Les Lolo (Version vietnamienne)

Version française

 

Được biết ở Trung Quốc với tên Yi và còn được gọi là Mùn Di, Màn Di, La La, Qua La, Ô Man, Lu Lộc Mà bởi người Việt, dân tộc Lô Lô  thuộc  nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến. Họ sống  phân bố ở các vùng núi của Trung Quốc (Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu và Quảng Tây) trừ một  thiểu số  đến từ  Vân Nam định cư ở thượng bắc bộ  Việt Nam (Hà Giang, Cao Bằng, Đồng Văn, Lào Cai) với hai   luồng di trú diễn ra ở thế kỷ 15  và  thế kỷ 18. Hiện nay,  dân số của dân tộc này có khoảng 4.300  người ở Việt Nam. Theo các nhà dân tộc học, người Lô Lô là hậu duệ của những người du mục và người chăn cừu Khương tộc di cư từ miền đông nam Tây Tạng đến định cư ở Tứ Xuyên (Sichuan) rồi xuống Vân Nam.

彝族  (Dân tộc Lô Lô)


Vào thời Xuân Thu,  dân tộc LôLô vẫn còn chiến tranh với cư dân ở Hoàng Hà, tổ tiên của người Hoa. Sự bành trướng của họ bị chặn đứng  lạ bởi quốc quân  Tần Mục Công của nước Tần trong khoảng từ -660 đến -621 và là một trong năm bá chủ nổi tiếng ở thời kỳ này nhờ sự hỗ trợ của tướng quốc tài ba Bách Lý Hệ còn được gọi là  Ngũ Cổ đại phu.
dantoc_lolo_1
Người dân Lô Lô chia ra hai nhóm: Lô Lô Hoa và Lô Lô Đen. Chúng ta có thể phân biệt các nhóm nầy vì mỗi nhóm mặc quần áo hơi khác nhau. Trang phục nữ tính của Lô Lô Hoa được  gồm có áo cổ tròn xẻ ngực mà hoa văn ghép vải hình tam giác hay vuông màu thì rất sặc sở có đỏ xanh tím dọc theo ngực và sau lưng cùng mũ được trang trí khéo léo và  quần ống què  trong khi đó các phụ nữ Lô Lô Đen thì mặc váy,  áo cổ vuông với tay áo màu sọc vàng, hồng hoặc xanh lá cây và khăn quàng cổ. Còn nam giớ thì trang phục rất giản dị. Tất cả sống trồng lúa nước và làm nương rẫy chủ yếu là ngô, gạo nếp và gạo tẻ được tìm thấy ở các vùng Đồng Văn,  Mèo Vạc, Bảo Lạc (Cao Bẳng) hay  Mường Khương (Lào Cai). Có nơi  họ sử dụng các ruộng bậc thang. Thức ăn chính của họ vẫn là bột ngô xay được đun cách thủy. Canh không thể thiếu trong bữa ăn của họ vì vậy họ phải sử dụng bát thìa bằng gỗ.

Một trong 54 dân tộc thiểu số Việt Nam

Nói chung, các ngôi nhà Lô Lô nằm ở những nơi vừa cao vừa khô trên các thung lũng. Họ thích sống ven những khu rừng rậm rạp vì đối với họ, rừng và suối được coi là nơi sinh sống của các thổ thần. Đây là những người thích sống hòa hợp với thiên nhiên. Họ thích sử dụng gùi có hai dây đai làm bằng mây hoặc loại tre (giang) để vận chuyển đồ đạc Họ thích kết hôn với người dân tộc của họ. Họ có một tục kết hôn kỳ lạ  gọi là chế độ ngoại hôn trong trường hợp hôn nhân diễn ra giữa những người có dòng dõi khác nhau. Người Lô Lô  thường là một vợ một chồng. Cô dâu sống  bên gia đình chồng. Ngoại tình bị lên án trong truyền thống của họ. Mặt khác, việc hôn nhân anh em chồng  được dung thứ vì em trai của người quá cố có thể lấy chị dâu làm vợ. Tương tự, con trai của cô bên nội được phép kết hôn với con gái của cậu ruột (cậu) nhưng nghiêm cấm làm điều trái ngược lại.

    Nghệ thuật tạo hoa văn

Trong gia đình, mọi việc đều do người chồng quyết định. Con gái thừa hưởng trang sức từ mẹ và nhận của hồi môn ở thời điểm kết hôn. Về phần thừa kế hợp lý, tất cả thuộc về  các đứa con trai của gia đình. Khi một người qua đời, gia đình tổ chức một nghi lễ để giúp linh hồn của người quá cố  tìm thấy con đường dẫn họ trở về đoàn tụ với tổ tiên của họ. Được biết đến như là « điệu nhảy của các hồn ma », vũ điệu nhịp nhàng này được dẫn dắt bởi con  rể mang trên vai một chiếc túi chứa một quả bóng bằng vải tượng trưng  cái đầu của người quá cố. Đôi khi thay vì quả bóng chúng ta tìm thấy một miếng gỗ hoặc một quả bí đao được vẽ hình người quá cố. Điều này cho thấy dấu ấn của phong tục săn đầu người vẫn còn tồn tại  ở  dân tộc Lô Lô. Trong đám tang,  người con rể này phải  phụ khiêng một góc cạnh của quan tài và cùng các anh em của người góa phụ  còn phải ném những nắm đất đầu tiên vào mộ của người quá cố.

Người Lô Lô phân biệt rất rõ ràng giữa tổ tiên gần (dưới 5 thế hệ) và tổ tiên xa. (kể từ thế hệ thứ sáu). Đối với các tổ tiên gần gũi, có luôn một bàn thờ sạch sẽ trong mỗi gia đình trong khi đối với các tổ tiên xa, các nghi thức được diễn ra trong ngôi nhà của người đứng đầu dòng dõi ( hay trưởng tộc). Tương tự như người  dân Việt, người Lô Lô có trống đồng mà họ chỉ sử dụng khi có các đám tang. Những chiếc trống này luôn có cặp: một nam và một nữ được đặt đối diện nhau trên cái giá khiêng nằm ở bên cạnh chân của người chết. Sau đó, có một người đánh trống đứng giữa và đánh xen kẽ với một cái dùi. Một nhịp cho trống nam, một nhịp khác cho trống nữ, toàn bộ được đánh  với nhịp điệu đều đặn.

Người đánh trống phải là một người độc thân hoặc một người đàn ông đã có vợ mà vợ không có thai ở thời điểm tang lễ. Được coi là một nhạc cụ thiêng liêng, trống được chôn hoặc giấu ở một nơi vừa sạch sẽ vừa kín đáo. Chỉ người đứng đầu dòng họ biết nơi chôn giấu. Đối với người Lô Lô, có một truyền thuyết liên quan đến trống đồng:

Có một lần có môt trận lụt dìm ngập đất nước và  các cư dân. Trời thương xót  người chị lớn  cùng đứa em trai sắp chết và giúp họ bằng cách trợ người chị lớn vào cái trống đồng lớn và người em  trai  vào cái trống  nhỏ. Các chiếc trống không bị  chìm bởi trận lụt này, nhờ  thế  cứu được hai  chị em nầy. Sau trận lụt, họ  lánh nạn trên núi và kết hôn. Do đó, họ trở thành tổ tiên của loài người được hồi sinh.

Tương tự như người  dân Việt  và người Hoa,  người Lô Lô cũng ăn mừng năm mới  và có thêm  các lễ hội và các nghi thức khác như  lễ được lúa mới. Chúng ta cũng đừng quên nhắc đến điệu nhảy dưới  ánh trăng, một điệu nhảy có thể kéo dài suốt đêm và tập hợp một phần lớn các cô gái và các cậu trai trong làng hoặc một nhóm các cô gái trẻ  hay nhóm phụ nữ đã kết hôn. Điệu nhảy bắt đầu sự thành hình một vòng tròn với các vũ công và vũ nữ. Họ đặt tay mỗi người  lên vai người khác và họ được kèm theo các bài hát và họ nhảy múa gỉa vờ làm lại các tác động hàng ngày như giã gạo, hái trái cây hoặc thêu vân vân … Là  một trò tiêu khiển của giới trẻ, điệu nhảy dưới ánh trăng diễn ra ở giữa làng hay ở vùng đất gần đó, đôi khi còn có thể kéo dài cho đến bình minh.

butviet Dân tộc Lô Lô  tuy không có đông ở Việt Nam, nhưng  họ được phân biệt dễ dàng  với các nhóm dân tộc khác  nhờ các trang phục hoa văn sặc sở  và sự gắn bó sâu sắc với thiên nhiên.

Nguyễn Trãi (Version vietnamienne)

Version française
English version

Người anh hùng dân tộc

Nước mấy trăm thu còn vậy
Nguyệt bao nhiêu kiếp nhẫn này.

Mạn thuật (Nguyễn Trãi)

Chúng ta có thể tóm tắt cuộc đời của danh nhân lỗi lạc này qua câu 3248 trong  tác phẩm kinh điển văn học  Kim Vân Kiều  của Nguyễn Du  ở vào thế kỷ 18:
Chữ Tài liền với chữ Tai một vần
để nói lên không chỉ tài năng phi thường của ông mà cả thảm họa mà ông phải chịu,  được nuối tiếc bởi nhiều thế hệ Việt Nam. Phải đối mặt với quân nhà Minh tàn bạo của hoàng đế Minh Thành Tổ  (Chu Đệ) do tướng Trương Phụ lãnh đạo trong cuộc xâm lược Đại Việt vào tháng chín của năm Bình Tuất (1406), Nguyễn Trãi đã biết cách đưa ra một khái niệm xuất sắc dựa trên những gì mà Lão Tử nói đến trong cuốn Đạo Đức Kinh :

Không có gì linh hoạt và yếu hơn nước ở trên đời
Tuy nhiên, muốn  ăn mòn  những gì cứng và mạnh
Không có gì vượt qua nổi nó và không ai có thể ví bằng nó
Có thể yếu mềm trội hơn vũ lực
Có thể linh động  trội hơn cứng rắn
Mọi người đều biết điều đó.
Nhưng không ai dùng việc hiểu biết này mà áp dụng cả.

và soạn thảo một chiến lược khéo léo khiến giúp người dân Việt, dù kém về số lượng, chiến thắng trong cuộc chiến này và giành lại độc lập cho dân tộc sau mười năm đấu tranh. Cùng với một thân hào dũng cảm Lê Lợi, được biết về sau này là Lê Thái Tổ và 16 bạn đồng hành liên kết bởi lời thề Lũng Nhai (1406) và 2000 nông dân ở phía tây vùng núi Lam Sơn tỉnh Thanh Hóa, Nguyễn Trãi đã xoay sở để biến cuộc nổi dậy thành một cuộc chiến tranh giải phóng và chuyển đổi một nhóm nông dân nghèo nàn thiếu trang bị thành một đội quân lính tinh nhuệ 200.000 người vài năm sau đó. Chiến lược này, được gọi là « du kích », được chứng minh rất có hiệu quả vì Nguyễn Trãi thành công trong việc đưa vào thực hành học thuyết của Clausewitz Trung Hoa, Tôn Tử ở vào thời  Xuân Thu, chủ yếu dựa trên năm yếu tố sau đây: đức hạnh, thời gian, địa thế, chỉ huy và kỷ luật trong cách điều khiển chiến tranh. Nguyễn Trãi đã có cơ hội nói rằng ông thích chinh phục lòng dân hơn là thành trì. Khi có sự hòa thuận giữa người dân và các nhà lãnh đạo thì người dân đồng ý chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng. Chính nghĩa cũng được lắng nghe và đựợc thắng lợi bởi vì Trời luôn luôn sát cánh với nhân dân, mà Đức Khổng Tử đã có cơ hội nhắc lại trong các sách kinh điển:

Thiên căng vụ dân, dân chi sở dục, thiên tất tòng chí
Trời thương dân, dân muốn điều gì Trời cũng theo.

Chúng ta  nhận thấy ở nơi Nguyễn Trải  có   sự phát triển toàn diện tư tưởng nhân nghĩa trong học thuyết Nho giáo. Để đảm bảo sự ủng hộ của người dân trong cuộc chiến giành độc lập, ông không ngần ngại lợi dụng sự mê tín và cả tin của người dân. Ông nhờ  các người thân trèo lên cây, khắc chữ trên lá bằng mật ong với cây tăm câu văn sau đây:

Lê Lợi vì dân, Nguyễn Trãi vì thân
Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi

khiến kiến ​​ăn mật ong và khoét lá rỗng để lại thông điệp này trên lá. Các lá nầy rụng được gió mang theo trên các dòng suối và các nguồn nước.  Nhờ  thu hồi  các lá nầy, người dân tin rằng thông điệp nầy xuất phát từ ý  Trời và không ngần ngại tuân thủ tham gia đông đảo vào cuộc chiến giải phóng này. 

Là một người theo chủ nghĩa nhân đạo, ông ta luôn nghĩ không chỉ có  những đau khổ của dân tộc mà  còn có luôn của quân thù. Ông đã có cơ hội nhấn mạnh trong một lá thư gửi cho thống tướng Vương Thông rằng nhiệm vụ của một thủ lĩnh là dám lấy quyết định, làm bớt đi hận thù, cứu lấy  người dân và bảo vệ thế giới bằng những lợi ích để lại một  tên tuổi  cho hậu thế (Quân Trung Từ Mệnh Tập). Ông cho phép  các tướng  nhà Minh bại trận  là Vương Thông, Mã Anh, Phương Chính, Mã Kỳ được trở về Trung Quốc với 13.000 binh lính bị bắt, 500 thuyền và hàng ngàn con ngựa. Lúc nào cũng quan tâm đến hòa bình và hạnh phúc của người dân, trong kiệt tác « Bình Ngô Đại cáo » (Tuyên ngôn về sự bình định giặc Ngô)  mà ông viết sau khi chiến thắng và đánh đuổi  giặc  Minh ra khỏi Việt Nam, ông nhắc nhở rằng đã đến lúc phải hành động khôn ngoan cho những người dân còn lại.

Để cho phép Trung Quốc không cảm thấy bị sỉ nhục bởi  sự thất bại chua cay này và khôi phục lại hòa bình và hạnh phúc lâu dài  cho người dân, ông  đề xuất một hiệp ước chư hầu với một cống phẩm ba năm gồm hai bức tượng có kích thước làm bằng kim loại tốt  nhằm đền bù cái chết của hai tướng Trung Quốc Liễu ThăngLương Minh ở trận chiến. Trong những năm đầu tiên của cuộc đấu tranh, Nguyễn Trãi đã phải chịu nhiều lần thất bại đẫm máu (cái chết của Lê Lai, Đinh Lễ vân vân…) khiến ông phải lánh nạn ba lần ở Chí Linh cùng với Lê Lợi và những người ủng hộ ông . Mặc dù vậy, ông không bao giờ cảm thấy nản lòng vì ông biết rằng mọi người đã ủng hộ ông. Ông thường so sánh con người với đại dương. Nguyễn Trãi đã có cơ hội nói với người thân tín của ông:

Dân như nước có thể chở mà có thể lật thuyền.

Những lời nói  của cha ông Nguyễn Phi Khánh, khi bị bắt và  bị đày về Trung Quốc cùng các học giả Việt Nam khác trong đó có Nguyễn An, người xây dựng  về sau Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh, lúc chia tay ở biên giới Trung-Việt, vẫn tiếp tục in sâu  vào trong tâm trí khiến ông quyết tâm hơn bao giờ  đặc hết  niềm tin vào  cuộc đấu tranh chính nghĩa của ông:

Hữu qui phục Quốc thù, khóc hà vi dã
Hãy trở về mà trả thù cho nước, khóc lóc làm gì 

Ông đã trải qua nhiều đêm không ngủ để tìm kiếm một chiến lược  chống lại quân  giặc nhà Minh đang ở đỉnh cao của sức mạnh với sự khủng bố của chúng.  Được  biết sự bất đồng trong hàng ngũ kẻ thù, những khó khăn mà tân hoàng đế Minh Tuyên Tông gặp ở biên thùy phía bắc với Hung nô sau  cái chết của  Minh Thái Tông (Chu Đệ)  vào năm 1424 và những thiệt hại mà quân  nhà Minh phải chịu trong thời gian sau  nầy dù  giặc có thành công  ở chiến trường, Nguyễn Trãi đã không ngần ngại đề nghị đình chiến với tướng Mã Kỳ. Điều này được chấp nhận từ hai phía vì mọi người đều nghĩ rằng  tận dụng thời gian nghỉ ngơi này để củng cố quân binh của họ trong khi chờ quân tiếp viện từ Quảng Tây và Vân Nam và một cuộc giao chiến quân sự quy mô lớn  (phiá nhà Minh) hoặc để tái lập lại  một đội nghĩa quân đã  bị nhiều lần tổn thất quan trọng và thay đổi chiến lược trong cuộc chiến tranh giải phóng (phiá Việt Nam). Lợi dụng sự thiếu hiểu biết về địa hình của quân tiếp viện Trung Quốc từ Quảng Tây,  ông nhanh chóng điều khiển  quân bằng cách thực hiện học thuyết  « đầy và  rỗng »  mà Tôn Tử chủ trương. Ông đã nói trong tác phẩm « Nghệ thuật chiến tranh »: Quân đội cũng như nước. Khi nước tránh được các nơi cao và lao vào các hốc thì quân đội phải  tránh  các nơi có đông quân và tấn công các nơi  ít quân. Nhờ thế  ông mới  giết được Liễu Thăng  và quân đội của ông nầy ở « khoảng rỗng » Chi Lăng được xác định bởi Tôn Tử, trong một đọan đèo vùng núi lầy lội gần Lạng Sơn. Ông không để người kế nhiệm của Liễu Thăng là  Lương Minh có thời giang để tập hợp lại tàn quân Minh bằng cách  gài bẫy chết  ở xung quanh thành phố Cần Trạm. Sau đó, ông tận dụng sự thành công đạt được để đánh bại quân đội tăng cường của tướng quân  Minh Mộc Thanh, buộc ông nầy phải bỏ trốn và trở về một mình ở  Vân Nam.

Trân đánh Chi Lăng

Vì sợ sự tổn thất của nghĩa quân trong cuộc đối đầu lâu dài và vì muốn  tiết kiệm xương máu của dân tộc, ông dùng chính sách cô lập các thành phố lớn Nghệ An, Tây Ðô, Ðồng Quan (tên cũ của thủ đô Hà Nội) bằng cách chiếm giữ  tất cả các đồn lũy và tất cả các thị trấn nhỏ ở xung quanh các thành, quấy nhiễu không ngừng  các đội quân tiếp tế lương thực và  làm vô hiệu hóa tất cả các đội quân tiếp viện. Để ngăn chặn sự trở lại có thể của những kẻ xâm lược và làm xáo trộn cơ cấu hành chính của chúng, ông thiết lập lại ở các thị trấn giải phóng một chính quyền mới do các học giả trẻ được tuyển dụng lãnh đạo. Ông đã không ngừng gửi sứ giả cho các quan Trung Quốc hoặc Việt Nam trấn giữ ở các thị trấn nhỏ này để thuyết phục họ đầu hàng  nếu không sẻ bị đưa ra công lý và bị kết án tử hình trong trường hợp kháng cự.  Việc này tỏ ra có kết quả và có lợi  khiến Vương Thông và các  tướng lãnh  buộc lòng  phải đầu hàng vô điều kiện vì họ nhận thấy rằng họ không thể giữ  được Đồng Quang lâu  nửa nếu không có viện binh và tiếp tế. Đó không chỉ là cuộc  giải phóng mà còn là cuộc chiến  tranh tâm lí mà Nguyễn Trãi đã  thành công để chống lại giặc Minh.

Một khi  độc lập được dành lại, ông được bổ nhiệm làm bộ trưởng bộ nội vụ và là thành viên của hội đồng bí mật. Được biết  tính cương trực của ông khiến ông trở thành không lâu mục tiêu chính của các cận thần của vua Lê Thái Tổ làm  vua sau này cũng bắt đầu nghi vực ông. Cảm thấy nguy cơ  sẻ cùng chung  số phận như người bạn đồng hành của ông, Trần Nguyên Hãn và noi theo gương  Trương Lương, cố vấn của hoàng đế nhà Hán, Lưu Bang, ông  yêu cầu vua Lê Lợi cho phép ông được nghỉ hưu ở núi Côn Sơn, nơi mà ông đã dành trọn tuổi trẻ của ông với ông ngoại của Trần Nguyên Ðán, cựu bộ trưởng nhiếp chính của triều đại nhà Trần, Trần Phế Đại và cháu chắt của đại tướng Trần Quang Khải, một trong những anh hùng Việt Nam trong cuộc chiến chống quân Mông của Hốt Tất Liệt (Kubilai Khan). Chính tại  nơi đây, ông viết ra một loạt  tác phẩm sáng tác gợi lại không chỉ sự gắn bó sâu sắc  của ông với thiên nhiên mà còn sự khao khát mãnh liệt muốn từ bỏ danh dự và vinh quang để đổi lấy lại sự nhàn rỗi. Cũng qua những bài thơ này, chúng ta tìm thấy ở nơi ông một chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc, một sự đơn giản phi thường, một trí tuệ mẫu mực và một xu hướng ẩn dật và cô đơn. Ông thường nhấn mạnh đời người có được là bao giỏi lắm chỉ kéo dài một trăm năm. Sớm muộn gì chúng ta cũng quay về với cát bụi. Điều quan trọng đối với con người là phẩm giá và danh dự như tấm chăn màu xanh (biểu tượng phẩm giá) mà học giả Trung Hoa Vương Hiền Chi của triều đại nhà Tấn đã  bào chữa lúc  kẻ trộm vào nhà qua bài thơ  « Hạ Nhật Mạn Thành » hay tự do mà hai ẩn sĩ Trung Hoa Sào Phủ và Hứa  Do có ở thưở xưa trong bài thơ mang tựa đề Côn Sơn Ca. Mặc dù  về hưu  rất sớm, nhưng ông ta bị buộc tội giết vua vài năm sau đó và bị tra tấn vào năm 1442 cùng với tất cả họ hàng  trong gia đình bởi  cái chết bất ngờ của vị vua trẻ Lê Thái Tông say mê một người vợ trẻ của ông Nguyễn Thị Lộ ở vườn vải. Chúng ta có thể biết tất cả mọi thứ ngoại trừ trái tim con người vẫn không thể nào đo được, đây là những gì ông đã nói trong bài thơ Mạn Thuật nhưng đó cũng là những gì đã xảy ra với ông dù ông có dự đoán trước đó. Ký ức của ông  được phục hồi chỉ khoảng hai mươi năm sau bởi vị vua vĩ đại Lê Thánh Tôn. Người ta có thể ghi nhận ở nơi  học giả này không chỉ tình yêu mà ông ta luôn luôn dành cho người dân và đất nước mà còn có sự tôn trọng mà ông  ta lúc nào cũng có  đối với các địch thủ và thiên nhiên. Đối với học giả tài năng Việt Nam này, để tôn vinh ký ức của ông tốt nhất là lấy lại câu văn mà nữ văn hào Pháp  Yveline Féray đã viết trong lời tựa cho cuốn tiểu thuyết của bà « Mười ngàn năm mùa xuân (Dix mille printemps) »:

Bi kịch của ông là bi kịch của một một vĩ nhân sống trong một thời đại mà xã hội quá nhỏ bé.

 

 

Dương Vân Nga (La reine des deux dynasties Đinh et Lê antérieur)

Version française

Thái hậu
Dương Vân Nga

Chúng ta ít khi nói về Dương Vân Nga trong lịch sử Việt Nam. Tên của bà ít được trích dẫn hơn so với hai bà Trưng TrắcTrưng Nhị hoặc Triệu Ẩu. Tuy nhiên, bà là một người phụ nữ khác thường, một bà hoàng hậu vĩ đại của hai triều đại đầu tiên  Đinh và Tiền Lê ở Việt Nam. Cuộc đời của bà cũng như sự nghiệp, chúng ta có thể tóm tắt lại qua bốn câu thơ sau đây được truyền khẩu cho đến ngày hôm nay và được một nhà sư bí ẩn để lại ở trên tường của tu viện Am Tiên, được đúng một ngàn năm xưa, khi gặp bà Dương Vân Nga:

Hai vai gồng gánh hai vua
Hai triều hoàng hậu, tu chùa Am Tiên
Theo chồng đánh Tống bình Chiêm
Có công với nước, vô duyên với đời

Trong số mười hoàng hậu của hai triều đại này, bà là người duy nhất được phép có một tượng hình. Tượng này, trong thời gian phục hồi và chuyển qua đền thờ dành riêng cho vua Lê Hoàn, vào đầu triều đại Hậu Lê đã bị rĩ một cách kỳ lạ, có lẽ là do tượng bị phơi nắng bất ngờ và đặt trong một thời gian dài ở một nơi ẩm ướt. Hiện tượng này người ta cho là sự đau đớn cùng cực mà cuộc đời dành cho bà, khi lúc bà còn sống.

Tên thật của bà là Dương Thị Vân Nga. Đây là tên mà người ta cho rằng được đặt từ sự liên kết của tên vùng đất của cha bà là Vân Long và của mẹ là Nga Mỹ. Bà xuất thân từ một gia đình rất nghèo. Bà phải khổ cực tìm kiếm cũi ở trong rừng từ khi còn trẻ và bắt cá trên sông để cung cấp cho sinh hoạt của gia đình ở một vùng núi hiểm trở. Sáng sớm thì ở trong rừng, chiều tối thì ở dưới sông, bà sớm trở thành một cô gái trẻ trong làng.
Nàng có một khả năng tổ chức bẩm sinh khiến cho phép nàng trở thành một nữ tướng của một nhóm cô gái trẻ ở trong khu vực của nàng vài năm sau đó. Nàng xoay sở rất giỏi để chống cự lại một đạo quân đối thủ gồm toàn những cậu con trai chăn trâu dưới quyện lãnh đạo của một chàng trai trẻ gan dạ và thông minh Đinh Bộ Lĩnh bằng cách làm cháy đuốc nứa nổ khiến làm tháo chạy tứ tung đàn trâu của anh chàng Đinh nầy và nhờ có các thuyền thúng khiến các nữ binh vận chuyển nhanh chóng thông qua sông và đầm lầy. Nhưng Đinh Bộ Lĩnh vẫn có lời nói cuối cùng nhờ mưu mẹo của chàng. Anh dùng sào và thuyền nhẹ làm bằng thảm tre để chọc thủng thuyền và làm bất động tất cả các thuyền thúng của Dương Vân Nga. Từ đó trở đi, Ðinh Bộ Lĩnh giành được không chỉ sự ngưỡng mộ của Dương Vân Nga mà cả tình yêu của nàng. Đây là lý do để gợi lên ngày nay, mối quan hệ vợ chồng và món nợ ban đầu của một cặp vợ chồng, người ta thường nhắc đến câu nói phổ biến sau đây: « Thuyền tre đè thuyền thúng« ).

Thuyền thúng

Nhờ sự liên kết của hai vợ chồng, họ thành công qui tụ tất cả những người trẻ của Hoa Lư dưới bóng ngọn cờ lau của họ và không lâu sau đó  loại trừ các đối thủ lợi hại trong cuộc chinh phục quyền lực. Nhờ thế Đinh Bộ Lĩnh trở thành vị vua đầu tiên của triều đại Đinh thường được gọi là Ðinh Tiên Hoàng. Ông ấy rất độc đoán và hay thường sử dụng chức vụ và lương bổng để mua chuộc lòng trung thành của các cấp dưới nhưng ông cũng thường dùng vũ lực và những hình phạt tàn khốc không thể tưởng tượng được để trừng phạt các đối thủ và những kẻ dám chỉ trích ông ta.
Bất chấp lời khuyên của Dương Vân Nga, ông vẫn tiếp tục điềm tĩnh và tạo ra có nhiều kẻ thù ngay cả trong gia đình. Thay vì phong chức thái tử cho con trai cả của ông, Đinh Liễn, người đã gíúp ông rất nhiều năm trong cuộc đấu tranh để thống nhất đất nước, ông lại chọn con trai kế Đinh Hoàng Lang làm thái tử. Điều này dẫn đến sự tức giận và ganh tị của Ðinh Liễn và thúc đẩy đến việc ám sát em trai của mình. Dương Vân Nga lần đầu tiên chứng kiến cuộc tranh chấp điên cuồng giữa các đứa con của mình, sau đó là lại thêm cái chết của chồng bà, vua Đinh Tiên Hoàng và con trưởng Đinh Liễn bị ám sát bởi tên quan lại cuồng tưởng Đỗ Thích, tin rằng vương quốc nầy thuộc về hắn  qua giấc mộng.  Tên sát nhân nầy bị tầm nã ba ngày liên tục trước khi khám phá nằm dưới mái nhà và bị kết án tử hình bởi  tể tướng Nguyễn Bặc. Giả thuyết nầy không thuyết phục chi cho mấy ngày nay. Các sử gia như Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vĩ hay  Lê Văn Siêu nhận thấy sự ám sát Đinh Tiên Hoàn có bàn tay của thống soái Lê Hoàn với sư đồng lõa của Dương Vân Nga. Sự tham vọng của Đỗ Thích  có phần quá đỗi và tột cùng bởi vì Đỗ Thích đâu có quân ngũ như Lê Hoàn. Ông còn là nhân vật duy nhất chứng kiến sự tàn sát nầy vì ông là thái giám của Đinh Tiên Hoàng.  Qua  lời tường thuật lịch sử, ông không có đồng lõa nào cả.  Thật đáng nghi ngờ  trong  cách lý luận nầy. Bà còn đau đớn thay  khi  nhìn thấy nỗi khốn khổ của con gái mình, công chúa Phật Kim bị chồng Ngô Nhật Khánh  thuộc dòng họ của tướng  quân Ngô Quyền bỏ rơi và  trốn sang Chiêm Thành để cầu viện quân nước nầy để chống lại đất nước mình, nhầm giành lại quyền lực mong muốn.

Tại sao Ngô Xuân Khánh chạy sang Chiêm Thành để  cầu viện binh chống lại xứ sở của mình? Tại sao Trung Hoa viện cớ để xâm lược nước Việt Nam? 

Nên nhớ rằng Đinh Tiên Hoàn đã thành công trong việc thống nhất đất nước vào thời điểm đó là nhờ ông áp dụng một chính sách cơ bản dựa trên sự kết hợp giữa sự mềm dẻo và liên minh đối với các lực lượng nổi dậy từ dòng họ của danh tướng Ngô Quyền để có sự ủng hộ của nhân dân Việt Nam trong việc chinh phục  quyền lực. Đó là lý do tại sao ông đồng ý gả con gái Phất Kim cho Ngô Xuân Khánh và lấy mẹ và em gái của Ngô Xuân Khánh làm vợ và cho con trai cả củA mình, Đinh Liễn. Cùng với mẹ của Ngô Xuân Khánh, ông có một đứa con trai tên là Đinh Hạng Lang. Để lấy lòng Ngô Xuân Khánh và mẹ, ông chọn Đinh Hạng Lang làm thái tử thay vì cho con trai cả của mình Đinh Liễn. Sự sai lầm tai hại này đã khiến Đinh Liễn tức giận và ra tay ám sát em trai của mình Đinh Hạng Lang. Thay vì xử tội Đinh Liễn, Đinh Tiên Hoàng lại tha tội cho con khiến làm Ngô Xuân Khánh hết còn hi vọng cướp quyền hành một ngày nào  ở người em trai còn nhỏ tuổi cùng mẹ khác cha,  Đinh Hạng Lang như Vương Mãng ở thời nhà Hán khi vua Đinh Tiên Hoàng qua đời. Chính vì vậy Ngô Xuân Khánh mới trốn qua Chiêm Thành để  xin viện binh và để giành lại quyền lực mong muốn. Còn nhà Tống đây là cơ hội hiếm có để chiếm lại nước An Nam vì nhà Tống chỉ công nhận Đinh Liễn là người kế vị duy nhất nên phong cho Đinh Liễn chức vị là « Nam Việt vương« .

Phong cảnh hữu tình của Ninh Bình 

 Bởi vì đứa con trai út còn nhỏ tuổi (6 tuổi) Ðinh Toàn, Dương Vân Nga  phải đảm nhận chức vụ nhiếp chính với tướng quân Lê Hoàn. Nhưng bà gặp ngay sự kháng cự vũ trang từ những người ủng hộ Đinh Tiên Hoàng bị sát hại, muốn loại trừ Lê Hoàn bằng mọi giá và bà phải đối mặt không chỉ với mối đe dọa và cuộc xâm lăng  của nhà Tống mà luôn cả với Chiêm Thành. Bà phải đối mặt với một vấn đề nan giải mà người phụ nữ dường như khó vượt qua nổi khi bà sống ở trong thời đại Khổng giáo và khi Việt Nam mới được giải phóng chỉ có mười năm ra khỏi sự thống trị của Trung Quốc. Bà rất can đảm đưa ra một quyết định có vẻ khả nghi vào thời điểm đó và gây ra nhiều hậu quả tai hại cho triều đại nhà Đinh bằng cách nhường lại ngai vàng cho tướng quân Lê Hoàn và liên kết với ông trong việc quản lý  Đại Cồ Việt. Điều này làm  Lê Hoàn có được sự ủng hộ phần lớn của quần chúng và khôi phục lại không những  lòng tự tin mà còn có luôn sự đoàn kết của cả dân tộc. Nhờ đó, ông thành công trong việc đàn áp cuộc nổi loạn (Nguyễn Bặc, Đinh Điền), tiêu diệt quân Tống trên sông Bạch Đằng, khởi đầu hành trình « Nam Tiến » và khôi phục lại hòa bình cho đất nước. Chúng ta cần phải tự đặt mình vào bối cảnh chính trị bối rối này mà Dương Vân Nga thừa  biết để nhận thấy rằng đây là một hành động được suy nghĩ kĩ càng và sự can đảm lạ thường của một người phụ nữ, được đào tạo cho đến giờ để sống trong khuôn khổ của Khổng giáo, dám chấp nhận sự nhục nhã và khinh miệt để đảm bảo rằng đất nước nầy không bị trở lại dưới ách thống trị của Trung Quốc và Việt Nam không rơi vào tình trạng hỗn loạn chính trị.

Cuộc chiến của bà có vẻ khó khăn hơn so với hai bà Trưng Trắc Trưng Nhị vì đây không chỉ là cuộc chiến chống quân xâm lược mà còn chống lại cả lợi ích riêng tư và tình cảm cá nhân của bà. Dưới triều đại của Lê Hoàn, bà không ngừng khuyên ông thực hành chính sách khoan hồng đối với các đối thủ của mình, xóa bỏ đi những hình phạt tàn khốc mà Ðinh Tiên Hoàn thiết lập và trọng dụng các thiền sư tài năng như Khuông Việt Ngô Chấn Lưu, Hồng Văn, Vạn Hạnh) trong việc quản lý đất nước. Tính tình rất hiếu chiến nên có tên là Lê Đại Hành, ông tiếp tục mở rộng bờ cõi Việt Nam bằng cách tiến hành không chỉ một cuộc viễn chinh trên biển phá hủy thủ đô Chiêm Thành Indrapura ở miền trung Việt Nam ngày nay vào năm 982 và giết đi vua chàm Bề Mị Thuế (Paramec Varavarman) mà cũng là một chính sách bình định toàn diện ở các lãnh thổ của các dân tộc thiểu số. Chính tại ở một trong các lãnh thổ nầy người con trai cuối cùng của Dương Văn Nga và Ðinh Tiên Hoàng, Ðinh Toàn đã bị ám sát thay thế cho Lê Hoàn bởi người Mán. Cái chết này tiếp theo sau đó việc tự sát của con gái bà, Công chúa Phật Kim và cái chết vì bệnh của con trai bà Long Thâu mà bà có với Lê Đại Hành. Bà bị dồn dập đau khổ bởi sự ra đi liên tiếp của những người xung quanh bà mà bà không nao núng một chút nào cả. Bà dành những ngày cuối đời ở tu viện Am Tiên và chôn vùi những nỗi đau cá nhân của một người phụ nữ đối mặt một mình với số phận.

Chúng ta có công bằng đối với một người phụ nữ yêu nước như Dương Vân Nga mà bị số phận áp đảo hay không, có được công đức nào trích dẫn xứng đáng như hai bà Trưng, Trưng Trắc và Trưng Nhị hay không trong lịch sử Việt Nam? Đây có phải là một điều thiếu sót cố ý vì sự vi phạm giáo điều của Dương Vân Nga kết hôn và phục vụ hai vị vua trong một xã hội phong kiến và Nho giáo của chúng ta không? Chúng ta không thể xóa bỏ được sự thật của lịch sử, nhất là các chi tiết của nó mà nhà sử học Trung Quốc Tư Mã Thiên thường nói.

Đã đến lúc phải trả lại cho Dương Vân Nga sự công bằng và địa vị xứng đáng từ lâu trong trang lịch sử của chúng ta và để các thế hệ tương lai nhận thức được sự quyết định dũng cảm và sáng suốt này. Điều này, mặc dù có vẻ bất minh và vô đạo đức đối với xã hội Khổng giáo, được thực hiện vào thời điểm mà tình hình chính trị đòi hỏi hơn bao giờ hết sự đoàn kết và thống nhất của cả một dân tộc trước sự xâm lược của ngoại bang mà còn phải cần có một nhân tài xuất chúng như vua Lê Đại Hành của chúng ta. Không có ông, cuộc Nam Tiến sẽ không bao giờ được thực hiện cả.

Yên Bái (Nguyễn Thái Học- Cô Giang)

Version française
Chàng thì tuổi trẻ tài ba
Chết vì đất nước đúng là nam nhi
Nàng thì thân liễu sá chi
Chết vì tình nghĩa đáng ghi muôn đời 

© Đặng Anh Tuấn

Không tựa như các thành phố khác của Việt Nam, Yên Bái không có một nét quyến rũ nào về du lịch. Đây chỉ là một thủ phủ của một tỉnh, một thị trấn  nằm ven sông ở thung lũng sông Hồng giữa con đường đi từ Hà-Nội đến biên giới Trung Quốc (Lào Cai). Tuy nhiên Yên Bái vẫn tiếp tục nổi bật trong quá khứ bởi cuộc kháng chiến vũ trang do những người theo chủ nghĩa dân tộc Việt cầm đầu trong cuộc đấu tranh giành độc lập. Nó không chỉ thể hiện sự hy vọng của những người dân Việt  giành lại tự do bằng vũ lực mà còn là sự hiên ngang dũng cảm của những người nầy khi đối diện với cái chết sau sự thất bại của cuộc nổi dậy vào năm 1930. Chúng ta phải đặt mình vào bối cảnh chính trị ở thời gian này để hiểu được không những nguyên nhân của cuộc nổi dậy này mà còn sự khát vọng sâu sắc của người dân Việt giành lại độc lập sau sự thất bại của cụ Phan Chu Trinh, nguời  mà đặc ưu tiên cho việc tiến bộ xã hội trên độc lập chính trị, tiếp theo đó là sự ra đi vĩnh viển của ông và việc quản thúc tại gia của một nhà lãnh đạo khác, cụ Phan Bội Châu ở  Huế bởi chính quyền thực dân.

Bất chấp lời cảnh báo của đại tá Parfait-Louis Monteil vào năm 1924, ít có cải cách được thực hiện có lợi cho người bản xứ. Mặt khác, việc khai thác nhân công rẻ tiền ở các đồn điền cao su là việc ưu tiên hàng đầu và tột bật. Nhà văn hào người Pháp Roland Dorgelès đã nói đến việc nầy  trong  quyển sách mang tựa đề  « La Route Mandarine (Con đường cái quan) ».

Vùng đất  hoang này, khi nó được biết đến trong cơn sốc, tỏa ra hơi thở của người chết. Càng nhiều lối đi thỉ càng nhiều ngôi mộ được mở ra. Những cây cao su mảnh khảnh và thẳng hàng trồi lên khỏi mặt đất tựa như những hàng cây thập tự. Người chết sẽ lên tới hàng chục ngàn người vì bệnh hay suy dinh dưỡng. Đây là lý do tại sao người ta  không ngớt phàn nàn qua  bài thơ sau đây:

Kiếp phu đỗ lắm máu đào
Máu loang mặt đất máu trào mủ cây
Trần gian địa ngục là đây
Ðồn điền đất đỏ nơi Tây giết người.

Suốt nửa thế kỷ, những người chủ đồn điền  trên vùng đất nầy đã thu thập mủ cao su mà họ biến lại thành vàng. Chính trong những đồn điền này, mầm móng của các cuộc nổi dậy đã được hình thành. Một số người như Nguyễn Văn Viên đã tìm cách thoát khỏi địa ngục này và  gia nhập  sau  đó vào Việt Nam Quốc Dân Đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo. Để thể hiện lòng nhiệt thành và gây ra tiếng vang thuận lợi trong  giới  nghèo, đặc biệt là ở các đồn điền cao su, bất chấp sự miễn cưỡng của Nguyễn Thái Học, Nguyễn Văn Viên đã chủ động ám sát Bazin được biết ông nầy có  nhiệt tình trong việc tuyển dụng các người cu li và gữi họ sau đó đến các đồn điền cao su ở miền nam Việt Nam. Cái chết của Bazin  đã cho chính quyền thực dân có cơ hội để khởi động lại chính sách đàn áp toàn diện.

Mù Cang Chải (Yen Bái)

Do đó,  Việt Nam quốc dân đảng  đã trở thành mục tiêu chính trong cuộc đàn áp nầy. Đảng nầy không còn có khả năng di chuyển dễ dàng nữa. Nếu không phản ứng, thì sẽ là một cái chết chậm rãi vì tất cả các thành viên của đảng sẽ bị chính quyền thực dân bắt giữ sớm hay muộn. Nếu phản ứng với cuộc nổi dậy thì biết rằng đây sẽ là một vụ tự sát tập thể, mạo hiểm và mẫu mực. Đây là lý do tại sao Nguyễn Thái Học thường nói với các bạn đồng hành:

Ðại hà chi thanh, nhân thọ kỷ hà?
Ðợi sông Hoàng Hà trong trở lại, đời người thọ là bao?

Hình Nguyễn Thái Học ở nhà tù

Theo người Trung Hoa, sông Hoàng Hà chỉ có  trong lại  cứ sau ba trăm năm. Nguyễn Thái Học biết rất rõ anh ta sẻ đưa đồng đội của mình đến cái chết hiển nhiên. Anh biết không thể đợi thêm được nữa. Nhưng cái chết này có vẻ hữu ích vì nó nhắc nhở với người dân Việt rằng không có sự lựa chọn nào khác ngoài cuộc đấu tranh. Nó cũng đánh dấu sự khởi đầu của nhận thức và  thức tỉnh của cả một dân tộc trước số phận của họ mà được dẫn dắt cho đến giờ bởi những người thừa kế không xứng đáng của triều đại Nguyễn (Khải Định, Bảo Đại). Cuộc nổi dậy  ở Yên Bái là một thất bại không thể chối cãi bởi vì hầu hết các nhà lãnh tụ quốc gia đều bị bắt giữ.

Trái lại, nó đặt một cơ sở vững chắc và lâu dài mà từ đó đảng Cộng sản Việt Nam được hưởng lợi để thiết lập quyền lực và có được uy tính với người dân trong những năm tới để giành độc lập. Nó cũng là hồi chuông báo tử cho một đế chế thực dân đã mất đi nhiều cơ hội để thiết lập lại cuộc đối thoại và hợp tác với người dân bản xứ. Điều này dẫn đến việc tử hình tất cả các nhà lãnh đạo quốc gia. Nguyễn Thái Học là người cuối cùng bị xử chém. Trước khi bị xử tử, anh ta rất thản nhiên. Mặc dù kiệt sức ở trong tù, anh ta cố gắng hét to lên  bằng tiếng Pháp:

Chết vì tổ quốc
Chết vinh quang
Lòng ta sung sướng
Trí ta nhẹ nhàng…

Rồi hiên ngang nằm xuống nhìn máy chém không xúc động. « Hoan hô Việt Nam », đây là những tiếng được nghe anh phát biểu trước khi qua đời. Máu của anh  tung tóe khắp nơi dưới một bầu trời đen tối buồn thảm. Đầu của anh  thì rơi vào một cái xô chứa mùn cưa. (17 tháng 6 năm 1930). Anh ta chỉ mới có 27 tuổi. Trung thành với truyền thống Việt Nam, vợ của anh,  Nguyễn Thị Giang không trì hoãn để theo gót chân anh bằng cách tự sát vào ngày hôm sau (18 tháng 6 năm 1930) tại một nhà trọ nơi mà họ thường gặp nhau trước khi kết hôn. Nàng để lại một lá thư mà  có những câu văn, minh họa cho tình yêu bất diệt  mà nàng dành cho anh và đất nước:

Sống nhục sao bằng sự thoát vinh
Nước non vẹn kiếp chung tình
………
Cuộc đời xá kể chi thành bại
Trai trung thì gái phải trinh

Thi thể của mười ba lãnh tụ quốc gia nầy được chôn cất vào ngày hôm sau trên một ngọn đồi gần ga Yên Bái.

Nếu thành phố này ít được người biết đến  so với các thành phố  khác của Việt Nam, nó thể hiện ngược lại cái gì mà không có  thành phố nào có thể có. Nó biểu tượng sự trưởng thành và phẩm giá của cả một dân tộc tìm lại được  trước vận mệnh đất nước. Nó hiên ngang lớn mãi trong quá khứ cùng toàn dân Việt  Nam trong công cuộc tranh đấu giành độc lập.

Việt Nam Quốc dân Đảng

Văn hóa miệt vườn (Civilisation des vergers)

Version française

Trước khi trở thành đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam, đầu thế kỷ Kitô lãnh thổ này thuộc về vương quốc Phù Nam trong vòng 7 thế kỷ. Sau đó, nó đã được sáp nhập và thuộc về đế chế Angkor vào đầu thế kỷ thứ 8 trước khi được nhường lại cho các chúa Nguyễn vào đầu thế kỷ 17 bởi các vị vua Khơ Me. Đây là một khu vực được vung tưới bởi một mạng lưới kênh rạch khiến làm các cánh đồng của nó được phì nhiêu với đất phù sa qua nhiều thế kỷ và do đó thích ứng với việc trồng trọt các cây ăn quả. Sông Cửu Long lúc nào cũng làm người dân bản địa phải tranh đấu không ngừng cũng như sông Nil của Ai Cập với người nông dân. Sông Cửu Long đã thành công trong việc xây dựng một bản sắc « miền nam » cho người bản xứ và mang đến cho họ một nền văn hóa mà người dân Việt hay thường gọi là «Văn hóa miệt vườn ». Ngoài sự tử tế, lịch sự và lòng hiếu khách, người bản xứ của vùng đồng bằng này còn cho thấy ở nơi họ lúc nào cũng có sự gắn bó sâu sắc với thiên nhiên và môi trường.

Với sự giản dị và khiêm tốn trong cách sống, họ rất tự hào dành một phần nào quan trọng cho đạo lý và đức hạnh trong việc giáo dục con cái. Đó là tính cách đặc biệt của một người  con của đồng bằng sông Cửu Long này, một người dân miền nam Việt Nam sinh ra trên một vùng đất thấm nhuần triết lý của Phật giáo Nguyên thủy vào đầu thế kỷ công giáo và xuất thân từ sự hỗn hợp của nhiều dân tộc Việt Nam: người Kinh, người Chàm và người Khơ Me trong hai thế kỷ qua. Chúng ta không ngạc nhiên khi nghe trong một câu nói có những từ ngữ lạ thường, có sự pha trộn của các từ tiếng Hoa, tiếng Khơ Me và tiếng Việt. Đây là trường hợp của từ ngữ sau đây:

Sáng say, chiều xỉn, tối xà quần

để nói rằng có thể say sưa nguyên ngày sáng, chiều và tối. Bạn có thể dùng ba thứ tiếng: Việt, Hoa và Khơ Me « say », « xỉn », « xà quần » của ba dân tộc đề ám chỉ từ « say ». Cùng một ly rượu vang có thể uống được bất cứ lúc nào trong ngày và được chia sẻ trong niềm vui và tình anh em của ba dân tộc. Người bản địa của đồng bằng sông Mê Kông chấp nhận dễ dàng mọi nền văn hóa và mọi ý tưởng với sự khoan dung. Mặc dù vậy, họ phải khó nhọc  tạo dáng qua nhiều thế kỷ vùng đồng bằng nầy với mồ hôi bằng cách biến đổi nó từ một vùng đất hoang dã và dân cư thưa thớt thành một vùng đất giàu vườn rau cải và cây ăn quả và đặc biệt là  vựa lúa của Vietnam hiện nay. Điều này nó cũng không sai với những gì mà nhà địa lý người Pháp Pierre Gourou, một chuyên gia về thế giới nông thôn ở Đông Dương, đã tường thuật lại trong quyển sách của ông về những người nông dân Việt ở đồng bằng (1936):
Đây là một sự kiện địa lý quan trọng nhất của đồng bằng. Họ thành công trong việc mô hình hóa vùng đất đồng bằng nhờ  sức công lao của họ.

culture_verger

No Images found.

Trước khi trở thành vùng Lưỡng Hà của Việt Nam, đồng bằng sông Cửu Long là một không gian mênh mông của các cánh rừng,  các đầm lầy và các  cù lao. Nó cũng là một môi trường có nhiều dạng sống và các động vật hoang dã khác nhau (cá sấu, rắn hổ mây, hổ, vân..vân..). Đây là trường hợp ở tận phía nam  của tỉnh Cà Mau, nơi có rừng ngập mặn thứ hai trên thế giới được tìm thấy ngày nay. Đây là lý do mà thường nghe kể lại những buổi đầu khó khăn của  những người  dân Việt đầu tiên đến vùng đất mới nầy trong các bài ca dân gian của người Nam Bộ hoặc mô tả các cuộc phiêu lưu của những người Việt dám mạo hiểm vào rừng để đối mặt với những con hổ hung dữ và xuống dưới sông để lượm trứng của bày cá sấu. 

Muỗi kêu như sáo thổi
Đỉa lội như bánh canh
Cỏ mọc thành tinh
Rắn đồng biết gáy.

hay là
Lên rừng xỉa răng cọp, xuống bãi hốt trứng sấu

Bất chấp sự sợ hãi và nguy hiểm bám đuổi họ và đôi khi còn làm họ ớn lạnh rùng mình khi nghe tiếng chim hót  hoặc tiếng nước do sự chuyển động của một con cá cùng tiếng chèo thuyền làm họ giật mình giữa một không gian yên tĩnh, khắc nghiệt mà mọi chuyện nguy hiểm có thể xảy ra lúc nào. Nơi nầy, ngày cũng như đêm, muỗi rừng không ít khiến khi xưa đã có câu ca dao nầy: 

Cà Mau là xứ quê mùa, muỗi bằng gà mái, cọp tùa bằng trâu.

Trong thời kỳ gió mùa, ở vài nơi của đồng bằng bị ngập lụt, họ không có cơ hội đặt chân xuống đất liền trong nhiều ngày khiến họ phải chôn cất những người thân yêu bằng cách treo quan tài trên cây chờ nước rút để chôn cất hay dìm dưới dòng sông để thiên nhiên tự lo liệu lấy thông qua những câu chuyện cảm động được nhà văn hào Sơn Nam viết trong cuốn sách  « Hương Rừng Cà Mau »
Can đảm và kiên cường là những đức tính của người dân đồng bằng sông Cửu Long này để cố gắng tìm được một cuộc sống tốt hơn trong một môi trường khắc nghiệt. Kênh Vĩnh Tế dài hơn 100 cây số vào đầu thế kỷ 19, là một bằng chứng của một dự án vĩ đại mà tổ tiên của người ở vùng đồng bằng này đã thực hiện đào trong 5 năm liền (1819-1824) để giảm bớt nước muối trong đất và kết nối Hậu giang (Bassac) từ sông Mê Kông (Châu Đốc) đến cửa sông Hà Tiên (Vịnh Xiêm La ) dưới sự chỉ đạo của thống đốc Thoại Ngọc HầuHơn 70.000 người  dân Việt, người Chămpa và người Khơ Me  được huy động và gia nhập một cách miễn cưởng  vào dự án nầy. Nhiều người  đã bỏ mình ở nơi nầy. Trên một trong 9 chiếc bình của triều nhà Nguyễn được bố trí trước đền thờ các vị vua Nguyễn (Thế Miếu) ở Huế, có một dòng chữ kể lại các công trình đào kênh Vĩnh Tế  được hoàng đế Minh Mạng công nhận và tỏ bày lòng biết ơn đối với tổ tiên của người dân mìền nam. Vĩnh Tế là tên của bà vợ của thống đốc Thoại Ngọc  Hầu mà hoàng đế Minh Mạng chọn để nhìn nhận công lao của bà  có lòng can đảm giúp chồng trong việc thực hiện con kênh này. Bà ấy  đã qua đời hai năm trước khi kết thúc công trình này.

Đồng bằng  sông Cửu Long đã có một thời  từng là điểm khởi đầu cho  các cuộc di cư của các thuyền nhân sau khi chính quyền Sài Gòn bị sụp đổ (1975). Một số người bị  bỏ mạng  trong các cuộc hành trình nầy mà không có  một kiến ​​thức nào về nghề đi biển. Những người khác, những người không thể vượt đi được, đã bị chính quyền Việt cộng bắt lại được và bị gửi sau đó đến các trại cải tạo. Sự khắc nghiệt trong cuộc sống không ngăn được những người con của đồng bằng sông Cửu Long sống hạnh phúc trong môi trường của họ. Họ tiếp tục duy trì lòng hiếu khách và hy vọng có một ngày nào đó sẽ tìm được một cuộc sống tốt đẹp hơn. Họ cố rèn luyện để đạt được qua nhiều thế kỷ lòng cương quyết và một tinh thần cộng đồng vô song để tìm kiếm một vùng đất màu mỡ nuôi dưỡng và một không gian tự do. Để nói về các con người ở đồng bằng nầy, chúng ta có thể lấy lại câu nói của Sơn Nam ở cuối quyển sách của ông mà có tựa đề: Tiếp Cận với đồng bằng sông Cửu Long: Không ai yêu thương đồng bằng Cửu Long nầy hơn chúng ta. Chúng ta phải chấp nhận cái giá phải trả.

Chính ở vùng đồng bằng này, ngày nay chúng ta tìm thấy tất cả các khía cạnh hấp dẫn của vùng sông nước Cửu Long (mặt trời, nụ cười, vẽ đẹp miền nam bộ, lòng hiếu khách, hình bóng thiếu nữ qua chiếc nón lá, các con đò, chợ nổi, những nhà sàn trên nước, nhiều loại trái cây của vùng nhiệt đới, các trại nuôi cá, các đặc sản địa phương vân vân…). Điều này cũng được nhận thấy trong câu nói sau đây:

Đất cũ đãi người mới

Khi Việt Nam được thống nhất vào năm 1975, chính phủ Việt Nam đã đưa về vùng đồng bằng nầy có hơn 500.000 nông dân từ miền bắc và miền trung. Được nuôi dưỡng bởi đất phù sa, vùng đất nầy rất được màu mỡ. Nó trở thành lá phổi kinh tế và là một nguồn lợi trời ban cho 18 triệu người dân ở trong khu vực nầy. Nó có thể một mình nó nuôi dưỡng cả nước Việt Nam.

Paris ngày 26/04/2020

Đồng Bằng sông Cửu Long (Delta du Mékong)

Cửu Long nơi có chín rồng
Có sông nhiều cá có đồng lúa xanh
Thưở xưa là đất tranh giành
Người Nam nhắc đến không đành lìa xa

Version française
English version

 

Vùng đất nầy thưở xưa là lãnh thổ cũ của vương quốc Phù Nam. Người dân cư ở đồng bằng sông Cửu Long đến từ  sự hỗn hợp của  nhiều dân tộc Vietnam trong đó có người Kinh, người Hoa, người Chămpa và người Cao Miên.  

Một phần năm dân số sống ở đồng bằng này. Các hecta nhỏ nhất, các lô đất ít trồng trọt nhất của đồng bằng nầy cũng được khai thác bởi người bản xứ. Chính tại đây, chúng ta tìm thấy vô số tôn giáo: Phật giáo, Công giáo, Cao Đài giáo, Hồi giáo và Hoà Hảo giáo. Được tưới  nước bởi sông Cửu Long, vùng đồng bằng này đã sản xuất chỉ riêng nửa số gạo của Việt Nam, khiến quốc gia này trở thành  một nước xuất khẩu gạo nhiều nhất  thứ ba ở trên thế giới.

Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay được chia thành 12 tỉnh:

Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau.

Trước khi trở thành một phần đất không thể thiếu của Việt Nam, đồng bằng sông Cửu Long này thuộc về người dân  Khơ Me. Những người dân Việt định cư đầu tiên chỉ xuất hiện từ thế kỷ 16 trên lãnh thổ này, một vùng đầm lầy cho đến thời điểm đó  có nhiều cá sấu và rừng cây đước. Chỉ đến thế kỷ 17, lãnh thổ này mới thuộc về người dân Việt dưới sự lãnh đạo của nhà Nguyễn. Đây cũng là nơi mà có các cuộc chạm trán kịch liệt giữa quân Tây Sơn và những người theo chúa Nguyễn được sự hỗ trợ của các lính đánh thuê mà được đức giám mục Pigneau de Béhaine (Cha Cả) tuyển dụng vào cuối thế kỷ 18.

Ở vùng đồng bằng này có một hệ thống kênh rạch và sông tổng cộng được 4.000 cây số, tương đương với chiều dài của sông Cửu Long. Sông nầy được sinh ra từ các ngọn núi  đầy tuyết phủ của Tây Tạng ở tỉnh Thanh Hải, chạy xuyên hơn  4500 cây số  để đến đồng bằng và đi ngang qua sáu quốc gia: Trung Quốc, Miến Điện, Lào, Thái Lan, Kampuchia và Việt Nam. Nó được chia ra thành hai nhánh ở thủ đô của Cao Miên, Nam Vang: Tiền giang và Hậu giang (Bassac) chảy vào Việt Nam một cách riêng rẽ. Thượng lưu của sông Tiền chia thành bốn nhánh tại Vĩnh Long để chảy ra biển Đông.

 

  

Tọa lạc ở trung tâm của xứ Cao Miên, Biển Hồ (hay là Tonlé Sap) không chỉ là nơi điều tiết dòng chảy tự nhiên để ngăn chặn lũ lụt của đồng bằng mà còn là bể cá tự nhiên. Vào mùa hè, do những cơn mưa gió mùa, mực nước sông Mê Kông được nâng lên so với hồ nước và được nối liền với nhau qua một con kênh. Nhờ vậy biển Hồ được lấp đầy, từ 3000 km2 vào mùa nước thấp đến hơn 10.000 km2 vào cuối mùa mưa. Biển Hồ bắt đầu đổ nước ra  đồng bằng vào những ngày hết mưa. Đồng bằng sông Cửu Long không cần những công trình phát triển lớn hay là các con  đê để  chống lũ lụt  cũng như là một việc rất cần thiết với đồng bằng Bắc Bộ. Chính nhờ hệ thống tưới nước  của sông Cửu Long mà đồng bằng rất màu mỡ. Ở nơi nầy có rất nhiều vườn tược, cánh đồng, ruộng lúa  và  vườn trái cây.

Đây là những mảnh đất nhỏ được tưới bởi các kênh đào được liên kết với nhau bằng những cây cầu tre thường được gọi là   Cầu khỉ  Khi nói đến đồng bằng, chúng ta thường nói cò bay thẳng cánh. Điều này có nghĩa là vùng đồng bằng rộng mênh mông đến mức những con sếu có thể dang rộng đôi cánh khi chúng bay trên đồng. Chính ở vùng đồng bằng này, tại Sa Đéc, mẹ của tiểu thuyết gia Pháp  Marguerite Duras, điều hành một trường nữ sinh. Một thanh niên gốc Hoa  xuất thân từ một gia đình danh giá cũng sống ở đó. Anh nầy trở thành nhân vật chính của tiểu thuyết « Người tình ». Cuốn tiểu thuyết này đã làm bà Marguerite Duras trở thành một nhà văn hào nổi tiếng của văn học Pháp với giải thưởng Goncourt vào năm 1984 và bán được một triệu ba trăm nghìn quyển  trong phiên bản thông thường của nhà xuất bản “Editions de Minuit” và một triệu bản trong phiên bản  của tiệm sách “France-Loisirs”. Cũng ở vùng đồng bằng này, chúng ta  tìm thấy mỗi buổi sáng, hàng trăm con thuyền tập trung ở chợ nổi Phùng Hiệp  nằm ở ngã tư  của bảy con kênh theo hướng Cần Thơ đến Sóc Trăng hay các chợ ít tiếng tăm hơn như Cái Răng và Phong Ðiền, các phụ nữ đội nón lá cùng với các núi trái cây, các  đoàn vịt, gà và lợn đến chợ trên những chiếc thuyền nhỏ hoặc sử dụng phương tiện giao thông thô sơ (xe đạp, xích lô). Nhờ các vườn cây trái của đồng bằng mà chúng ta  tìm thấy một số lượng lớn của các loại trái cây như sau: xa pô chê, chôm chôm, khế, mãng cầu (hay na) vân vân … trên các chợ của Sài Gòn. Người ta  có thể nói rằng  vùng đồng bằng Cửu Long  nuôi dưỡng Sài Gòn và một phần lớn ở Việt Nam. Ở phía đông bắc của bán đảo, thì có Đồng Tháp Mười  mà một thời là nơi ẩn náu của Việt cộng và ngày nay trở thành vùng Camargue của châu Á.

Mặc dù thiếu sự giàu có trên phương diện khảo cổ, đồng bằng nầy vẫn tiếp tục đóng một vai trò kinh tế quan trọng đối với Việt Nam. Do đó, nó đã trở thành một vùng phải  đối đầu với  sự tranh chấp và thèm muốn  trong nhiều năm qua. Có một thời gian gần đây vùng đất nầy  mang  tên là Cochinchine (Nam Kỳ). Ngay cả Hồ Chí Minh, trong lúc ông còn sống, đã cho vùng nầy một tầm quan trọng  qua việc  chôn cất cha mình ở Sa Đéc. Có tên của những người lúc nào cũng nằm trong ký ức của người dân Việt như  Phan Thanh Giản, Võ Tánh, Nguyễn Trung Trực, Huỳnh Phú Sổ vân vân…   mà cũng  là những người xuất thân từ vùng đồng bằng nầy.


 Không có Đồng Bằng sông Cửu Long nầy Việt Nam không bao giờ có tự do và độc lập

vi đây là vựa lúa của

Việt Nam.  


La culture des vergers (Văn hóa miệt vườn)

Version vietnamienne

La culture des vergers (Văn hóa miệt vườn)

Avant de devenir le delta du Mékong du Vietnam, ce territoire appartint au début de l’ère chrétienne au royaume de Founan durant 7 siècles. Puis il fut repris et inclus dans l’empire angkorien  au début du VIIIème siècle avant d’être rétrocédé au seigneur des Nguyễn au début du 17ème siècle par les rois khmers. C’est une région irriguée par un réseau de canaux et de rivières  permettant de fertiliser ses plaines par les dépôts d’alluvions au fil des siècles et de favoriser ainsi  la culture des vergers.   Le Mékong met en lutte perpétuelle le natif de son delta comme le Nil de l’Égypte avec son fellah. Il réussit à lui bâtir une identité « sudiste » et à lui octroyer une culture, celle que les Vietnamiens ont l’habitude d’appeler « Văn hóa miệt vườn (culture des vergers) ». Outre sa gentillesse, sa courtoisie et son hospitalité, le natif de ce delta montre un attachement profond à la nature et l’environnement.

Avec la simplicité et  la modestie dans la manière de vivre, il  accorde une place prépondérante  à la sagesse et  à la vertu dans l’éducation de ses enfants. C’est le caractère  particulier de ce fils du Mékong, celui des gens du Vietnam du Sud qui sont nés sur une terre imprégnée du bouddhisme theravada au début de l’ère chrétienne et qui sont issus du brassage de plusieurs peuples vietnamien, chinois, khmer et cham durant les deux derniers siècles. On ne s’étonne pas  d’entendre  des expressions bizarres  où il y a  le  mélange des  mots chinois,  khmers et vietnamiens.  C’est le cas de l’expression suivante:

Sáng say , Chiều xỉn , Tối xà quần

pour dire qu’on est soûl le matin, l’après-midi et le soir.  Le Vietnamien, le Chinois et le Cambodgien emploient  respectivement  say, xỉn, xà quần   dans leur langage pour signifier le même mot « soûl ».  Le même verre de vin peut  être bu à tous les moments de la journée   et partagé avec plaisir et fraternité par les trois peuples. Le natif du delta du Mékong accepte facilement toutes les cultures et toutes les idées  avec tolérance. Malgré cela, il doit façonner au fil des siècles  ce delta  avec la sueur en transformant une terre jusque là inculte et peu peuplée en une terre riche en vergers d’agrumes et de fruits et surtout en un grenier à riz. Cela ne contredit pas ce qu’a écrit le géographe français Pierre Gourou, un spécialiste du monde rural en Indochine,  dans son ouvrage sur les paysans du delta  (1936):

C’est le fait  géographique le plus important du delta.  Ils réussissent  à modeler la terre de leur delta par leur labeur.

culture_verger

Avant d’être la Mésopotamie du Vietnam, le delta du Mékong était un  immense espace de forêts, de marécages  et d’îlots.   Il était un milieu apparemment inhospitalier foisonnant de diverses formes de vie et d’animaux sauvages (crocodiles, serpents,  tigres  etc…).  C’est le cas de l’extrême sud du  province de Cà Mau où se trouve aujourd’hui le deuxième mangrove du monde. C’est pourquoi on ne cesse pas de  raconter les difficultés rencontrées au  début de leur installation par les premiers arrivants vietnamiens dans les chansons populaires. 

Muỗi kêu như sáo thổi
Đỉa lội như bánh canh
Cỏ mọc thành tinh
Rắn đồng biết gáy.

Le bourdonnement des moustiques  ressemble au son d’une flûte,
les sangsues nagent à la surface de l’eau comme  le flottement des nouilles dans une soupe,
les herbes sauvages poussent comme les petits lutins,
les serpents des champs savent siffler. 

ou

Lên rừng xỉa răng cọp, xuống bãi hốt trứng sấu

On décrit l’aventure des gens osant s’aventurer périlleusement  dans la forêt pour affronter les tigres et descendre dans le fleuve pour ramasser la ponte d’œufs des crocodiles. Malgré leur intrépidité, le danger continue à les guetter et à leur donner parfois  des frissons dans le dos si bien que le chant d’un oiseau ou le bruit de l’eau provoqué par le mouvement d’un poisson accentué par celui de la barque les font sursauter dans un milieu inhospitalier et complice de tous les dangers. Durant la période des moussons, dans certains coins du delta inondés, ils n’ont pas l’occasion de mettre leurs pieds sur terre  et doivent enterrer leurs proches  en suspendant les cercueils dans les arbres dans l’attente du retrait de l’eau ou dans l’eau elle-même pour que la nature s’en charge à travers les récits émouvants rapportés par le romancier célèbre Sơn Nam dans son best-seller « Hương Rừng Cà Mau« .

Tới đây xứ sở lạ lùng
Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng ghê.

C’est ici que de jour comme de nuit, la nuée de moustiques affamées est visible dans le ciel. C’est pourquoi on a l’habitude de dire dans une chanson populaire: 

Cà Mau là xứ quê mùa,
muỗi bằng gà mái, cọp tùa bằng trâu.

Cà Mau est une région campagnarde.  Les moustiques sont aussi grosses  que les poules et les tigres  sont comparables à des buffles.

Le courage et la ténacité font partie des qualités de ces natifs du delta  pour tenter de trouver une vie meilleure dans un environnement ingrat. Le grand  canal Vĩnh Tế  long de plus de 100km au début du 19ème siècle témoigne d’un projet pharaonique que les aïeux des natifs de ce delta  ont  réussi à réaliser durant cinq années ( 1819-1824 ) pour dessaler la terre et  pour relier  le Bassac du Mékong (Châu Ðốc) jusqu’à l’embouchure Hà Tiên  (Golfe de Siam) sous la direction du gouverneur Thoại Ngọc Hầu. Plus de 70.000 sujets vietnamiens,  chams et khmers ont été mobilisés  et enrôlés de force dans cette réalisation. Beaucoup de gens y ont dû périr. Sur l’une des  9 urnes dynastiques rangées devant le temple pour le culte des rois de la dynastie des Nguyễn (Thế Miếu) à Huế, on trouve une inscription relatant les travaux de creusement du canal Vĩnh Tế avec reconnaissance par l’empereur Minh Mạng pour les aïeux des natifs du Mékong. Vĩnh Tế est le nom de l’épouse de Thoại Ngọc Hâu que l’empereur Minh Mạng a choisi pour reconnaître  son mérite d’aider courageusement  son mari dans la réalisation de ce canal. Elle est  décédée deux ans avant la fin de cet ouvrage.

Le delta était  à une certaine époque le point de départ pour l’exode des boat-people après la chute du gouvernement de Saigon (1975).  Certains ont péri dans le voyage sans la moindre connaissance de la navigation. D’autres n’ayant pas réussi à le quitter, ont été repris par les autorités communistes pour être envoyés aux camps de rééducation. La dureté de la vie n’empêche  pas les natifs du Mékong d’être heureux dans leur environnement. Ils continuent à garder toujours l’hospitalité et  l’espoir de retrouver un jour une vie meilleure. Ils se forgent  au fil des siècles  une détermination et un esprit communautaire sans pareil en quête d’une terre nourricière et un espace de liberté.  En parlant de ces gens du delta, on peut reprendre la phrase de l’écrivain Sơn Nam à la fin de son livre intitulé  » Tiếp Cận với đồng bằng sông Cửu Long » ( En contact avec le delta du Mékong ) : Personne n’aime ce delta plus que nous. Nous acceptons d’en payer le  prix.

C’est dans ce delta  qu’on trouve aujourd’hui   toutes les facettes  séduisantes du Mékong  (le soleil,  le sourire, l’exotisme, l’hospitalité,  les silhouettes à chapeau conique, les sampans, les marchés flottants, les maisons sur pilotis, une variété abondante des fruits tropicaux, la pisciculture en cage, le riz flottant,  les spécialités locales  etc …). C’est ce qu’on retrouve  dans le dicton suivant:

Ðất cũ đãi người mới
L’ancienne terre accueille les nouveaux arrivants.

Lors de la réunification du pays en 1975, le gouvernement vietnamien a installé plus de 500.000 paysans du Nord et du centre du Vietnam dans le labyrinthe de ce delta. Nourri par les  riches alluvions, il est d’une grande fertilité. Il devient aujourd’hui le poumon économique du pays  et une manne pour les 18 millions de la région. Il pourrait à lui seul, dit-on, nourrir tout le Vietnam. 

Paris le 26/04/2020

Chính sách giao hảo với Việt Nam (Thailande)

Version francaise

Sự hiếu khách mà vua Rama I dành cho Nguyễn Ánh sau này sẽ là cơ sở cho việc phát triển mối quan hệ tương lai giữa hai nước. Không lạ gì với cách cư xử chu đáo của Nguyễn Ánh trong việc tìm kiếm một giải pháp thích hợp để quản lý sự đô hộ ở Lào và Cao Miên với người Thái. Theo nhà nghiên cứu Vietnam Nguyễn Thế Anh, những quốc gia này được xem vào thời điểm đó là những đứa trẻ được hai nước Xiêm La và Việt Nam cùng nhau nuôi dưỡng, Xiêm La thì đóng thường ngày vai trò người cha còn danh hiệu của mẹ thì dành cho Viêt Nam. Sự phụ thuộc này được biết đến trong tiếng Thái dưới tên là « song faifa ». Theo nguồn tin của Xiêm La, Nguyễn Ánh đã gửi cây bạc và vàng từ Gia Định đến Vọng Các 6 lần, đây là một dấu hiệu bày tỏ sự trung thành của Nguyễn Ánh vào giữa năm 1788 và năm 1801. (2).

Trong một lá thư gửi đến vua Rama I trước khi trở về Gia Định, Nguyễn Ánh đã đồng ý đặt dưới quyền bảo hộ của Xiêm La trong trường hợp ông thành công trong việc khôi phục quyền lực. Đại Nam (tên cũ của Việt Nam) có chấp nhận trở thành quốc gia theo độ hình mandala không? Có một số lý do để bác bỏ giả thuyết này. Đầu tiên Đại Nam không chịu ảnh hưởng của Phật giáo Nguyên thủy và cũng không có môt nền văn hóa Ấn Độ như hai nước Cao Miên và Lào vì tôn giáo đóng một vai trò rất quan trọng trong độ hình mandala được định nghĩa bởi nhà nghiên cứu O. Wolter. Xiêm La cố gắng bành trướng ảnh hưởng và thống trị ở các khu vực mà người Thái được du nhập ít nhiều và nơi mà văn hóa Ấn Độ hóa được trông thấy rõ rệt.

Đây không phải là trường hợp ở Việt Nam. Chakri và người tiền nhiệm Taksin đã thất bại trong việc tiếp cận ở Nam Kỳ, một vùng đất mới nên có rất nhiều người dân Việt cư trú với nền văn hoá khác nhau. Chế độ chư hầu dường như không thể. Chúng ta không bao giờ biết được sự thật nhưng chúng ta có thể dựa vào thực tế mà để nhận ra những ân huệ của Rama I. Nguyễn Ánh có thể có một thái độ dễ hiểu này, rất phù hợp với tính tình của ông và đặc biệt nhất là với tinh thần Nho giáo thì việc phản bội không bao giờ có ở nơi ông. Chúng ta tìm thấy ở Nguyễn Ánh sự biết ơn và lòng nhân từ mà chúng ta không thể phủ nhận sau này với Pigneau de Béhaine (Cha Cà). Ông nầy đã dành rất nhiều nỗ lực để thuyết phục Nguyễn Ánh theo đạo Công giáo.

Dưới triều đại của ông, không có sự bắt bớ người Công giáo, có thể xem đây là sự biết ơn  của ông  với Pigneau de Béhaine. Từ quan điểm này, chúng ta có thể thấy ở nơi ông nguyên tắc nhân đạo (đạo làm người) bằng cách tôn vinh cả lòng biết ơn đối với những người đã bảo vệ ông trong suốt 25 năm thăng trầm và trả thù những kẻ đã giết hại tất cả người thân và gia đình của ông. (thù phải trả, nợ phải đền) 

Vào thời điểm lên ngôi  vào năm 1803 tại Huế, Nguyễn Ánh đã nhận được vương miện do vua Rama I cung cấp nhưng ông đã trả lại cho ông nầy ngay lập tức vì ông không chấp nhận được coi là chư hầu của vua và nhận được danh hiệu mà vua Xiêm Rama I thường quen  ban cho các chư hầu của mình. Thái độ này đi ngược lại với lời buộc tội mà người ta vẫn có về Nguyễn Ánh.Đối với một số nhà sử học Việt Nam, Nguyễn Ánh là kẻ phản bội vì ông ta cho người nước ngoài có cơ hội để chiếm Việt Nam. Người ta  thường dùng cụm từ tiếng Việt « Đem rắn cắn gà nhà »  với Nguyễn Ánh. Thật không công bằng khi gọi ông là kẻ phản quốc vì trong bối cảnh khó khăn mà ông có, không có lý do nào mà không hành động như ông khi ông  ở trong vực thẳm tuyệt vọng. Có lẽ là thành ngữ sau đây « Tương kế tựu kế » phù hợp với ông ta hơn mặc dù có nguy cơ trở thành con cờ của người nước ngoài. Cũng nên nhớ rằng nhà Tây Sơn đã có cơ hội gửi một sứ giả đến gặp vua Rama I vào năm 1789  với ý đồ (Điêu hổ ly sơn) nhầm để chóng lại Nguyễn Ánh nhưng nỗ lực này là vô ích vì Rama I tôi từ chối ngay.(3)

Là người thông minh, can đảm và nhẫn nhục với hình ảnh của vị vua  Cẫu Tiển của thời Xuân Thu, ông  ta dư biết hậu quả của các hành động của mình. Không chỉ có  vua Gia Long mà thôi  còn có hàng ngàn người đã đồng ý theo ông sang Thái Lan và nhận trách nhiệm nặng nề này là đưa người nước ngoài vào đất nước để chống lại  nhà Tây Sơn. Có phải tất cả họ đều là kẻ phản bội? Đó là một câu hỏi hóc búa mà rất khó để đưa ra một câu trả lời khẳng định và một sự lên án vội vàng mà không có  trước đó  sự công bằng  và không  nên bị thuyết phục bởi những ý kiến ​​đảng phái  chính trị khi chúng ta biết rằng Nguyễn Huệ luôn luôn là  người anh hùng được người  dân Việt ngưỡng mộ nhất nhờ thiên tài quân sự của ông.Thất vọng trước sự từ chối của Gia Long, vua Rama I, không có tỏ ra dấu hiệu oán giận nhưng ông ta đã nhận thấy sự biện minh nầy trong sự khác biệt  về văn hóa. Chúng ta tìm thấy ở vua Rama I không chỉ sự khôn ngoan mà còn có cả sự hiểu biết. Bây giờ vua Rama I muốn được đối xử như một người bình đẳng với Nguyễn Ánh. Sự đối xử bình đẳng này có thể được hiểu là mối quan hệ song phương « đặc quyền » giữa người anh cả  và người em trẻ với sự tôn trọng lẫn nhau. Mỗi người nên biết rằng  người nầy rất cần người kia dù đây chỉ là một liên minh hoàn cảnh. Các quốc gia của họ bị theo dõi bởi những kẻ thù ghê gớm đó là Miến Điện và Trung Quốc.

Mối quan hệ đặc quyền của họ không phai nhạt theo thời gian khi Rama I đem lòng yêu mến chị gái của Nguyễn Ánh trong thời gian đó. Chúng ta không biết bà nầy trở thành như thế nào  về sau là vợ  hoặc là cung tần của vua Rama I. Trái lại, có một bài thơ tình mà vua Rama I dành riêng cho bà và bài nầy vẫn được tiếp tục hát vào những năm 1970 trong cuộc diễn hành hàng năm của những chiếc thuyền hoàng gia. Về phần Nguyễn Ánh (hay Gia Long), trong thời gian trị vì, ông đã tránh đối đầu với Thái Lan về mặt quân sự với các vấn đề gai góc của  hai nước Cao Miên và Lào. Trước khi qua đời, Gia Long đã không ngừng nhắc nhở người kế nhiệm, vua  Minh Mạng để duy trì tình bạn này mà ông đã thành lập với vua  Rama I và coi Xiêm là một đồng minh đáng kính nể trên bán đảo Đông Dương (4). Điều này sau đó được chứng minh qua việc vua  Minh Mạng từ chối tấn công Xiêm La theo lời yêu cầu của người Miến Điện.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Anh, ở Đông Nam Á, trong số hai mươi quốc gia vào khoảng 1400, chỉ còn có ba vương quốc thành công được xem vào đầu thế kỷ XIX  là các cường quốc ở khu vực trong đó có Xiêm La và Đại Việt, một nước bắt đầu hành trình về phía Đông và một nước về phía Nam để gây thiệt hại cho các quốc gia bị ảnh hưởng  Ấn Độ giáo (Lào, Cao Miên, Chămpa). Sư xung đột lợi ích này ngày càng gia tăng với sự qua  đời của Rama I và Nguyễn Ánh. Những người kế vị của họ (Minh Mạng, Thiệu Trị ở phía Việt Nam và Rama III ở phía Xiêm La) đã bị vướng vào vấn đề kế vị của các vị vua Cao Miên đã không ngừng chiến đấu lẫn nhau và yêu cầu sự giúp đỡ và bảo vệ của Viet Nam và Xiêm La. Sau đó, được hướng dẫn bởi chính sách của chủ nghĩa thực dân và thôn tính khiến hai nước phải đối đầu hai lần về mặt quân sự vào năm 1833 và năm 1841  ở  lãnh thổ Cao Miên và Việt Nam và tìm thấy mỗi lần sau cuộc đối đầu một thỏa hiệp  có lợi cho hai nước và gây bất lợi cho các  nước bảo hộ của họ. Sự liên minh hoàn cảnh không còn được xem xét đến. Sự cạnh tranh càng ngày thể hiện rõ ràng hơn giữa hai quốc gia đối thủ  Đại Nam và Xiêm La, tạo ra giờ đây một khoảng cách cho việc giao hảo và liên minh nào có thể.  Ngay cả chính sách của hai nước cũng khá khác nhau, một nước theo mô hình Trung Hoa để tránh tiếp xúc với thực dân phương Tây còn một nước thì theo mô hình Nhật Bản để ủng hộ việc mở cửa biên giới.Thủ đô Nam Vang của Cao Miên  đã bị quân đội Việt Nam của tướng Trương Minh Giảng  chiếm đóng một thời trong khi đó các vùng ở  phiá Tây Cao Miên (Xiêm Riệp, Battambang, Sisophon) đều nằm trong tay Thái Lan. Theo nhà sử học người Pháp Philippe Conrad, nhà vua Cao Miên được coi là một thống đốc  bình thường của vua Xiêm La.  Các dấu hiệu hoàng gia như kiếm vàng, ngọc ấn đã bị tịch thu và giữ cất tại Vọng Các. Sự xuất hiện của người Pháp ở Đông Dương kết thúc  quyền bá chủ của hai nước đối với Cao Miên  và Lào.  Sự đô hộ  nầy giúp người Cao Miên và Lào thu hồi một phần lãnh thổ của họ trong tay của  người Việt và người Thái. Nước Đại Nam của Hoàng đế Tự Đức phải đối mặt với chính quyền thực dân Pháp đã sáp nhập sáu tỉnh Nam Bộ (Nam Kỳ).

Nhờ sự sáng suốt của các vị vua Xiêm La (nhất là Chulalongkorn hoặc Rama V), người Thái dựa vào chính sách cạnh tranh giữa người Anh và người Pháp, mà cố gắng giữ độc lập với cái giá phải trả là sự nhượng bộ lãnh thổ của họ ( các lãnh thổ Miến Điện và Mã Lai mà họ chiếm đóng trả lại cho người Anh và Lào và Cao Miên thì nhường lại cho  người Pháp). Họ đã chọn chính sách đối ngoại  mềm dẽo (chính sách cây sậy) như cây sậy thích nghi với gió. Không phải sự ngẫu nhiên khi thấy sự liên minh thiêng liêng của ba hoàng tử Thái Lan ở  thời kỳ khởi đầu thành hình quốc gia Thái Lan vào năm 1287 và sự phục tùng ngoan ngoãn của họ trước đoàn quân Trung-Mông của Hốt Tất Liệt (Kubilai Khan).

Chính chính sách tổng hợp thích ứng này cho phép họ tránh được các cuộc chiến tranh thuộc địa, luôn sát cánh với những kẻ chiến thắng và được tồn tại cho đến ngày nay như một quốc gia hưng thịnh mặc dù đã thành hình muộn ở lục địa Đông Nam Á. (chỉ có từ đầu thế kỷ 14)

[Hình ảnh ở Vọng Các]

[Trở về trang Thái Lan]

Cung tần mỹ nữ nhà Nguyễn

Version française

Version anglaise

Trong cunq quế âm thầm chiếc bóng
Ðêm năm canh trông ngóng lần lần
Khoảnh làm chi bầy chúa xuân
Chơi hoa cho rữa nhị dần lại thôi.

Ôn Như Hầu

Ngoài vua Gia Long, người sáng lập triều Nguyễn và Bảo Ðại, vị hoàng đế cuối cùng, không có vua nào của triều đại nầy phong cho người vợ chính của mình danh hiệu hoàng hậu suốt thời kỳ ngự trị. Không có tài liệu lịch sử nào được tìm thấy cho đến ngày nay cho phép chúng ta biết lý do về việc từ chối  này kể từ khi  sắc lệnh của Hoàng đế Minh Mạng được thi hành. Mặt khác, người vợ chỉ nhận được danh hiệu này sau khi qua đời. Mặc dù vậy,  người vợ nầy vẫn được xem coi là đệ nhất phu nhân (Hoàng Qúi Phi) ở khuê phòng nơi mà có sự sắp xếp, phân cấp rất mạnh mẽ, trong đó có  đến chín cấp bậc từ triều đại của vua Minh Mạng: bậc nhất được gọi là Nhất giai phi, bậc nhì là Nhị giai phi, còn bậc ba và tư là Tam giai tần  và Tứ giai tần, từ bậc năm đến bậc chín là Ngũ Giai Tiếp Dư , Lục Giai Tiếp Dư, Thất Giai Quí Nhân, Bát Giai Mỹ Nhân, Cữu Giai Tài Nhân.

Dưới tài nhân thì đến các quý bà ở nội cung, những người tiếp theo sau cùng  là cung nga, thế nữ. Những người phụ nữ này với các hoạn quan, các bà hoàng thái hậu và hoàng đế tạo thành một xã hội nhỏ ở Tử cấm thành. Cương vị của các người phụ nữ này (thậm chí là  những người hầu hạ), bất kể họ thuộc thành phần nào, được thay đổi nhanh chóng khi họ sinh ra được một  đứa con trai với vua.Nhắc đến các phi tần này, không thể không nhắc đến chuyện tình của Nguyên Phi, hoàng hậu tương lai được gọi về sau là Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu với hoàng tử Nguyễn Ánh, vua Gia Long. Bị đánh bại bởi nhà Tây Sơn vào mùa thu năm 1783, Nguyễn Ánh buộc lòng phải lánh nạn ở đảo Phú Quốc. Ông phải gửi con trai Nguyễn Phúc Cảnh, 4 tuổi đi cùng với Đức Tổng Giám mục Pigneau de Béhaine tới Pháp để tìm viện trợ quân sự từ vua Louis XVI (Hiệp ước Versailles 1787) và lánh nạn tạm thời  ở Vọng Các (Thái Lan) chờ quân tiếp viện của  nước Pháp. Trước giờ chia tay, Nguyễn Ánh vội vã cắt một thỏi vàng miếng làm đôi và đưa cho Nguyên Phi, một nửa, mà nói:Con trai của chúng ta đã đi rồi.Trẩm  cũng sắp rời xa thiếp để định cư tại Thái Lan. Thiếp ở lại đây chăm sóc mẹ của trẩm. Trẩm không biết ngày trở về hoặc nơi đoàn tụ của chúng ta. Trẩm để lại cho thiếp một nửa thỏi vàng miếng này như là một dấu hiệu tình yêu của chúng ta. Chúng ta sẽ có cơ hội gặp lại sau nầy nếu Trời cho phép trẩm đánh bại được quân Tây Sơn.

cung_tan

Tử Cấm Thành 

Trong những năm lưu đày của Nguyễn Ánh và bao lần thất bại trong việc giành lại quyền lực, Nguyên Phi  vẫn tiếp tục phục vụ và nuôi dưỡng mẹ chồng  của bà, hoàng hậu Hiếu Khương (vợ của Nguyễn Phúc Luân) một cách chu đáo và may đồng phục cho các tân binh. Bà xoay sở để vượt qua những khó khăn dành cho gia đình và thể hiện lòng can đảm và dũng cảm của mình để thoát khỏi những cạm bẫy do kẻ thù đặt ra. Nhờ sự kiên trì và sự bướng bỉnh mà Nguyễn Ánh đã thành công đánh bại quân Tây Sơn vào năm 1802 và trở thành hoàng đế Gia Long của chúng ta. Một ngày sau cuộc hội ngộ cảm động, ông hỏi vợ Nguyên Phi về  nửa thỏi vàng miếng mà ông đã trao cho bà vào thời điểm chia tay. Bà đi lấy lại và trao lại cho ông nửa thỏi vàng. Nhìn thấy một nửa thỏi năm xưa trong trạng thái sáng bóng, vua Gia Long  rất xúc động và nói với vợ Nguyên Phi: Vàng này mà nàng giữ được nó lộng lẫy như vầy trong những năm khó khăn và đầy biến cố của chúng ta  cho thấy rằng chúng ta đã được phước bởi ân sủng của Trời Đất để có thể ở gần bên nhau ngày hôm nay. Chúng ta không được quên điều đó và chúng ta cần phải nhắc nhở với con cháu của chúng ta về chuyện nầy. Sau đó, ông ta ráp lại hai nửa thỏi vàng và đưa toàn bộ thỏi vàng cho Nguyên Phi. Thỏi vàng này sau đó trở thành, dưới triều đại Minh Mạng, không chỉ là biểu tượng tình yêu vĩnh cửu của Hoàng tử Nguyễn Ánh với vợ Nguyên Phi mà còn là một vật tôn kính được tìm thấy trên bàn thờ của Hoàng đế Gia Long và Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu trong đền thờ Điện Phụng Tiên của Tử cấm thành Huế.

Không ai ngạc nhiên rằng, nhờ có cô con gái Ngô Thị Chánh, danh tướng của nhà Tây Sơn, Ngô Vân Sở, đã không bị hoàng đế Gia Long xử tử cuối cùng trong  cuộc chiến thắng nhà Tây Sơn vì con gái của ông là người vợ thứ yêu thích của hoàng tử Nguyễn Phúc Đàm, hoàng đế tương lai Minh Mạng của chúng ta. Khi sau này lên nắm quyền, ông không ngần ngại trao cho người vợ thứ này tất cả  những ân huệ  mà thông thường  chỉ dành riêng cho người vợ chính của mình. Sau này, trong suốt cuộc đời, bà  nầy thường có cơ hội nói với hoàng đế như sau:Ngay cả khi bệ hạ còn yêu thiếp nhiều đi nữa, ngày thiếp chết, thiếp  vẫn  thấy cô đơn trong mộ với hai bàn tay trắng. Đây là lý do tại sao, khi bà hiền phi này mất, hoàng đế đích thân  đến nơi chôn cất bà mang theo hai nén vàng. Sau đó, vua truyền  thái giám mở cả hai bàn tay của bà ra, nơi bà nằm an táng. Hoàng đế tự đặt vào mỗi lòng bàn tay một nén vàng và siết chặt hai bàn tay lại mà  nói với cảm xúc: Trẩm  cung cấp cho thiếp hai nén vàng rồi đó  để  giờ đây thiếp ra đi không bao giờ  với tay không cả.

Tình yêu này đã được tìm thấy lại khoảng năm mươi năm sau với vua thi sĩ Tự Đức. Bài này được vua sáng tác, vào thời điểm tang lễ của người cung phi yêu thích của ông. Đây là một bài thơ có tựa đề « Khóc Bằng Phi » mà  hai câu thơ sau đây đã bất tử hóa tình yêu và tình cảm sâu đậm mà vua Tự Đức  dành cho bà cung phi của ông:

Ðập cổ kính ra, tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi

Dưới triều đại nhà Nguyễn, khuê phòng đã chiếm một tầm quan trọng. Để củng cố quyền lực và giữ chân thuộc hạ thân tính của mình, hoàng đế Gia Long đã không ngần ngại thiết lập chính sách liên minh bằng cách lấy các cô gái  của thuộc hạ mình làm cung phi, đó là lời tiết lộ bởi người bạn tâm tình của vua, một quan lại người Pháp JB Chaigneau trong cuốn tựa đề « Những kỷ niệm ở Huê 1864 ». Nhưng đôi khi phi tần của vua cũng có thể đến từ một tầng lớp xã hội khác nhau. Đây là trường hợp của một phi tần của vua Thành Thái, cha của vua Duy Tân. Phi tần nầy là một cô lái đò ở Kim Long, một vùng được nổi tiếng có các cô cư dân con gái duyên dáng và quyến rũ. Đây là lý do tại sao dân gian  thường nhắc đến câu ca sau đây để nói lên tình yêu bình dị mà vua Thành Thái dành cho cô lái đò và sự táo bạo của một vị vua trong việc ngụy trang thành một du khách bình thường đến thăm Kim Long:

Kim Long có gái mỹ miều
Trẩm yêu trẩm nhớ trẩm liều trẩm đi

Một buổi sáng đẹp trời trong năm mới,Thành Thái, bị lôi cuốn bởi sự quyến rũ của vùng Kim Long, quyết định đi một mình, ngụy trang thành một du khách trẻ và đến thăm vùng đất nổi tiếng này. Trên đường về, vua phải dùng đò  mà cô lái đò là  một cô gái trẻ rất duyên dáng. Thấy cô ấy rụt rè với đôi má ửng hồng vua bắt đầu xao xuyến trong lòng và có ý định trêu chọc cô bằng cách hỏi đột ngột cô như sau :Thưa cô, cô có muốn cưới hoàng đế không? Cô sững sờ trước câu nói nguy hiểm này, nhìn chăm chú  vua và trả lời với sự chân thành: Đừng nói chuyện  đùa như vậy. Chúng ta sẽ bị chặt đầu cả đấy. Nhìn thấy cô ở trong trạng thái sợ hãi, vua quyết định quấy rầy cô thêm nữa: Đó là sự thật, những gì tôi đề xuất với cô. Nếu cô đồng ý, tôi sẽ là người mai mối cho việc này! Quá thẹn thuồng, cô ấy che giấu khuôn mặt với cánh tay của mình. Trên đò, trong số những người cùng đi, cũng có một người già ăn mặc rất bảnh bao. Đã lắng nghe cuộc trò chuyện của họ, người nầy không ngần ngại nài nỉ cô lái đò bằng cách  nói với cô : Thưa cô, cô chỉ cần nói « ưng » đi. Chúng ta sẽ xem ra sao. Được khích lệ bởi lời khuyên liều lĩnh này, cô lái đò nhanh chóng trả lời: Ưng đấy. Rất vui khi biết sự đồng ý của cô lái đò, Thành Thái đi về phía cô lái đò và nói một cách dịu dàng: Qúi phi của trẫm có thể nghỉ ngơi đi để trẫm chèo  tiếp cho. Mọi người đều ngạc nhiên trước những lời nói này và cuối cùng biết rằng đang đối mặt với vị hoàng đế trẻ tuổi Thành Thái. Ông được biết đến với các hoạt động chống Pháp, bị chính quyền Pháp truất  phế và lưu đày  sau đó đến đảo La Réunion dựa trên sự phóng đãng và « sự điên rồ » của vua . Khi đò cập bến Nghìn Lương, Thành Thái yêu cầu du khách trả tiền vé và dẫn cô lái đò về cung.

Nói chung, các cung tần thường sống  quanh quẩn với các cung nga thế nữ, hoạn quan và dành thời gian  trong việc thêu dệt. Một số người qua đời mà không bao giờ nhận được sự ưu ái của hoàng đế  mà  cũng không bao giờ  được rời khỏi cung điện. Còn số cung tần được chọn vào nội cung cũng tùy ý của vua. Chỉ có vua Minh Mạng có nhiều cung tần và con nhất. Khi được tuyển vào nội cung, các cung phi phải học thuộc lòng những điều cấm kỵ để tránh tai hoạ và phải luyện tập giọng nói nhẹ nhàng.  Phải kiêng kỵ một số chữ huý nếu không sẽ bị mắc tội. Chẳng hạn vua đau ốm thì gọi là « se », « siết » hay « vi dạng », còn ngủ thì nói là « ngự ngơi », còn thức dậy thì gọi là « tánh », còn đi chơi gọi là « ngự dạo » vân vân …Ở nội cung, áo quần thì phải dùng màu đỏ và màu lục. Còn màu vàng dành cho vua còn màu cấm kỵ là màu đen. Còn màu trắng chỉ được dùng làm áo lót.  

Một nhà thơ nổi tiếng ở thế kỷ 18 Nguyễn Gia Thiều thường được biết đến với cái tên Ôn Như Hầu (tước vị của ông), đã tố cáo sự bất công dành cho những người phụ nữ này, nỗi buồn và sự cô lập của họ trong tác phẩm « Cung Oán Ngâm Khúc » (hoặc nỗi buồn ở cung điện). Có những phụ nữ khác cũng  ở  được cương vị sũng ái nhưng không ai có thể sánh được với Ỷ Lan, phu nhân của vua Lý Thánh Tôn của triều đại Lý, người  phụ nữ đã được đảm nhận vương quyền thời đó  cùng vua trong chiến dịch chống lại vương quốc Champa. 

Con đò (La barque)


Version française
English version

Việt Nam là một vùng  đất có một hệ thống sông ngòi chặn chịt nên không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy ở nơi nầy có sự phổ biến và sự đa dạng của các thuyền bè mà được người dân Việt sử dụng trong các cuộc giao thông đường thủy: từ những chiếc thuyền  nhẹ và nhỏ nhất đến các thuyền  lớn mà được tìm thấy cho đến giờ  ở các nước láng giềng như Trung Quốc hoặc Nam Dương. Qua các chiếc thuyền đóng này, mới thấy được có sự ảnh hưởng của các nước ngoài đáng kể như ở miền Bắc với người Trung Hoa còn ở miền Nam Việt Nam thì với người Nam Dương, Ấn Độ và ngay cả với người Tây Phương. Ảnh hưởng này nó được thể hiện rõ ràng nhất là ở miền Trung Việt Nam, vì nơi nầy  cho đến thế kỷ 13 là vùng đất của những người Viking ở châu Á. Đấy là những người Chămpa mà nền văn minh của họ bị suy tàn trước cuộc nam tiến của người dân Việt. Tuy nhiên trải qua kinh nghiệm sống sâu sắc trước các cuộc bão tố thường xuyên ở các  vùng bờ biển, người dân Việt có được ý thức quan sát nên biết cách kết hợp sự hài hoà  tất cả dữ liệu của các kỹ thuật khác nhau ở nước ngoài  để rồi thực hiện được một cách mỹ mãn  những chiếc thuyền dễ điều khiển hơn các mẫu được trông thấy ở Trung Quốc, Mã Lai hoặc Ấn Độ, như ông  P. Paris đã từng lưu ý lại trong cuốn sách của ông mang tựa đề « Nghiên cứu sự quan hệ của bốn chiếc thuyền Đông Dương, BIIEH, 1946 ». Vì sự khắc nghiệt của thiên nhiên và cuộc đấu tranh hầu như vĩnh cửu chống lại Trung Hoa, người dân Việt buộc lòng tập trung nỗ lực chinh phục các đồng bằng. Tự giam mình trong chính sách biệt lập được phát huy mạnh mẽ ở Viễn Đông thời đó và thêm vào đó có sự hiện diện gần như thường trực của các tàu nước ngoài ở các hải cảng  như Hội An, Đà Nẵng, Sài Gòn, vân vân … khiến người dân Việt không thấy có lợi ích nào để ưu đãi sự vận tải hàng hải mặc dù họ được xem như là những người thủy thủ khéo léo nhất ở Viễn Đông. Trung Hoa đã công nhận  sự ưu thế của họ ở trên sông nước. Một ông quan cao cấp Trung Hoa thời nhà Tống, Bao Chi, đã có lần thông báo chuyện nầy qua một  bản báo cáo bí mật mà ông  có dịp trình lên cho  hoàng đế nhà Tống. Hầu hết các cuộc chiến thắng của người dân Việt chống lại Trung Quốc đều được diễn ra ở trên sông biển.

Người Việt Nam có thói quen  sử dụng thuyền làm phương tiện vận chuyển lương thực hay quân lính, đây là sự nhận xét của cha Prévost trong cuốn « Histoire des Voyages »  vào năm 1751 dựa trên sự mô tả của Samuel Baron được  xuất bản năm 1732. Hải quân Việt Nam chỉ được đạt đến đỉnh cao vào nửa đầu thế kỷ 19. Đó là thời kỳ vua Gia Long, được các trung úy người Pháp Jean-Baptiste Chaigneau (Nguyễn Văn Thắng), Philippe Vannier (Nguyễn Văn Chấn), vân vân…giúp đỡ, đánh bại  quân Tây Sơn ở Qui Nhơn  nhờ có hải quân  hoàng gia bao gồm một trăm thuyền buồm lớn từ 50 đến 70 mái chèo, súng đại bác và súng bắn đá  cùng ba tàu lớn  đóng theo phong cách  Âu Châu (Phénix (tàu Phụng), Aigle (tàu Đại Bàng) và Dragon-Volant (tàu Long)). Không hơn ba tháng ở xưởng tàu, các tàu nầy được đóng một cách khéo léo  mà cha Lelabousse đã lưu ý lại  trong báo cáo của ông đề ngày Nha Trang, ngày 24 tháng 4 năm 1800.

Để xin được thụ phong tước vị làm vua ở phương Nam với hoàng đế Trung Quốc, vua Gia Long đã gửi đi vào năm 1802 nhà thơ vĩ đại Trịnh Hoài Đức. Ông nầy là  người đại biểu đầu tiên của Việt Nam dùng đường biển để đi đến Bắc Kinh. Thật không may, thời kỳ hoàng kim nầy chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngũi bởi vì những người kế vị của vua Gia Long, được các quan lại Nho giáo phụ tá và vướng vào chính sách ngu dân, tiếp tục áp dụng chính sách cô lập đất nước một cách trầm trọng hơn nửa mặc dù có giác thư của học giả hiện đại Nguyễn Trường Tộ. Nhờ thế hải quân Pháp mới có dịp  thành công thả neo vài chục năm sau ở vùng biển Vietnam sau khi đánh chìm ở hải cảng Đà Nẵng (Tourane) năm chiếc thuyền bọc thép đầu tiên của hạm đội Việtnam vào ngày 15 tháng 4 năm 1847. Mặc dù người dân Việt không xem trọng  chuyện vận tải hàng hải, nhưng dầu vậy họ cũng dùng đủ mọi phương tiện trong việc  đóng thuyền. Có rất nhiều loại thuyền khác nhau được trông thấy và di chuyển dễ dàng hàng ngày ở trên sông biển vì ngoài  rừng ngập mặn được xếp hạng thứ hai sau Ba Tây trên thế giới (rừng U-Minh 1000 km2 ) ở bán đảo Cà Mau, Việt Nam còn có nhiều kinh rạch, các con sông cái như sông Hồng và sông Cửu Long và cả ngàn con sông nho nhỏ ( phụ lưu và phân lưu). Hơn nữa mạng lưới giao thông Vietnam vẫn còn thiếu thốn vào thời điểm đó.  Các chiếc thuyền của Việt Nam được phân chia ra thành hai loại:  một loại được đan với những thanh tre và được phủ lên bên ngoài với một lớp sơn mài (thuyền nan) và một loại khác được làm với các thân cây hay  hay đóng bằng gỗ (thuyền gỗ). Về loại thứ nhất, nếu là thuyền nhỏ thì thường được gọi là thuyền câu. Đấy là một chiếc thuyền rất nhỏ, có thể chứa được một người. Nếu chiếc thuyền nó nhẹ có kích thước tròn xoe, nó được gọi là « thuyền thúng » và được sử dụng thường xuyên bởi các ngư dân ở miền Trung Việt Nam.

img_3005

Thuyền thúng này nó có từ  thế kỷ thứ 10. Dương Vân Nga, người con gái của đất Hoa Lư, được nổi tiếng giỏi  chèo thuyền thúng này. Nhưng hôm thi đấu người thủ lĩnh của một nhóm trai tráng đối thủ ở trong làng, Đinh Bộ Lĩnh đã thành công làm bất động chiếc thuyền thúng của nàng bằng cách đục thủng thuyền qua một cây sào. Nhờ chiến thắng này  anh họ Đinh chinh phục được không những sự ngưỡng mộ mà  luôn cả tình yêu của Dương Vân Nga. Chiếc thuyền thúng này giúp sự vận chuyển mau lẹ  quân lính  qua các đầm lầy và  các kinh rạch nhỏ và đem lại cho  vợ chồng Dương Vân Nga và Đinh Bộ Lĩnh vài năm sau đó một chiến thắng vẽ vang  khi  đối phó  với  Trung Hoa. Còn loại thứ nhì, thành phần cơ bản vẫn là cây gỗ. Có vô số thuyền khác nhau nhưng nổi tiếng và được người dân Việt trọng dụng nhiều nhất là thuyền tam bản hoặc thuyền có ba ván.  Thuyền nầy thường được dùng để vượt các kinh rạch hay dùng làm đò ngang. Hầu hết những người chèo loại thuyền nầy là các cô gái trẻ. Đó là lý do tại sao có  rất nhiều câu chuyện tình yêu từ những chiếc thuyền này. Chúng ta thường được nghe nói rất nhiều về các  câu chuyện nầy,  nhất là về  vua Thành Thái với  cô lái đò. Người Vietnam hay có thói quen thường dùng đò ngang để sang sông lúc còn trẻ, một thời mà cầu cống còn hiếm hoi. Có lẽ là những lúc đó mà người khách quá giang có thể cảm thấy áy náy, nhớ lại các kỷ niệm và có những cảm xúc mãnh liệt khi có dịp trở lại bến sông. Anh ta cảm nhận bất lực  khi biết rằng cô lái đò xinh tươi duyên dáng mà anh ta tiếp tục có sự cảm tình riêng biệt và lo lắng cho số phận,  nay không còn ở đó nữa. Có lẽ, cô ấy bây giờ  đã làm mẹ của một gia đình  hay là sang thế giới bên kia. Cô không còn ở đó để chào đón anh với nụ cười duyên dáng và khéo léo. Anh cũng  không còn có dịp để nghe lại  điệp khúc của cô và nhìn thấy hai tà áo dài phất phơ trong gió, nhẹ nhàng  bay bay khi sang sông. Chính trong bối cảnh bất thường này, anh cảm thấy lòng nặng trĩu không thể diễn tả được. Anh cảm nhận có lỗi  vì đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội để tìm thấy lại bến đỗ, dòng sông, quê hương và quên đi từ lâu nay sự quyến rũ vĩnh cửu của con đò và Việt Nam trước kia.

Nhà đạo diễn nổi tiếng nhất hiện nay ở Việt Nam, Đặng Nhật Minh, không ngần ngại thể hiện trường hợp ngược lại, một tình yêu kín đáo của cô lái đò trẻ sống  ở trên sông Hương, với công chúng nước ngoài và Việt Nam qua bộ phim của ông mang tựa đề « Cô gái trên sông (1987)». Đây là câu chuyện về  cô lái đò tên Nguyệt.  Dù tính mạng bị đe dọa, Nguyệt đã không ngần ngại cứu một chàng  thanh niên bị thương  mà cảnh sát miền nam Việtnam được biết đến bởi các hoạt động phản động của anh ta trong thời chiến tranh. Cô cố gắng giấu anh ta  trong  thuyền của mình. Một khi hòa bình được trở lại, chàng trai trẻ này trở thành một cán bộ cộng sản quan trọng. Cô gái nầy cố gắng tìm lại anh nầy vì cô vẫn tiếp tục giữ tình cảm sâu đậm với anh. Thật không may, cô cảm thấy đau khổ và bị phản bội vì anh chàng này giả vờ phớt lờ cô và không muốn nhớ lại thời gian khó khăn của cuộc đời mình. Cô cố gắng lập lại cuộc đời  của mình với người yêu cũ Sơn mà cô đã từ chối vài năm trước và người nầy đã bị đi học tập vài năm ở trại cải tạo vì anh đã sai lầm gia nhập quân đội miền Nam Việt Nam.Mặc dù được đóng với các vât liệu giản dị và tầm thường, các đò ngang vẫn tiếp tục quyến rũ người dân Việt. Họ không ngần ngại trọng dụng nó trong cuộc sống hằng ngày mà còn nhắc đến nó qua các bài hát và các bài thơ.

Những tác phẩm như « Con Thuyền Không Bến » của Đặng Thế Phong và « Đò Chiều » của Trúc Phương từng có niên đại từ nhiều thập kỷ và nhiều thế hệ, vẫn  tiếp tục được sự yêu chuộng và thể hiện  được  sự gắn bó sâu sắc của tất cả người dân Việt với con đò. Còn những bài thơ miêu tả các con đò, chỉ có ai là người dân Việt và có dịp đi đò mới nhận thấy được  sự tinh tế và vẻ đẹp được tìm thấy trong các câu thơ. Có thể khám phá qua  những bài thơ này  một đoạn đường đời của mình.  Nó chìm đắm trong ký ức với nhiều cảm xúc và nỗi buồn hơn là niềm vui và hạnh phúc. Cũng như câu ca dao  của người miền Trung dưới đây:

Trăm năm đã lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác đưa.

người đọc có thể nhận ra cũng như bao nhiêu người Việt khác bị níu trở về với những kỷ niệm  mà tưởng chừng đã xóa bỏ được nhiều năm qua trong ký ức. Cũng không thể tiếp tục buồn rầu như lúc còn trẻ và yêu đương qua hai câu thơ như sau:

Tương tư thuyền nhớ sông dài
Tương tư là có hai người nhớ nhau

Mà đến lúc phải có can đảm quên đi và bền lòng ra đi khi con đò đó không còn nữa.

Vô duyên đã lỗi hẹn hò
Mong làm chi nữa con đò sang sông
Thôi đành chẳng gặp là xong
Nhớ thương bền chặt bền lòng ra đi.

Cô ấy bây giờ ra sao? Cô ấy đã qua đời hay sống có hạnh phúc? Cô ấy có xứng đáng với cuộc sống mà cô ấy có không? Có được như một cô lái đò trẻ tuổi, chị Thắm, người đã từng cứu nhiều người thoát chết và chết đuối mà không có ai giúp đỡ cô ấy về sau  trong câu chuyện « Chảy đi sông ơi (1988) » của nhà văn tài ba Nguyễn Huy Thiệp? Hay là cô ấy giống như người phụ nữ trẻ tuổi Duyên, tiếp tục ngân nga một bài hát cho đứa con của mình ngủ:Nước chảy đôi dòng …Con sông Thương … Nước chảy đôi dòngvà  không bao giờ tự hỏi về cuộc sống của mình cũng như con sông lặng lẽ theo dòng nước ra biển  trong « Nước chảy đôi dòng của Nhất Linh (1932)»?. Đây cũng là những câu hỏi khiến người đọc tự hỏi trong lòng mình với các kỷ niệm riêng tư. Đó cũng là nỗi buồn sâu thẳm, nỗi đau sâu sắc của một người không còn cơ hội để tìm lại được thời tuổi trẻ của mình với con đò ngang và bến sông.  Rồi cũng nghĩ rằng với thời gian, có thể xóa đi tất cả những ký ức như dòng nước sông được khơi lại trong bài rất lạ thưòng mà chị Thắm hay có thói quen hát  trên bờ sông trong câu chuyện ngắn « Chảy đi sông ơi (1988)  » của Nguyễn Huy Thiệp:

Chảy đi sông ơi
Băn khoăn làm gì ?
Rồi sông đãi hết
Anh hùng còn chi ? …