giỏi rất mau với tốc độ mình đoán không lầm chừng cở 50 cây số một giờ mà đường thì quanh co lên dóc xuống dóc không ngừng. Nó chạy xe như cá lội trong nước như rồng trên mây mình thì chưa bao giờ nghỉ ra cảnh nầy quá nguy hiểm. Mình mới nhận ra là nếu có tai nạn thì sẽ chết ngay vì bên cạnh là vực sâu thăm thẵm, đường đất thì còn ướt vì cơn mưa đêm. Mình mới thỏ thẻ với nó con bớt ga lại chú đau tim nhé. Nó rất dễ thương bảo chú đừng sợ con quen chạy đường cả rồi từ thưở bé. Nghĩ lại thấy đúng vì người Hmong thường ở nhưng nơi cheo leo giữa rừng nên họ quen chạy xe rồi. Cũng là cái duyên của mình vì khi lên trên cao mới thấy mênh mông các ruộng lúa bậc thang, mới thấy được cái hùng vĩ của đất nước. Nhờ cháu bé trai Hmong nầy mình mới vào những nơi mà xe không thể tới được. Không có Huân không có cặp vợ chồng người Hmong nầy và nhất là còn tùy thời tiết nửa thì dù có muốn chụp hình cũng không được mà còn tuỳ duyên của mình nữa đấy. Sau đó tụi nầy đi ăn cơm rồi khới hành đi Sapa dọc theo quốc lộ dẫn đến Lai Châu và dãy núi Hoàng Liên Sơn.

Một kỷ niêm khó quên nhất là giữa đường mình xuống xe chạy ngang đường để chụp dãy núi Hoàng Liên Sơn. Lúc đó mình đang mê mẫn chụp hình thì có con rắn dài hơn một thước chạy ngang đường. Huân chạy theo và nắm được đuôi nó. Mình sợ quá mà bảo cháu nên thả nó, nếu không nó mổ là chết vì độc của nó. Huân nói không có sao vì đây là con rắn lục, con thường bắt nó lúc con còn nhỏ ở Ninh Bình để nấu cháo ăn ngon lắm chú. Mình nghe hết hồn thả nó đi con. Huân buôn nó ra thì nó chạy vào bụi cây biến mất.

Với hai ngày ở Mù Căng Chãi, rất thú vị để lại cho mình biết bao nhiêu kỷ niệm của vùng sơn cước.

Version française

À cause des travaux de réparation sur la nationale, nous perdons beaucoup de temps le matin 11/9 pour arriver à Nghĩa Lộ avant d’atteindre Tú Lệ en passant par le col Khâu phạ. La pluie continue à tomber abondamment. Cela ne me permet pas de capturer les photos au col Khâu Phạ. Une fois arrivés à Tú lệ, nous nous apercevons qu’au bord de la route, beaucoup de gens vendent des « cốm », une sorte de riz gluant connu très parfumé et glutineux, une spécialité de la région. La plupart des vendeurs sont des Thai. Ils sont habitués à vivre dans des maisons sur pilotis tandis que les Hmong préfèrent habiter dans des endroits presque inaccessibles au milieu de la forêt. Jusqu’au moment où la pluie cesse de tomber, c’est aussi le moment où nous commençons à avoir faim et nous allons chercher une gargote sur la route. Il est difficile de bien manger ici car les plats ne correspondent à notre goût. Les gens de la montagne mangent peu de légumes. Ils ont l’air d’avoir une nourriture peu variée et à peine suffisante, ce qui crée un souci majeur pour ceux qui sont gourmets comme moi malgré une superbe vue sur un paysage typique avec des rizières en terrasses.

À la montagne, il faut garder toujours un pied sur la pédale de frein car les animaux familiers tels que les buffles, les canards, les poulets etc. ont l’habitude de traverser souvent la route car en cas d’accident, il faut payer au propriétaire la somme réclamée. Par contre, aucun animal n’est volé même s’il est égaré loin de la maison du propriétaire de quelques kilomètres.

La pluie recommence à tomber. Le ciel s’assombrit très vite. Il est temps pour nous d’aller chercher l’auberge écologique dont je trouve l’adresse sur Internet : Mù Cang Chải Ecolodge. Sur le chemin de terre tortueux bordé de la paroi abrupte de la falaise d’un côté et du précipice de l’autre côté menant jusqu’à l’auberge, il fait noir et aucune lumière n’est visible dehors. Je commence à m’inquiéter et ne cesse pas de demander à mon chauffeur Huân: Quand serons-nous arrivés?. 20 kilomètres c’est la distance que nous devons parcourir de la ville jusqu’à l’auberge. Une fois arrivé sur place, je m’aperçois qu’aux alentours de cette auberge il n’y a que des rizières en terrasses. On est obligé de laisser la voiture au parking et on doit marcher à pied quelques centaines de mètres avec les affaires. Comme le nombre de chambres individuelles est très limité (7 en tout), on est obligé de dormir dans un dortoir collectif avec chacun son lit séparé (17 euros par jour). Même la bouffe est aussi limitée.

On ne nous propose que deux plats : poulet sauté aux citronnelles et bœuf sauté mangé avec pommes de terre et la sauce mayonnaise. L’auberge est assez propre et remplie toujours de touristes étrangers. Je continue à m’inquiéter toute la nuit car la pluie continue à être perceptible dehors. Je me demande comment je peux faire des photos si la pluie continue de cette façon car le premier jour de mon voyage, je ne capture pas beaucoup de photos. Selon la météo prévisible pour 15 jours, demain sera le jour où le taux d’humidité est de 80%. Je commence à me résigner à mon sort. Le matin de bonne heure, la lueur d’un rayon de soleil traverse la fenêtre du dortoir. Cela me rend fou de joie et d’espoir. Je sais qu’il fait beau aujourd’hui. Puis le guide d’un groupe de touristes italiens rencontré me donne l’information: la récolte n’a pas lieu encore du côté de Lã Pán Tấn. Il y a la possibilité de faire des photos sur les « mâm xôi (plateau du riz gluant)» à 1 ou 2 kilomètres de Lã Pán Tấn. Moi et Huân nous décidons d’y aller et de garer la voiture au pied d’une colline. Après un kilomètre de marche, nous ne trouvons aucun plateau « mâm xôi ». Je commence à m’épuiser sous un soleil accablant car je porte un sac rempli d’un appareil photographique, des objectifs et de médicaments, le tout pesant au moins 5 kilos.

Je m’arrête devant une boutique de réparation des motos où un jeune garçon Hmong est en train de réparer un scooter avec sa femme. Je lui demande: combien de kilomètres à parcourir encore pour atteindre les « mâm xôi ». Il me répond : 8 kilomètres encore. Cela me décourage complètement. Je lui propose de nous emmener jusqu’au sommet de la montagne pour voir les « mâm xôi ». Sans hésitation, il est d’accord avec sa femme pour nous emmener tous les deux pour un prix dérisoire. C’est superbe et très gentil de leur part. Sans ce couple Hmong, sans Huân mon chauffeur et mon compagnon de voyage, je ne pense pas que je pourrais faire des photos si je n’ai pas en plus ce jour là le temps clément et ensoleillé. Je dis que j’ai la chance d’avoir le bonheur d’être avec cette contrée lointaine. Je suis ravi d’être au sommet de la montagne, de voir non seulement l’immensité des rizières en terrasses mais aussi la splendeur de mon pays natal….

Quel bonheur, quelle surprise pour ce voyage mémorable.

English version

Due to repair work on the national road, we lost a lot of time on the morning of September 11th to reach Nghĩa Lộ before getting to Tú Lệ by passing through the Khâu Phạ pass. The rain continued to fall heavily. This did not allow me to take photos at the Khâu Phạ pass. Once we arrived in Tú Lệ, we noticed that many people were selling « cốm » by the roadside, a kind of glutinous rice known for being very fragrant and sticky, a specialty of the region. Most of the sellers are Thai. They are used to living in stilt houses while the Hmong prefer to live in almost inaccessible places in the middle of the forest. Until the rain stopped, it was also the moment when we started to get hungry and went looking for a roadside eatery. It is difficult to eat well here because the dishes do not suit our taste. Mountain people eat few vegetables. They seem to have a limited and barely sufficient variety of food, which creates a major concern for those who are gourmets like me despite a superb view of a typical landscape with terraced rice fields.

In the mountains, you must always keep a foot on the brake pedal because familiar animals such as buffaloes, ducks, chickens, etc., often cross the road, and in case of an accident, you have to pay the amount claimed to the owner. However, no animal is stolen even if it is lost several kilometers away from the owner’s home.

The rain starts falling again. The sky darkens very quickly. It is time for us to go find the ecological lodge whose address I found on the Internet: Mù Cang Chải Ecolodge. On the winding dirt road bordered by the steep cliff wall on one side and the precipice on the other leading to the lodge, it is dark and no lights are visible outside. I start to worry and keep asking my driver Huân: When will we arrive? Twenty kilometers is the distance we have to travel from the town to the lodge. Once there, I realize that around this lodge there are only terraced rice fields. We have to leave the car in the parking lot and walk a few hundred meters on foot with our belongings. Since the number of individual rooms is very limited (7 in total), we are forced to sleep in a shared dormitory with each person having their own separate bed (17 euros per day). Even the food is limited.

We are only offered two dishes: stir-fried chicken with lemongrass and stir-fried beef eaten with potatoes and mayonnaise sauce. The inn is quite clean and always full of foreign tourists. I continue to worry all night because the rain is still noticeable outside. I wonder how I can take photos if the rain continues like this because on the first day of my trip, I didn’t capture many photos. According to the 15-day weather forecast, tomorrow will be the day when the humidity rate is 80%. I begin to resign myself to my fate. Early in the morning, the glow of a ray of sunshine passes through the dormitory window. It makes me wildly happy and hopeful. I know that the weather is nice today. Then the guide of a group of Italian tourists I met gives me the information: the harvest has not yet taken place on the side of Lã Pán Tấn. There is the possibility of taking photos on the « mâm xôi (glutinous rice terraces) » 1 or 2 kilometers from Lã Pán Tấn. Huân and I decide to go there and park the car at the foot of a hill. After a kilometer of walking, we find no « mâm xôi » terraces. I begin to exhaust myself under the scorching sun because I am carrying a bag filled with a camera, lenses, and medicine, all weighing at least 5 kilos

I stop in front of a motorcycle repair shop where a young Hmong boy is repairing a scooter with his wife. I ask him: how many kilometers are left to reach the « mâm xôi. » He answers: 8 kilometers more. That completely discourages me. I suggest that they take us to the top of the mountain to see the « mâm xôi. » Without hesitation, he agrees with his wife to take both of us for a meager price. It is wonderful and very kind of them. Without this Hmong couple, without Huân my driver and travel companion, I don’t think I could have taken photos if I hadn’t also had the mild and sunny weather that day. I say that I am lucky to have the happiness of being in this distant land. I am delighted to be at the top of the mountain, to see not only the vastness of the terraced rice fields but also the splendor of my homeland….

What happiness, what a surprise for this memorable trip.

Picture gallery

Mu_Cang_Chai_2

[RETURN]