Từ bao giờ có khu 36 phố phường ở Hà Nội?

Từ bao giờ có khu 36 phố phường ở Hà Nội?
Depuis quand il y a le quartier des 36 rues et corporations  à Hanoï?

Version française 
Version anglaise
Galerie des photos

Thăng Long được xuất phát từ làng Long Đỗ. Từ thế kỷ  thứ năm, vua Lý Nam Đế đã xây ở  đây « mộc thành» của nước Vạn Xuân. Nhà Đường, sau khi xâm chiếm nước ta lấy nơi nầy làm trị sở trên đất Long Đỗ và đổi tên nó ra Tống Bình.

Lý Công Uẩn dưới sự giúp đở của sư Vạn Hạnh nhận ra tiềm năng của vùng đất nầy vì nó là điểm giao nhau của các trục đường bộ và đường sông trong việc vận chuyễn hàng hóa. Vã lại nó còn  đáp ứng cho việc cân bằng  giữa các yếu tố  nước và đất hay là giữa dòng khí tốt (Rồng xanh) và dòng khí xấu (hổ trắng)   trong phong thủy mà được tướng nhà Đường Cao Biền  du nhập vào nước ta. Tục truyền Cao Biền dùng bùa phép yểm trấn thành Đại La nhưng nhờ thần Bạch Mã  trợ  giúp mà Lý Thái Tổ thành công trong  việc xây thành Thăng Long trên nền móng cũ của  thành Đại La. Đền thờ Bạch Mã vẫn  còn ngày nay ở phố Buồm (Rue des voiles). Vì vậy vào mùa thu 1010, Lý Công Uẩn mới ra quyết định dời đô từ Hoa Lư về vùng đất « Rồng cuộn, hổ ngồi ». Ngài muốn chọn một nơi để phát triển kinh tế  cho vận nước được lâu dài và tính kế lâu dài  cho con cháu được  muôn vạn thế hệ và muôn vật được phồn thịnh và phong phú.

Từ đó, ngài cần lập các công xưởng thủ công để sản xuất các hàng hóa mà triều đình cần dùng và tiêu thụ.  Không những các thợ thụ công giỏi đua nhau đến Thăng Long làm việc mà luôn cả các nông dân ở thôn quê vùng sông Hồng  lúc nhàn rỗi  cũng tham gia sản xuất các sản phẩm hàng thủ công bán cho các con buôn mà những người này họ mang về kinh thành bán lại để kiếm lời. Lúc đầu họ tụ hợp ở các phiên chợ  của bốn chợ lớn tại các cửa  ô kinh thành. Nhưng về sau vì các xưởng sản xuất của triều đình không thể cung ứng đủ nên khiến một số thương nhân dần dần tập trung tại khu phố  ở cửa Đông vì ở đây địa thế của chợ nầy rất thuận lợi cho việc chuyên chở hàng hóa bằng thuyền từ nông thôn ra kinh thành qua sông Hồng, Tô Lịch và các kênh. Phía trước mặt chợ  thời đó là đền Bạch Mã. Còn bên phải là sông Tô Lịch và thưở đó có cái cầu bắc ngang sông hiện nay đó là phố Hàng Đường. Bởi vậy ở thế kỉ 14 mới  có thành ngữ  « Kẻ Chợ » (những người của chợ) để nói đến khu phố tấp nập này. Chính  nơi nầy được gọi về sau là  khu 36 phố phường để bán các sản phẩm  thủ  công mà các làng nghề  xung quanh và ở nông thôn cung cấp. Các cửa hàng đều là những  nhà chòi dùng để làm cơ xưởng hay để buôn bán dọc theo phố (hay đường).

Tựa như các nhà ở đồng quê, các cửa hàng nầy được dựng lên bằng gỗ, tre, mái rơm và tường trét bùn. Nhà nào cũng có chum nước để ở trên mái  khi có hỏa họan  thì kéo đổ xuống mái. Quá sợ hỏa hoạn, người dân lập đền Hỏa Thần (nay nó nằm ở Hàng Điếu) để ngày rằm cầu xin thần lửa đừng gây cháy.  Kẻ Chợ dần dần thoát khỏi sự phụ thuộc vào kinh thành từ thế 17 dưới sự ngự trị của các chúa Trịnh nhờ có một  loạt nghị quyết như giảm thuế, thống nhất hệ thống tiền bạc và xây dựng nhiều công trình đô thị lớn dẫn đến sự phát triển đáng kể. Các thủ công nhà buôn từ các làng nghề đổ xô về cư ngụ lâu dài ở thành phố và các nhà con buôn nước ngoài  thì bắt đầu lập chi nhánh tại kinh thành khiến làm nền kinh tế nó rất sôi động hơn. Nhờ đó mà kinh thành trở nên trung tâm buôn bán lớn nhất của miền bắc Việt Nam.

Các thợ  thủ công và các thương nhân cùng một làng quê gốc tập hợp thành các phương hội rồi cùng nhau  chuyên sản xuất hay  bán ở phường. Để kiếm hàng cần mua thì chỉ cần đến phường mà trước lối cổng vào thì có một tấm bảng ghi rõ chất  lượng và loại hàng được bán.Thời kỳ này chữ phố cũng chưa được dùng. Theo nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến thì chữ phố vẫn được dùng với nghĩa là bến sông. Bởi vậy mới có câu « Gác mái ngư ông về viễn phố » (nhớ về bến xa)  trong bài thơ « Chiều hôm nhớ nhà » của bà Huyện Thanh Quan.Theo nhà sử học Pháp Philippe Papin, thì chữ phố được sử dụng vào năm 1851 ở huyện Thọ Xuyên và Vĩnh Thuân nên mới có chức trưởng phố  trong  quyến sách mang tựa đề là  « Lịch sử Hà Nội ». Còn trong sách Đại Nam nhất thống chí thì có chép như sau: Hà Nội là kinh đô xưa, nguyên trước có 36 phố phường …. Còn trong cuốn « Chuyến đi thăm Bắc Kỳ năm Ất Hợi  (1876) của học giả Trương Vĩnh Ký thì ông có kể ra 21 phố gồm có: Hàng Buồm, phố nầy cũng là phố Khách Trú có nhiều tiệm thuốc bắc, nhiều hàng cao lâu, Hàng Quảng Đông (Hàng Ngang hiện nay) nơi nầy cũng toàn  người khách trú ở, Hàng Mã thì gắn liền với nghề sản xuất, buôn bán đồ giấy, đồ vàng mã cúng lễ, ma chay vân vân… Như vậy chữ phố có thể ra đời từ đầu thời vua Tự Đức.

Các thợ kim hoàn xuất phát từ làng Châu Khê thì định cư ở phố Hàng Bạc. Còn thợ tiện gỗ đến từ làng Nhị Kê thì ở phố Tô Tịch vân vân…Họ luôn luôn giữ liên lạc với ngôi làng gốc của họ ở nông thôn trong việc tuyển nhân công, cung ứng nguyên liệu, ghi tên vào gia phả của làng, tham gia mỗi năm và các ngày hội của làng.


Các làng ở nông thôn trở thành các nơi cung cấp không những cho làng phố  đô thị các sản phẩm đạt trình độ kỹ thuật cao mà còn luôn cả nông phẩm cho kinh thành. Có thể nói các làng ở nông thôn và các làng phố ở kinh thành phụ thuộc lẫn nhau. Chính nhờ thế tình thần đoàn kết giữa các làng phố đô thị và các làng ở nông thôn càng chặt chẽ hơn nữa. Mỗi làng phố  đô thị được xây dựng dọc theo phố hay một đoạn của phố và lệ thuộc một hay nhiều làng cùng làm một nghề thủ công. Thời đó đăc điểm của làng phố là ở mỗi đầu của làng phố là có cổng ra vào. Các cổng nầy đều đóng lại lúc về đêm. Mỗi làng phố còn có một  bộ máy hành chánh riêng biệt cũng như có một trưởng phố, một  ngôi đình riêng tư nhầm để thờ các ông tổ của nghề hay là  các thần hoàng của các làng gốc ở nông thôn.  Dưới thời Pháp thuộc, để tránh hỏa hoạn thì chính quyền Pháp mới ra chỉ thị xây dựng lại thành phố qua  các công trình kiến trúc  kiên cố với các  ngôi nhà  hình ống mà  chúng ta được thấy ngày nay ở phố cổ Hà Nội mà họ còn  lấp đi nhiều ao hồ như hồ Hàng Đào, hồ Mã Cảnh, hồ Hàng Chuối, hồ Liên Trì vân vân…  Năm 1894, Pháp lấp đọan đầu sông Tô Lịch để xây chợ Đồng Xuân. Họ lại phá tường thành Hà Nội và các cửa thành. Nay chĩ còn duy nhất Ô Quan Chưởng hay (Ô cửa Đông) còn khúc sông Tô Lịch dưới chân thành cũng bị lấp đi.  Giờ  đây nhiều phố  chỉ còn tên mà thôi như phố Hàng Bè chớ cát bồi đưa sông ra xa nên bè mảng không còn vào được sát chân đê nữa. Như vậy đâu  còn bè mà cũng không còn chợ cái bè trên đê nữa. 

Còn các nhà hình ống nầy mang đậm phong cách phương tây nhất là mặt tiền với ban công, lô gia, hiên nhà vân vân. Còn vật liệu xây dựng thì gồm có xi măng, cốt thép, bê tông, kính vân vân … Tuy nhiên theo sử gia Pháp Philippe Papin thì các nhà ống ở Hànội là ảnh hưởng của cộng đồng người Hoa. Luận chứng nầy  không hẳn là sai nếu có  dịp đến tham quan các nhà cổ  của  người Hoa ở  Hội  An.  Nhưng theo nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến thì  dưới thời vua Minh Mạng,  đánh thuế  cửa hàng không  căn cứ  nhà đó  buôn to hay nhỏ  hay chiều sâu mà chỉ  đo mặt tiền.  Mặt tiền rộng đóng thuế  cao, hẹp thì  thuế  ít. Vì vậy mặt tiền rộng hay thường chia ra nhiều cửa hàng. Đôi khi con trai lập gia đình và không có điều kiện mua chỗ buộc cha mẹ phải nhường một phần cửa hàng nên mới có  sự  hình thành nhà ống.  Các nhà ống tuy mặt tiền rất eo hẹp nhưng có  thể có chiều dài lên đến 60 thước. Loại nhà nầy thường có ba phần: phiá trước dùng để buôn bán hay cơ xưởng  còn ở  giữa  hay thường  có  cái sân, nơi có một nhà nhỏ xây vòm cuống giống một cái lò cao 1,8 thước để chứa các đồ  qúi giá  phòng khi cháy chớ nếu không mất trắng tay và phần cuối thì để ở.

Trong quyển sách  được mang tên là « Miêu tả về vương quốc Bắc Kỳ », ông Samuel Baron, một thương gia người Anh có nhắc đến phố cổ qua một số tài liệu hình ảnh và những gì ông  mô tả  thật thú vị. Tuy rằng nhỏ hẹp so với diện tích của Việt Nam, khu phố cổ Hà Nội nó là minh chứng tiêu biểu của  nền văn hóa thương mại và đô thị của người dân Việt qua nhiều thế kỷ. Đây là một kiểu mẫu mà cần thiết phải biết tường tận để hiểu rõ  được cái cấu trúc truyền thống của đô thị trong thế giới làng mạc của người  dân Việt.


Version française

Thăng Long était issue  du village de Long Đỗ. Dès le Vème siècle, le roi  Lý Nam Đế construisit ici la « citadelle en bois » du royaume de Vạn Xuân. Après avoir envahi notre pays, la dynastie des Tang a pris cet endroit comme le quartier général de son armée sur les terres de  Long Đỗ et a changé son nom en Tống Binh. Lý Công Uẩn aidé par le  moine Van Hanh, a  trouvé l’énorme  potentiel de cet endroit  car il était à  l’intersection des routes et des voies fluviales pour faciliter le transport de marchandises. De plus, il a  répondu  également à l’équilibre et l’harmonie  entre les éléments Eau et Terre ou bien  entre le souffle  bienfaisant  (Dragon vert) et le souffle malfaisant (Tigre blanc) dans la géomancie  introduite dans notre pays par le général Tang Gao Pian. La légende racontait  qu’il  se servit des sortilèges pour protéger la citadelle de Đại La, mais grâce à l’aide  apportée par le génie  « métamorphosé en Cheval Blanc », Lý Thái Tổ réussit à édifier  la citadelle de Thăng Long sur les anciennes fondations de la citadelle de Đại La. Le temple dédié au culte du Cheval Blanc  existe encore aujourd’hui  dans la rue des voiles (Phố Buồm). C’était pourquoi à l’automne 1010, Lý Thái Tổ vint de décider le transfert de la capitale, de Hoa Lư à la région où le dragon s’enroulait et le tigre était assis. Il voulait choisir un endroit pour développer l’économie à long terme et prévoir un avenir radieux avec prospérité et abondance pour dix mille  générations futures. 

Il dut créer  dès lors des usines artisanales pour produire les marchandises dont la cour royale avait besoin pour la consommation.  Il y avait non seulement des artisans talentueux  se précipitant à  travailler à Thăng Long, mais aussi des agriculteurs vivant dans les campagnes de la région du fleuve Rouge. Ces derniers,  durant leur temps libre, ont également participé à la production de produits artisanaux destinés à être vendus aux intermédiaires  qui les ont ramenés dans la capitale pour les revendre dans le but de gagner de l’argent. Dans un premier temps, ils s’étaient rassemblés aux quatre grands marchés se trouvant tout près des  portes de la capitale. Mais comme les usines royales ne pouvaient pas approvisionner suffisamment les  produits, ils  s’étaient  progressivement regroupés  dans le quartier de la Porte Est car le terrain d’ici  était très propice au transport fluvial des marchandises  de la campagne vers la capitale en passant par le fleuve Rouge jusqu’à Tô Lich et les canaux.

À cette époque, devant le marché se trouvait le temple du Cheval Blanc (Bạch Mã). Sur sa droite il y avait la rivière Tô Lich et  un pont, le tout devenant aujourd’hui la rue  du sucre (Hàng Đường). C’était  pourquoi au 14ème siècle l’expression « Kẻ Chợ »  (ou les gens du marché) était employé  pour désigner ce quartier animé. C’était cet endroit qui devenait  plus tard  le  quartier de 36 rues et corporations  destiné à vendre tous les produits artisanaux fournis par les villages artisanaux et ruraux  aux alentours.  Les magasins  étaient entièrement  des huttes utilisées comme des ateliers de fabrication  ou des lieux pour faire du commerce tout le long de la rue.

Analogues à des maisons de campagne, ces magasins étaient  construits en bois et en bambou, avec des toits de paille et des murs enduits de boue. Chaque maison possédait  une jarre d’eau sur le toit qui, en cas d’incendie, pouvait  être renversée  sur le toit pour éteindre le feu. Étant effrayés par le feu, les gens ont décidé de construire  un temple  destiné au génie du feu (situé aujourd’hui dans la rue des pipes) pour lui demander de ne pas provoquer d’incendie tout le 15ème  jour du mois lunaire.  Kẻ  Chợ s’’était  progressivement échappé de la dépendance de la capitale depuis le XVIIème siècle sous le règne des seigneurs Trinh grâce à une série de résolutions telles que la réduction des impôts, l’unification du système monétaire et la réalisation de nombreux  projets urbains conduisant à un développement important. Les artisans  commerçants  des villages artisanaux affluèrent vers la capitale pour y vivre de manière permanente et les commerçants étrangers commencèrent à ouvrir aussi des succursales dans la capitale, ce qui rendait  l’économie plus dynamique. Grâce à cela, la capitale était  devenue ainsi  le plus grand centre commercial dans le  nord du Vietnam.

Les artisans et les commerçants d’un même village se regroupaient en corporations et se spécialisaient ensemble dans la production ou la vente dans le quartier. Pour trouver les produits dont vous avez besoin,  il vous suffit de vous rendre au quartier dont le portail d’entrée porte un panneau indiquant clairement la qualité et le type de produits vendus. Durant cette période, le mot rue n’était pas utilisé. Selon l’écrivain Nguyễn Ngoc Tiến, le mot rue était encore employé  pour désigner le quai fluvial. C’est pourquoi il y a la phrase « En déposant la rame, le pêcheur  se dépêche de retourner à la rive lointaine » dans le poème «L’après-midi  teinté de nostalgie» de Mme Huyện Thanh Quan. Selon l’historien français Philippe Papin, le mot « rue » était utilisé en 1851 dans les districts de Thọ Xuyên et Vĩnh Thuận. C’est pour cela que  le poste du chef de la rue est apparu  dans son  livre intitulé « Histoire de Hanoi ».

Dans le livre intitulé  Đai Nam Nhất Thống Chí (Géographie du Viet Nam), il est écrit ainsi: Hanoï était l’ancienne capitale, elle comptait à l’origine 36 rues etc. Dans le livre « Un voyage au Tonkin de  l’année du cochon en bois (1876) » de l’érudit Trương Vĩnh Ký, il a répertorié 21 rues dont: Hàng Buồm (Rue des voiles). Cette rue étant aussi la rue des immigrants chinois  avec de nombreux magasins de médecine traditionnelle et des restaurants chinois , Hàng Quảng Đông  c’était la rue des Cantonnais à l’époque française (rue Hang Ngang d’aujourd’hui), Hàng Mã  (Rue du cuivre à l’époque française) était  associée à la production et au commerce de papiers votifs, des objets de funérailles, etc. Le mot rue pourrait donc être né dès le début du règne du roi Tự Đức.

Les bijoutiers venus du village de Châu Khê s’étaient installés dans la rue des changeurs (Hàng Bạc). Quant aux tourneurs sur bois du village de Nhi Kê, ils habitaient dans la rue Tô Tịch et ainsi de suite… Ils gardaient toujours le contact avec leur village d’origine à la campagne en recrutant des ouvriers, en fournissant du matériel, en inscrivant leurs noms dans la généalogie du village et en participant chaque année aux fêtes villageoises.

Les villages ruraux étaient  devenus ainsi  des lieux qui approvisionnaient non seulement les villages urbains en produits de haute technologie mais aussi en produits agricoles pour la capitale. On peut dire que les villages de la campagne et les villages de la capitale dépendaient les uns des autres. Grâce à  cette interdépendance, l’esprit de solidarité entre les villages urbains et les villages ruraux était encore plus serré. Chaque village urbain était construit le long d’une rue ou d’un tronçon de rue et dépendait d’un ou plusieurs villages exerçant le même métier.

A cette époque, la particularité du village résidait sur le fait qu’à chaque extrémité du village il y avait toujours un portail d’entrée qui était fermé durant la nuit. Chaque village disposait  également d’un appareil administratif distinct ayant un chef de village, une maison communale dédiée  au culte des ancêtres du métier ou  des génies du village dont les gens étaient issus. 

Durant la période coloniale française, afin d’éviter les incendies, le gouvernement français prit la décision de réorganiser la ville au moyen des travaux architecturaux avec des maisons tubulaires que l’on voit aujourd’hui dans la vieille ville de Hanoï, mais il fit disparaître également  de nombreux étangs et lacs comme le lac Hàng Đào, lac Mã Cảnh, lac Hàng Chuối, lac Liên Trì  etc. pour construire les maisons et les bâtiments publics. En 1894, les Français ont asséché la partie supérieure de la rivière Tô Lich pour construire le marché de  Đồng Xuân. Ils ont de nouveau détruit les murs de la citadelle de Hanoi et ses portes. Il ne restait désormais que la porte Quan Chưởng  (porte  de l’Est) et la rivière Tô Lich en contrebas de la citadelle a également été comblée de sable et d’alluvions. À présent, de nombreuses rues n’ont plus que leur nom, comme la rue Hàng Bè (rue des radeaux), car le sable a repoussé la rivière plus loin, de sorte que les radeaux ne peuvent plus s’approcher du pied de la digue. Donc il n’y a plus de radeau. Alors  il n’y a non plus de marché des radeaux sur la digue.

Quant aux maisons tubulaires, on les voit mettre en valeur le style occidental, notamment leur  façade avec balcon, loggia, porche etc. Les matériaux de construction comprennent le ciment, les barres d’armature, le béton, le verre etc. Cependant, selon l’historien français Philippe Papin, les maisons tubulaires de Hanoï sont influencées par la communauté chinoise. Cet argument n’est pas forcément faux si on a l’occasion de visiter les anciennes maisons des Chinois à Hội An. Mais selon l’écrivain Nguyễn Ngoc Tiến, sous le règne du  roi Minh Mang, l’impôt sur les magasins n’était pas basé sur la taille ou la profondeur du magasin, mais uniquement sur la façade. Le propriétaire d’un magasin  ayant une façade relativement large doit payer une taxe plus élevée par rapport à celui possédant une  petite façade. On a intérêt de diviser  la grande façade en plusieurs petites façades donc en plusieurs boutiques. Parfois, un fils  qui se marie et n’a pas les moyens d’acheter un nouveau logement est obligé de demander à ses parents de céder une partie de leur boutique, ce qui donne naissance à la création des maisons tubulaires. Bien que celles-ci aient des façades très étroites, elles peuvent avoir une longueur allant jusqu’à 60 mètres.

Ce type de maison comporte généralement trois parties: le devant avec sa façade est réservé au commerce ou à l’atelier tandis qu’au milieu se trouve généralement  une  petite cour où on édifie  une petite maison avec un dôme  ressemblant à un four de 1,8 mètre de haut pour garder des objets de valeur en cas d’incendie  et le derrière  du magasin est destiné à l’habitation.

Dans son livre intitulé « Une description du royaume de Tonkin », le commerçant anglais Samuel Baron en a parlé avec ses illustrations et ses descriptions intéressantes. 
Malgré sa taille insignifiante par rapport à celle du Vietnam, le vieux quartier de Hanoï témoigne incontestablement de la culture commerciale et urbaine des Vietnamiens au fil de plusieurs siècles. C’est un modèle dont on a besoin pour connaître d’une manière approfondie la structure traditionnelle de la « ville » dans le monde rural des Vietnamiens.

English version

Thăng Long originated from the village of Long Đỗ. As early as the 5th century, King Lý Nam Đế built here the « wooden citadel » of the kingdom of Vạn Xuân. After invading our country, the Tang dynasty took this place as the headquarters of their army on the lands of Long Đỗ and renamed it Tống Binh. Lý Công Uẩn, aided by the monk Van Hanh, discovered the enormous potential of this place because it was at the intersection of roads and waterways, facilitating the transport of goods. Moreover, it also met the balance and harmony between the elements of Water and Earth, or between the beneficial breath (Green Dragon) and the harmful breath (White Tiger) in geomancy introduced to our country by General Tang Gao Pian. Legend has it that he used spells to protect the Đại La citadel, but thanks to the help provided by the spirit « transformed into the White Horse, » Lý Thái Tổ succeeded in building the Thăng Long citadel on the old foundations of the Đại La citadel. The temple dedicated to the worship of the White Horse still exists today on Sail Street (Phố Buồm). That is why, in the autumn of 1010, Lý Thái Tổ decided to transfer the capital from Hoa Lư to the region where the dragon curled and the tiger sat. He wanted to choose a place to develop the economy long-term and foresee a bright future with prosperity and abundance for ten thousand future generations.

He then had to create artisanal factories to produce the goods that the royal court needed for consumption. There were not only talented artisans rushing to work in Thăng Long, but also farmers living in the countryside of the Red River region. The latter, during their free time, also participated in the production of handicrafts intended to be sold to intermediaries who brought them back to the capital to resell in order to make money. At first, they gathered at the four main markets located near the gates of the capital. But since the royal factories could not supply enough products, they gradually regrouped in the East Gate neighborhood because the land there was very suitable for the river transport of goods from the countryside to the capital via the Red River to Tô Lich and the canals.

At that time, in front of the market was the White Horse Temple (Bạch Mã). To its right was the Tô Lich river and a bridge, all of which today is Sugar Street (Hàng Đường). That is why in the 14th century the expression « Kẻ Chợ » (or the market people) was used to designate this lively neighborhood.It was this place that later became the district of 36 streets and guilds, intended to sell all the handcrafted products supplied by the nearby artisanal and rural villages. The shops were entirely huts used as workshops or places for trade along the street.

Similar to country houses, these shops were built of wood and bamboo, with thatched roofs and mud-plastered walls. Each house had a water jar on the roof which, in case of fire, could be overturned onto the roof to extinguish the flames. Being afraid of fire, people decided to build a temple dedicated to the fire spirit (located today on Pipe Street) to ask it not to cause any fires on the 15th day of the lunar month. Kẻ Chợ gradually escaped dependence on the capital since the 17th century under the reign of the Trinh lords thanks to a series of resolutions such as tax reduction, monetary system unification, and the completion of many urban projects leading to significant development. Artisanal merchants from the craft villages flocked to the capital to live there permanently, and foreign traders also began opening branches in the capital, making the economy more dynamic. Thanks to this, the capital had thus become the largest commercial center in northern Vietnam.

Artisans and merchants from the same village would group together into guilds and specialize collectively in production or sales within the neighborhood. To find the products you need, you just have to go to the neighborhood whose entrance gate bears a sign clearly indicating the quality and type of products sold. During this period, the word « street » was not used. According to the writer Nguyễn Ngọc Tiến, the word « street » was still used to refer to the river quay. That is why there is the phrase « Upon laying down the oar, the fisherman hurries back to the distant shore » in the poem « Afternoon tinged with nostalgia » by Mrs. Huyện Thanh Quan. According to the French historian Philippe Papin, the word « street » was used in 1851 in the districts of Thọ Xuyên and Vĩnh Thuận. That is why the position of street chief appeared in his book entitled « History of Hanoi. »

In the book entitled Đai Nam Nhất Thống Chí (Geography of Vietnam), it is written as follows: Hanoi was the ancient capital, originally comprising 36 streets, etc. In the book « A Journey to Tonkin in the Year of the Wooden Pig (1876) » by the scholar Trương Vĩnh Ký, he listed 21 streets including: Hàng Buồm (Sail Street). This street was also the street of Chinese immigrants with many traditional medicine shops and Chinese restaurants. Hàng Quảng Đông was the street of the Cantonese during the French era (today’s Hang Ngang street). Hàng Mã (Copper Street during the French era) was associated with the production and trade of votive papers, funeral objects, etc. The word « street » could therefore have originated at the beginning of King Tự Đức‘s reign.

Jewelers from the village of Châu Khê had settled in the money changers’ street (Hàng Bạc). As for the woodturners from the village of Nhi Kê, they lived on Tô Tịch street, and so on… They always maintained contact with their native village in the countryside by recruiting workers, supplying materials, registering their names in the village genealogy, and participating each year in village festivals.

The rural villages thus became places that supplied not only the urban villages with high-tech products but also agricultural products for the capital. It can be said that the countryside villages and the capital’s villages depended on each other. Thanks to this interdependence, the spirit of solidarity between urban and rural villages was even stronger. Each urban village was built along a street or a section of a street and depended on one or more villages practicing the same trade. At that time, the uniqueness of the village lay in the fact that at each end of the village there was always an entrance gate that was closed at night. Each village also had a distinct administrative body with a village chief, a communal house dedicated to the worship of the ancestors of the trade or the village spirits from which the people originated.

During the French colonial period, to prevent fires, the French government decided to reorganize the city through architectural works with tubular houses that can still be seen today in the old town of Hanoi. However, they also caused the disappearance of many ponds and lakes such as Hang Dao Lake, Ma Canh Lake, Hang Chuoi Lake, Lien Tri Lake, etc., to build houses and public buildings. In 1894, the French drained the upper part of the To Lich River to build the Dong Xuan Market. They again destroyed the walls of the Hanoi citadel and its gates. Only the Quan Chuong Gate (the East Gate) remained, and the To Lich River below the citadel was also filled with sand and sediment. Now, many streets exist only in name, such as Hang Bè Street (Raft Street), because the sand pushed the river further away, so rafts can no longer approach the foot of the embankment. Therefore, there are no more rafts. Consequently, there is no longer a raft market on the embankment.

As for the tube houses, they are seen to highlight the Western style, particularly their façade with balcony, loggia, porch, etc. The construction materials include cement, reinforcing bars, concrete, glass, etc. However, according to the French historian Philippe Papin, the tube houses of Hanoi are influenced by the Chinese community. This argument is not necessarily false if one has the opportunity to visit the old Chinese houses in Hội An. But according to the writer Nguyễn Ngoc Tiến, under the reign of King Minh Mang, the tax on shops was not based on the size or depth of the shop, but only on the façade. The owner of a shop with a relatively wide façade had to pay a higher tax compared to one with a small façade. It was advantageous to divide the large façade into several small façades, thus into several shops. Sometimes, a son who got married and could not afford to buy a new home was forced to ask his parents to give up part of their shop, which led to the creation of tube houses. Although these have very narrow façades, they can be up to 60 meters long.

This type of house generally consists of three parts: the front with its facade is reserved for commerce or the workshop, while in the middle there is usually a small courtyard where a small house with a dome resembling a 1.8-meter-high oven is built to keep valuables safe in case of fire, and the back of the shop is intended for living quarters.

In his book titled « A Description of the Kingdom of Tonkin, » the English merchant Samuel Baron spoke about it with his illustrations and interesting descriptions. Despite its insignificant size compared to that of Vietnam, the old quarter of Hanoi unquestionably bears witness to the commercial and urban culture of the Vietnamese over several centuries. It is a model needed to gain a deep understanding of the traditional structure of the « city » in the rural world of the Vietnamese.

Galerie des photos

VILLAGE_URBAIN

[Return HANOÏ]

Bibliographie:

Nguyễn Bá  Chính : Hà Nôi Chỉ Nam. Guide de Hanoï. Nhà xuất  bản Nhã Nam, Hà Nội.
Philippe Papin : Histoire de Hanoï. Editeur Fayard.
Hữu Ngọc: Hà Nội của tôi. Nhà xuất bản Văn Học.
Nguyễn Ngọc Tiến: Làng Làng Phố Phố Hà Nội. Nhà xuất bản hội nhà văn.

Đình Minh Hương Gia Thạnh (Chợ Lớn, Saigon)

Temple Minh Hương Gia Thạnh 

Version française

Tọa lạc ở số 380 đường Trần Hưng Đạọ (Saïgon) , đình Minh Hương Gia Thạnh được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật bởi bộ Văn Hóa.  Đình nầy được coi xem là có lâu đời nhất  ờ vùng Saïgon-Chợ lớn do người Minh Hương xây dựng từ năm 1789. Người Minh Hương là những Việt gốc Hoa mà tổ phụ của họ là người Hoa, thần dân của nhà Minh sang định cư ở Đàng Trong sau khi nhà Minh bị  sụp đổ, được chúa Nguyễn Phúc Tần cho phép hai vị tổng binh cựu thần của nhà Minh Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên cư trú  ở miền nam tức là vùng đất của Chân Lạp cùng với 3000 binh sĩ và gia đình vào năm Kỷ Mùi (1679).  Dương Ngạn Địch  vào khai thác vùng Mỹ Tho còn Trần Thượng Xuyên thì vào khai khẩn vùng Biên Hoà (Cù Lao Phố), một vùng đất trù phú. Người ngoại quốc thường tới lui buôn bán ở nơi nầy. Trong thời kỳ chiến tranh giữa nhà Tây Sơn và Nguyễn Ánh, thì tất cả người Minh Hương đều đứng về phía chúa Nguyễn nên nhà Tây Sơn  tàn phá nhà  cửa của họ  vào năm 1776. Họ buộc lòng phải  lánh nạn  về  ở vùng đất Đề Ngạn xưa tức là Chợ  Lớn ngày nay. Đến năm kỷ dậu (1789)  dưới thời  Lê Mẫn Hoàng Đế  thì con cháu nhà Minh có quyền lập ra Minh Hương xã. Ban đầu chữ « hương » dùng chữ có nghĩa là « hương hỏa » (香火), đến năm 1827 đổi sang chữ có  nghĩa là « làng ». Như vậy Minh Hương có thể hiểu là « làng của người Hoa, thần dân của nhà Minh. Bởi vậy chúng ta cũng thường gọi họ là khách trú. Lúc đầu làng Minh Hương không có ranh định biên giới như các làng khác vì họ ở khắp mọi nơi của vùng đất mới. Người Minh Hương khỏi đi lính và khỏi đi làm xâu.  Nếu họ phạm phép  thì Minh Hương xã phân xử. Mặc dầu có đặc quyền như vậy, Minh Hương xã rất nghiêm ngặt trừng trị và  lo lắng  dạy dỗ con cháu họ. Bởi vậy họ sống rất hoà đồng với người dân Việt khiến  mới có câu ca dao như sau:

Gỏi chi ngon bằng gỏi tôm càng
Đố ai lịch sự bằng làng Minh Hương.

Chính vua Tự Đức đã có sắc tặng cho làng Minh Hương  bốn chữ: Thiện Tục Khả Phong (Phong tục tốt đẹp cần giữ lưu truyền), khắc vô một tấm biển, nay treo trước căn giữa Chánh điện của đình. Theo giáo sư Lâm Vĩnh Thế  thì năm 1865, Thống Đốc Nam Kỳ lúc bấy giờ là Đô Đốc De La Grandière ban hành quyết định chấm dứt quy chế làng của Minh Hương Xã, viện lý do là Sài Gòn và Chợ Lớn là châu thành tức là  thủ phủ của tỉnh, làng Minh Hương không còn có lý do tồn  tại nữa.  Đình Minh Hương Gia Thạnh không phải là nhà làng nữa mà trở thành từ đó nhà hương hỏa chung của tất cả hội viên, của tất cả công dân Việt Nam gốc Hoa có hơn hai trăm năm nay vì họ nói tiếng Việt, mặc quốc phục  trong các dịp tế lễ, cho con cái học trường Việt và hành xử hoàn toàn như là một công dân Việt Nam. Trịnh Hoài ĐứcNgô Nhân Tịnh, hai người Minh Hương làm quan đến chức thượng thư.

Đình được xây cất  theo kiểu nhà năm gian. Mái đình lợp ngói ống, trang trí hình lưỡng long tranh châu, cá hóa long, tượng ông Nhật bà Nguyệt, phù điêu trích từ các tuồng tích Trung Quốc. Trên cột và các đà ngang treo nhiều hoành phi, câu đối, phần lớn được làm từ đầu và giữa thế kỷ 19. Tại đình vẫn còn lưu giữ  nhiều cổ vật quý giá nhất là  đình có giá trị về nghệ thuật thư pháp, nghệ thuật chạm khắc gỗ mang phong cách Việt nam. Nhờ sự giải thích của chị Vân,một thành viên của ban tri sự quản lý  đình hôm đến tham quan, mình  được chị giải thích  biết nhiều  về  các cổ  vật trưng bày  của đình. Thật thú vị và  cũng tiện đây có một lời cám ơn chị qua bài viết nầy.

GIA THANH

Située au numéro 380 rue Tran Hung Dao (Saïgon), la Maison communale Minh Huong Gia Thanh est reconnue comme un monument architectural et artistique par le ministère de la Culture. Cette maison communale est considérée comme la plus ancienne de la région de Saïgon-Cholon, construite par les partisans de la dynastie des Ming  (ou Minh Hương) en 1789.

Les Minh Hương sont des Vietnamiens d’origine chinoise dont les ancêtres étaient des Chinois, sujets de la dynastie Ming qui s’étaient  réfugiés dans le sud après la chute de la dynastie Ming en Chine. Le seigneur Nguyễn Phúc Tần permit aux deux anciens généraux de la dynastie Ming, Dương Ngạn Địch et Trần Thượng Xuyên, de  trouver refuge dans le sud du Vietnam, l’ancien territoire du Chen La avec 3 000 soldats et leurs familles en l’année de la Chèvre (1679). Dương Ngạn Địch était allé exploiter la région de Mỹ Tho et  Trần Thượng Xuyên la région de Biên Hoà (Cù Lao Phố), un territoire riche et peuplé. Les étrangers le fréquentaient souvent pour y faire  des affaires. Durant la confrontation armée entre les Paysans de l’Ouest (Tây Sơn)  et Nguyễn Ánh, tous les Minh Hương s’étaient rangés du côté de ce dernier. Furieux, les Tây Sơn pillèrent leurs maisons en 1776. Les Minh Hương  étaient  obligés de se réfugier dans la région de Đề Ngạn (Cholon d’aujourd’hui). En 1789, sous le règne de l’empereur Lê Mẫn, les Minh Hương  obtinrent  le droit de fonder leur propre village.

Le mot « Hương » était initialement  écrit avec le pictogrammepour évoquer le culte des ancêtres (香火), mais il était remplacé ensuite  par le pictogramme  鄉 en 1827 pour signifier le village. Minh Hương  pouvait être compris ainsi comme  le village des sujets de la dynastie Ming. C’était pour cela on était habitué à les appeler « les résidents étrangers».

Au début, le village des Minh Hương n’était pas délimité par des frontières  comme les autres villages  grâce à leur possibilité de s’installer partout sur le nouveau territoire. Les Minh Hương  étaient exemptés du service militaire et ils n’étaient pas forcés de travailler gratuitement pour l’état. En cas de la violation de la  loi, ils seront punis par leur propre village. En dépit des privilèges qu’ils ont eus, les Minh Hương ne cessaient pas de respecter les lois avec sévérité et ils étaient toujours soucieux d’aider leurs enfants dans l’éducation. C’était pourquoi ils vivaient en harmonie avec les Vietnamiens, ce qui donnait naissance  à  la chanson populaire suivante :

Gỏi chi ngon bằng gỏi tôm càng
Đố ai lịch sự bằng làng Minh Hương.

Quelle salade peut-on trouver  aussi délicieuse comme celle de crevettes ?
Y a t-il quiconque plus poli que le village des Minh Hương ?

L’empereur Tự Đức  lui-même signa pour le  village des Minh Hương un décret comportant  quatre mots suivants: Thiện Tục Khả Phong (Les bonnes coutumes doivent être gardées et transmises), gravés sur une pancarte, désormais accrochée devant la salle principale de la maison communale. Selon le professeur Lâm Vĩnh Thế, en 1865, le gouverneur de la Cochinchine de l’époque, l’amiral De La Grandière, décida de mettre  fin au statut de la création du  village de Minh Hương Xã en prenant prétexte que Saigon-Cholon était la capitale de la province.  Le village des Minh Hương n’avait plus de raison d’exister. Mais il  était devenu dès lors la maison communale  dédiée au culte des ancêtres  pour tous ses membres et pour tous les citoyens vietnamiens d’origine chinoise depuis plus deux siècles car ils parlaient le vietnamien,  ils portaient des vêtements nationaux lors des cérémonies, ils envoyaient leurs enfants dans les écoles vietnamiennes et se comportaient entièrement  comme des citoyens vietnamiens. Trinh Hoài Đức  et Ngô Nhân Tịnh issus des  Minh Hương  étaient au poste de ministre.

La maison communale a été construite dans le style d’une maison à cinq compartiments. Son toit est recouvert de tuiles tubulaires, décoré d’un couple de dragons se disputant la perle enflammée, de poissons se transformant en dragons,  de génies de mariage et des tableaux en relief extraits des opéras chinois. Sur les colonnes et les poutres horizontales sont suspendus de nombreux panneaux horizontaux et des sentences parallèles dont la plupart ont été réalisés au début et au milieu du XIXème siècle.

La maison communale conserve encore de nombreuses antiquités, les plus précieuses étant l’art de la calligraphie et de la sculpture sur bois dans le  style vietnamien.  Grâce aux explications de Mme Vân, membre du comité de gestion  de cette association,  j’ai  beaucoup d’informations à savoir   sur les antiquités exposées.  Pour moi, c’est  très intéressant et  aussi  une opportunité  de lui rappeler ma gratitude à travers cet article.

 

 

Le village antique Cái Bèo ( Làng chài cổ Cái Bèo)

 


Version française

English version

Đến tham quan vịnh Lan Hạ, du khách  không thể không biết đến làng chài Cái Bèo. Đây là ngôi làng cổ trên biển  đã có từ thời tiền sử vì ở đây các nhà khảo cổ  đã tìm ra  từ 2006 các hiên vật được làm từ đá granite, 1.424 mảnh gốm tiền sử và 568 tiêu bản di cốt động vật, xương cá, vỏ sò, vỏ hàu vân vân. Nay Cái Bèo được  công nhận chính thức 2009   là di tích quốc gia. Cũng là nơi sinh sống của 300 hộ dân,  sống chủ yếu bằng nghề đánh cá biển và bắt sò, hàu. 

Cái Bèo

De passage à la baie de Lan Hạ, le touriste ne peut pas s’empêcher de connaître le village des pêcheurs de Cái Bèo. Il s’agit bien d’un ancien village qui a existé  depuis la préhistoire car ici les archéologues ont découvert depuis 2006 des artefacts fabriqués en granit, 1424 pièces de poterie datant de l’époque préhistorique et  568 pièces de reliques d’animaux, d’os de poisson, d’écailles et de huîtres etc. Aujourd’hui, Cái Bèo est officiellement reconnu comme monument national en 2009. Il abrite également 300 familles vivant essentiellement de la pêche en mer et d’élevage de coquilles  et d’huîtres.

Passing through Lan Hạ Bay, tourists can’t help but get to know the fishing village of Cái Bèo. This is an ancient village that has existed since prehistoric times because since 2006 archaeologists have discovered granite artifacts, 1424 pieces of pottery dating back to prehistoric times and 568 pieces of animal relics, fish bones, scales and oysters etc. Today, Cái Bèo was officially recognized as a national monument in 2009. It is also home to 300 families who live mainly from sea fishing and shell and oyster farming.

Myth of the household geniuses

Version vietnamienne

Version française

The myth of the household geniuses is based on the tragic story of a woodcutter and his wife. It has its roots in Taoism. This modest couple lived happily together until the day they discovered they couldn’t have children. The unfortunate husband began to drink and abuse his wife. Unable to bear it any longer, she left him and married a hunter from a neighboring village. But one day, overcome with loneliness and remorse, the woodcutter decided to visit his wife to apologize.

Meanwhile, the hunter returned home. To avoid any misunderstanding, the young woman hid her first husband in a thatched stable near the kitchen where the hunter was smoking his game. By misfortune, an ember escaped from the fireplace and set fire to the barn.

Panic-stricken, the young woman ran to the burning barn to save her ex-husband. The hunter followed to rescue her, and all three perished in the inferno. The Jade Emperor (Ngọc hoàng), deeply moved by this sad fate, divinized the three unfortunates from his celestial throne and entrusted them with looking after the welfare of the Vietnamese people in the advantageous location of the kitchen. From then on, they became the geniuses of the home.

During the week when the genies are in heaven, the Vietnamese fear that their homes will be unprotected. To prevent any incursion of evil spirits into their homes, they erect a tall bamboo pole (cây nêu) in front of their homes, on which clay plates (or khánh in Vietnamese) vibrate sonorously in the wind to ward off the spirits. At the top of the pole floats a piece of yellow cloth bearing the Buddhist emblem.

Vietnamese kitchen

This custom has its origins in a Buddhist legend entitled “The Woodcutter’s Tết”, according to which the Vietnamese have to confront evil spirits.

It’s always on the twenty-third day of the last lunar month that each Vietnamese organizes a ceremony to send the genie of the household to heaven. Not only are fruits, delicacies and flowers placed on his altar, but also appropriate travel equipment (3 pairs of boots, 3 hats, clothes, votive papers) and three carp placed in a small bowl. At the end of the ceremony, the votive papers are burned and the carp released into a pond or river for the genie to use to fly to heaven. The genie must report everything he has seen on earth to the Jade Emperor, particularly in the home of every Vietnamese. His stay in heaven lasts six days. He must return home on New Year’s Eve until the start of the New Year.

(*) cây nêu: This is a cosmic tree linking the earth to the sky, due to the beliefs of ancient sun-worshipping peoples, including the Proto-Vietnamese, but it is also used to demarcate their territory.

Technique de dorure sur bois laqué (Sơn son thếp vàng)

Technique de dorure sur bois laqué.

The technique of gilding on lacquered wood.

Version française
Version anglaise
Galerie des photos

Sơn son thếp vàng là một kỹ thuật cực kỳ công phu  hay thường được sử dụng trong việc chế tác các vật phẩm có tính chất tâm linh như các tựơng Phật và các đồ thờ như hương án, khám thờ, ngai thờ, bài vị, hoành phi câu đối vân vân… ở chùa chiền hay biểu tượng sự gìàu có và khẳng định sự tôn nghiêm, quyền lực của vương quyền trong chế độ phong kiến qua các cung đình. Nó không chỉ làm nổi bật lên vẻ đẹp, uy nghi và sang trọng mà còn gia tăng độ bền bỉ của các vật phẩm theo thời gian. Những năm gần đây, nhờ sự sùng tu Lầu Ngũ Phụng,Trường Lang, điện Thái Hoà vân vân trong Tử Cấm Thành, chúng ta mới nhận thấy kỹ thuật nầy không chỉ đòi hỏi nghệ nhân phải có tay nghề cao, kinh nghiệm, tĩ mĩ mà còn có tâm huyết và phải hiểu rõ luôn cả kiến thức xây dựng và mỹ thuật để hoàn thiện được phong cách của thời đại triều Nguyễn và làm nổi bật cái riêng biệt của mỗi cung điện. Trước hểt kỹ thuật « Sơn son thếp vàng” được tạo thành từ hai cụm từ « sơn son » và « thếp vàng ».Như vậy có hai khâu chính trong kỹ thuật nầy đó là khâu Sơn Son và Thép Vàng nhưng khâu sơn son lại đặc biệt quan trọng và phức tạp hơn nhiều so với khâu thếp vàng. Danh từ  « sơn » nầy dùng  để  ám chỉ  loại sơn được chế ra từ nhựa cây sơn ở trong rừng nước ta.  Nó có thể mọc tự nhiên hay được trồng để thu hoạch. Sau đó phài để sơn nó lắng đọng đến từ  ba  hay bốn tháng liên tục mới  có thể  gạn ra sau đó nhiều lớp nhưng lớp trên cùng là lớp lỏng có màu nâu là lớp  tốt nhất. Dù vật phẩm có tầm vóc cở nào, có thể  là tượng Phật hay cột ở trong cung đình Huế  đi nữa thì  nghệ nhân  cũng phải  tiến hành qua một số giai đoạn như sau: gắn kết, hom, lót.

Sau khi tạo cốt cho vật phẩm, nghệ nhân tiến hành đến việc sơn. Có nhiều giai đoạn  trong việc sơn son thếp vàng.Trước hết phäi xử lý phần thô vật phẩm qua việc trộn nước sơn với bột đá hay mùn cưa để lấp đi các vết rạn nứt của vật phẩm, giúp ngăn chặn sự nứt gãy, chống thấm nước, không bị mối mọt ăn. Đây là giai đọan  gắn kết. Nếu sau khi nước sơn khô, bề mặt của sản phẩm vẫn còn khuyến tật  thì nghệ  nhân buộc lòng dùng đất thó  trộn với nước sơn theo tỷ lệ nhất định. Có  thể  nước sơn nầy  được dùng đến nhiều lần  khi nó chưa đạt được yêu cầu. Tiếp theo  sau đó  đến việc mài  nhiều lần với nước làm cho nhẵn bề mặt và  sơn phủ lót nhiều lần toàn thể vật phẩm  với  nước sơn cuối (sơn sửa  chửa). Nói tóm lại  giai đọan Hom  nầy mất  rất nhiều thời gian và phải cần kiểm soát nghiêm khắc nhất là phải để các lớp sơn nó được khô. Thời gian khô của các lớp sơn nầy sẽ khác nhau mà còn tùy thuộc vào điều kiện thời tiết.

Còn thếp vàng là khâu dùng để trang trí và dán trên mặt  vật phẩm, lớp vàng lá hay vàng quỳ. Vàng nầy được dát thật mỏng đặt  lên  các mặt vật phẩm làm bằng gỗ mà được sơn lót trong khâu « Sơn Son » và lúc nước sơn lót chưa khô hoàn toàn. Chính nhờ vàng quỳ mà vật phẩm trưng bày  có được màu vàng tự nhiên, tạo ra  ánh kim dễ thu hút sư chú  ý và làm nổi bật giá trị qua sự  thay đổi màu sắc tùy theo độ « chín » của nước sơn.

Version française

La technique de dorure sur bois laqué est une technique extrêmement élaborée et souvent utilisée dans la fabrication d’objets ayant le caractère spirituel tels que les statues de Bouddha et les objets de culte comme les brûleurs d’encens, les édicules, les autels, les tablettes avec des sentences parallèles etc. trouvés surtout dans les pagodes ou le caractère solennel pour témoigner de la richesse et du pouvoir du régime féodal à travers ses palais. Elle met en valeur non seulement la beauté, la majesté et l’élégance, mais aussi la durabilité de ces objets dans le temps. Ces dernières années, grâce à la restauration du belvédère de 5 phénix, le long couloir Trường Lang, le palais de la Suprême Harmonie etc. dans la cité pourpre interdite de Huế, nous avons l’occasion de trouver que cette technique nécessite non seulement les artisans hautement qualifiés, pleins d’années d’expérience, méticuleux mais aussi leur dévotion au métier. Ils doivent avoir toutes les connaissances en construction et en arts pour parfaire le style de la période de la dynastie des Nguyễn en réussissant à mettre en valeur le caractère spécifique de chaque palais. D’abord le nom de cette technique provient de l’association de deux groupes de mots « Sơn son (Peinture d’un rouge vermillon) et «Thếp vàng (dorure sur bois laqué) ». Ceux-ci correspondent exactement à deux étapes importantes trouvées dans la réalisation de cette technique. Mais la première reste la phase la plus sophistiquée par rapport à la deuxième. Le mot «Sơn» fait référence au type de peinture fabriquée à partir de la sève de l’arbre sơn des forêts de notre pays. Cet arbre peut pousser naturellement ou être cultivé pour le rendement industriel. Ensuite, on doit laisser la peinture reposer durant trois ou quatre mois consécutifs avant de pouvoir la décanter en plusieurs couches mais la couche liquide supérieure brune reste la meilleure couche.
 
Quelle que soit la taille de l’objet (statue de Bouddha ou colonne du palais royal), l’artisan est obligé d’entamer le même processus composé de plusieurs étapes suivantes: boucher et sceller les fissures, rendre lisse la surface réparée en plusieurs fois avec les ingrédients différents (poudre de pierre, terre d’argile, sciures de bois etc.) et appliquer à la fin de ce processus la dernière couche de peinture avec le temps de séchage variable.
 
Après avoir créé l’ossature de l’objet, l’artiste commence à entamer la peinture. Il existe de nombreuses étapes dans la technique de dorure. Premièrement, la partie brute de l’objet doit être traitée en mélangeant de la peinture avec de la poudre de pierre ou de la sciure de bois pour couvrir et empêcher les fissures de l’objet en question et résister à l’eau et aux termites. C’est la phase d’agrégation et de réparation. Si après le séchage de la peinture, la surface de l’article continue à avoir toujours des défauts, l’artiste sera obligé d’utiliser de la terre d’argile mélangée à la peinture dans une certaine proportion bien déterminée. Cette peinture mélangée peut être utilisée à plusieurs reprises si elle ne répond pas aux exigences voulues. Ensuite vient le ponçage répété avec de l’eau afin de rendre lisse la surface et un apprêt répété de l’ensemble de l’article avec une couche de peinture finale (ou de retouche). Bref, cette phase Hom prend beaucoup de temps et nécessite un contrôle strict, en laissant sécher notamment les couches de peinture. Le temps de séchage de ces couches varie mais il dépend également des conditions météorologiques.
 
La dorure est une étape de décoration permettant de coller sur la surface d’un objet, une couche de feuille d’or. Cet or est laminé très finement et déposé sur les surfaces des objets en bois en question qui sont apprêtés lors de l’étape « Sơn Son » et qui ne sont pas complètement secs. Grâce à cette décoration, l’objet exposé a une couleur jaune naturelle et crée ainsi un éclat métallique qui retient facilement l’attention et fait ressortir sa valeur grâce au changement de couleur en fonction de la « maturité » de la peinture.
 
English version 
 
The technique of gilding on lacquered wood is an extremely elaborate technique often used in the manufacture of spiritual objects such as Buddha statues and religious items such as incense burners, shrines, altars, tablets with parallel sentences, etc. found mainly in pagodas or the solemn character to testify to the wealth and power of the feudal regime through its palaces. It highlights not only the beauty, majesty, and elegance, but also the durability of these objects over time. In recent years, thanks to the restoration of the Five Phoenix Pavilion, the Trường Lang Long Corridor, the Palace of Supreme Harmony, etc. in the Forbidden Purple City of Huế, we have had the opportunity to discover that this technique requires not only highly skilled craftsmen with years of experience and meticulous attention to detail, but also their devotion to their craft. They must have all the knowledge of construction and the arts to perfect the style of the Nguyễn dynasty period by successfully highlighting the specific character of each palace. Firstly, the name of this technique comes from the combination of two groups of words: “Sơn son” (vermilion red paint) and “Thếp vàng” (gilding on lacquered wood). These correspond exactly to two important stages in the execution of this technique. However, the first stage remains the most sophisticated compared to the second. The word “Sơn” refers to the type of paint made from the sap of the sơn tree found in our country’s forests. This tree can grow naturally or be cultivated for industrial production. The paint must then be left to settle for three or four consecutive months before it can be decanted into several layers, but the brown liquid layer at the top remains the best layer.
 
Regardless of the size of the object (Buddha statue or royal palace column), the craftsman must follow the same process, which consists of several steps: filling and sealing cracks, smoothing the repaired surface in several stages using different ingredients (stone powder, clay, sawdust, etc.), and finally applying the last coat of paint, which requires varying drying times.
 
After creating the framework of the object, the artist begins to start painting. There are many steps involved in the gilding technique. First, the raw part of the object must be treated by mixing paint with stone powder or sawdust to cover and prevent cracks in the object in question and to resist water and termites. This is the aggregation and repair phase. If, after the paint has dried, the surface of the item still has defects, the artist will be forced to use clay mixed with paint in a specific proportion. This mixed paint can be used several times if it does not meet the desired requirements. Next comes repeated sanding with water to smooth the surface and repeated priming of the entire item with a final (or touch-up) coat of paint. In short, this Hom phase takes a long time and requires strict control, particularly allowing the coats of paint to dry. The drying time for these coats varies, but it also depends on weather conditions.

Gilding is a decorative process that involves applying a layer of gold leaf to the surface of an object. The gold is rolled very thinly and applied to the surfaces of wooden objects that have been prepared during the “Sơn Son” stage and are not yet completely dry. This decoration gives the object a natural yellow color and creates a metallic sheen that easily catches the eye and highlights its value thanks to the change in color depending on the “maturity” of the paint.

2025

Galerie des photos

[Return Art de Huế]

Mausolée Thiệu Trị

Version française

Version anglaise

Galerie des photos

Được có tên là Xương Lăng, lăng của vua thứ ba của triều đại nhà Nguyễn, Thiệu Trị,  nằm dựa  lưng vào núi Thuận Đạo, ở địa phận làng Cư Chánh, phường  Thủy Bằng, quận Thuận Hóa, thành phố Huế, cách trung tâm thành phố khoảng cây số. Vua Thiệu Trị chỉ ngự trị có 7 năm và qua đời lúc 47 tuổi. Thiệu Trị được sử sách mô tả là một hoàng đế thông minh, tận tụy chăm lo việc nước, uyên bác nho học, yêu thích thơ ca. Nhưng Thiệu Trị không có đưa ra cải cách gì mới c ả, chỉ duy trì các chính sách hành chính, kinh tế, giáo dục, luật pháp, quân sự… từ thời vua Minh Mạng.

Étant connu sous le nom de Xương Lăng et adossé à la montagne Thuận Đạo, dans le village Cư Chánh du quartier Thủy Bằng, district Thuận Hóa, ville de Huế, le mausolée du troisième roi de la dynastie des Nguyễn, Thiệu Trị, est situé à environ 1 km du centre-ville. Ce roi n’a régné que 7 ans et est décédé à l’âge de 47 ans. Thiêu Tri est décrit dans les livres d’histoire comme un empereur intelligent, soucieux de prendre soin du pays, connaissant parfaitement le confucianisme et passionné de poésie. Mais Mais Thiệu Tri n’a pas entamé de nouvelles réformes en se contentant de maintenir les politiques administratives, économiques, éducatives, juridiques, militaires etc. de la période  de l’empereur Minh Mang.

Known as Xương Lăng and backed by Thuận Đạo mountain, in the village of Cư Chánh in the Thủy Bằng ward, Thuận Hóa district, Huế city, the mausoleum of the third king of the Nguyễn dynasty, Thiệu Trị, is located about 1 km from the city center. This king reigned for only 7 years and died at the age of 47. Thiệu Trị is described in history books as an intelligent emperor, concerned with taking care of the country, well-versed in Confucianism, and passionate about poetry. However, Thiệu Trị did not initiate new reforms, content with maintaining the administrative, economic, educational, legal, military, etc. policies of the period of Emperor Minh Mạng.

 

 

 

 

 

 

 

Phước Minh Cung (Temple de Guan Yu, Trà Vinh)

Phước Minh Cung

Quan Công là người hội đủ các đức tính trung dũng, tình nghĩa, độ lượng và công minh chính trực và cũng  là nhân vật nổi tiếng ở thời Tam Quốc hậu Hán. Chính vì vậy khi ông qua đời, người ta đã tôn thờ ông như một vị thánh. Bởi vậy nơi nào có người Hoa cư trú thường thấy họ hay thờ Quan Công. Ở Trà Vinh nơi thờ ông hay được gọi là Phước Minh Cung.

Étant un personnage réussissant à avoir toutes les vertus de courage, de loyauté, de générosité et de justice, Guan Yu est aussi  l’un des généraux célèbres chinois de l’époque des Trois Royaumes et de la fin des Han. C’est pour cela que  les Chinois le vénèrent comme un Saint lors de sa mort. Partout où la présence des Chinois est importante, on y trouve toujours un temple dédié à ce général. À Trà Vinh, le temple est connu sous le nom de Phước Minh Cung.

Lọng tán (Le parasol)

Lọng tán

Version française

Version anglaise

Việc sử dụng lọng tán nó có từ lâu dưới chế độ quân chủ nhưng về sau nó bị giới hạn nên chỉ còn thấy ở những nơi thờ tự như đình, miếu, đền, nhà thờ hay là những  ngày lễ hội mà thôi. Lọng hay thường làm bằng vải gấm, có nhiều màu và kích  thước lớn nhỏ.  Người công giáo Việt  còn giử ngày nay  tục lệ  cổ xưa nên chỉ dùng lọng màu vàng để hầu Đức Chúa Trời. Mới đây, mình có dịp đi tham quan điện Kiến Trung ở Tử Cấm Thành (Huế), mình được thấy và ngẩn ngơ trước cái đẹp lộng lẫy của  cái lọng tán được phô bày trong một phòng của điện khiến làm mình nhớ lại hình ảnh ngày lễ đăng quan của vua Duy Tân lúc ngài được 7 tuổi với các cận vệ và các lọng tán. Như vậy dưới thời nhà Nguyễn, việc dùng đồ lỗ  bộ nó có qui định rất rỏ ràng  khi vua quan đi công cán: bao nhiêu lọng tán với các hình thù khác  nhau được thấy ở trên đỉnh lọng (rồng, phượng, hồ lô  vân vân…) và các màu sắc để  thể hiện được cấp bậc (vua, hoàng tử, hoàng hậu, quan lại vân vân ..). Ở trong dân gian thường ám chỉ lọng qua câu ca dao như sau:

Một cột mà chín, mười kèo,
Chỉ xanh, chỉ đỏ xỏ lèo bốn bên.

Nói đến lọng  thì không thể nào không nhắc đến giai thoại đối đáp của Trạng nguyên Nguyễn Giản Thanh (1482-1552) lúc còn nhỏ với một vị quan. Có một hôm  ông này đi ngang qua làng của  cậu nhỏ  và khi nhìn thấy cậu này  đang mặc cái áo đỏ, trên tay lại có một cái tàu cau nên mới thốt ra vế  đối như sau: “Hoài áo đỏ quét phân trâu”. Cậu nhỏ nầy liền đối lại một cách nhanh lẹ: Thừa lọng xanh che dái ngựa”. Vị quan nầy đang lúc đó được che bằng hai lọng màu xanh.

Version française

L‘utilisation des parasols a longtemps existé sous la monarchie. Mais on a commencé à y recourir de moins en moins souvent. Leur présence est visible désormais dans les lieux de culte tels que les maisons communales, les sanctuaires, les temples, les églises ou dans les fêtes importantes.
Les parasols sont souvent fabriqués en tissu de brocart avec de nombreuses couleurs et de tailles différentes. Les Catholiques vietnamiens sont habitués à garder jusqu’à aujourd’hui la tradition d’employer le parasol de couleur jaune destiné à servir le Christ. Récemment, j’ai eu l’occasion de visiter le palais Kiến Trung dans la Cité interdite de Huế. J’ai été frappé de stupeur par la beauté magnifique d’un parasol exposé dans l’une de ses pièces. Cela m’a rappelé immédiatement la cérémonie d’intronisation de l’empereurDuy Tân accompagné de ses fidèles serviteurs et de ses parasols quand il était âgé de 7 ans.
Sous la dynastie des Nguyễn, l’utilisation des objets de culte devait être conforme ainsi aux règlements très stricts lors du déplacement du roi ou celui de ses mandarins: le nombre précis de parasols avec des représentations diverses trouvées à leur sommet (dragon, phénix, gourde etc.) et des couleurs spécifiques, ce qui reflète bien la fonction de la personne accompagnée (roi, prince héritier, reine, mandarin etc.). Pour faire allusion au parasol, on est habitué à évoquer la chanson populaire suivante:
 
Một cột mà chín, mười kèo,
Chỉ xanh, chỉ đỏ xỏ lèo bốn bên.
 
Un mât est entouré de 9 ou 10 tiges,
Les fils verts et rouges sont enfilés des quatre côtés.
 
En parlant des parasols, il est impossible de ne pas évoquer l’anecdote amusante du premier lauréat au concours suprême de nom Nguyễn Giản Thanh (1482-1552) lorsqu’il était encore un jeune adolescent avec un mandarin. Un jour, lors du passage dans son village, ce dernier vit ce jeune homme porter une chemise rouge et maintenir dans sa main un balai rustique. Il ne tarda pas à dire: Étant toujours habillé en chemise rouge, tu balaies la bouse de buffle. Ce jeune homme répliqua avec une facilité effarante: Étant doté  de parasols verts en nombre, tu réussis à couvrir l’acajou. Ce mandarin était entrain d’être protégé par les deux parasols de couleur verte.
 
Version anglaise
 
Sunshades were used for a long time under the monarchy. But their use has become less and less frequent. Their presence is now visible in places of worship such as communal houses, shrines, temples, churches or at important festivals.
Umbrellas are often made of brocade fabric in a variety of colors and sizes. Vietnamese Catholics are accustomed to keeping to this day the tradition of using the yellow parasol to serve Christ. Recently, I had the opportunity to visit the Kiến Trung Palace in the Forbidden City of Huế. I was struck dumb by the magnificent beauty of a parasol on display in one of its rooms. It immediately reminded me of the enthronement ceremony of Emperor Duy Tân accompanied by his faithful servants and parasols when he was 7 years old.
 
Under the Nguyễn dynasty, the use of cult objects had to comply with very strict regulations when the king or his mandarins were traveling: the precise number of parasols with various representations found at their top (dragon, phoenix, gourd etc.) and specific colors, reflecting the function of the person accompanied (king, crown prince, queen, mandarin etc.). To allude to the parasol, we’re used to evoking the following popular song:
 
Một cột mà chín, mười kèo,
Chỉ xanh, chỉ đỏ xỏ lèo bốn bên.
 
A mast is surrounded by 9 or 10 rods,
Green and red wires are threaded on all four sides.
 
Speaking of parasols, it’s impossible not to mention the amusing anecdote of the first winner of the supreme name contest Nguyễn Giản Thanh (1482-1552) when he was still a young teenager with a mandarin. One day, while passing through his village, the latter saw this young man wearing a red shirt and holding a rustic broom in his hand. He soon said: “Since you’re always dressed in a red shirt, you’re sweeping up buffalo dung. The young man replied with frightening ease: As you have plenty of green umbrellas, you can cover mahogany. This mandarin was being protected by the two green parasols.

Marché central (Chợ Bến Thành)

Chợ Bến Thành (Saïgon).

Version française
Version anglaise

Chợ nầy được khởi công xây dựng từ năm 1912, nay vẫn được xem là nơi khách du lịch đến mua sấm rất đông, các quần áo, vải sợi, giày dép, thời trang, hàng thủ công mỹ nghệ, thực phẩm tươi sống, trái cây, hoa tươi hay đến ăn uống. Chợ nầy  nổi tiếng chặt chém không nương tay, trả giá nào cũng dính nhưng rất  thuận tiện trong việc mua sấm.

Version française 

Ce marché fut construit en 1912. Il est toujours considéré aujourd’hui comme un lieu où les touristes sont très nombreux. Ils peuvent y trouver tout (vêtements, tissus, chaussures de mode, produits d’artisanat et aliments frais, fruits et  fleurs) ainsi que la nourriture. Ce marché est réputé pour proposer des prix exorbitants aux touristes mais il est très pratique d’y trouver tout. 

Version anglaise

This market was built in 1912. It is still considered a place where tourists are very numerous. They can find everything (clothes, fabrics, fashion shoes, handicrafts and fresh food, fruits and flowers) as well as food. This market is known for offering exorbitant prices to tourists but it is very convenient to find everything there.

Các yếu tố Chàm trong văn hóa Việt (Des éléments chams dans la culture vietnamienne)

Des éléments chams dans la culture vietnamienne

Version française

English version

Trong dân gian, khi nói đến Huyền Trân công chúa, con của vua Trần Nhân Tôn thì người dân Việt không những xót xa cho số phận mà còn chỉ trích thậm tệ qua câu ca dao sau khi vua hứa gã Huyền Trân cho vua Chế Mân (Jaya Simhavarman III)  trong chuyến công du đặc biệt ở  thành Đồ Bàn (Vijaya, Bình Định ngày nay) của Chiêm Thành:

Tiếc thay cây quế giữa rừng, 
để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo.

chớ  nào đâu biết  tổ sư của phái Trúc Lâm có cái nhìn sâu xa của nhà chính trị đa tài muốn mở mang bờ cõi ở phía nam và cố giữ mối quan hệ láng giềng trọng yếu trong việc đấu tranh chống họa phương Bắc. Nhờ sự yểm trợ của Đại Việt ngăn chặn đường bộ  mà quân Nguyên thua lần thứ hai khi tấn công nước Chiêm Thành trước sự chỉ huy dũng cảm  của vua Chế Mân với 20.000 quân lính. Còn về Chế Mân thì Châu Ô Châu Rí khó mà kiểm soát được nữa vì cư dân Chàm bỏ trốn vào rừng hay chạy về các nơi mà chính quyền người Chàm còn cai quản  khi ba châu như Bố Chính, Mã Linh và Địa Lý của Thuận Hóa  đã bị vua chàm Chế Củ (Rudravarman III)  dưng cho vua Lý Thánh Tôn  từ lâu rồi để chuộc tội và cầu hoà. Nay mà dưng thêm hai châu nữa thì khó mà «ăn nói với dân» nhất là ngài là anh hùng dân tộc Chàm đem thắng lợi trong việc chống quân Nguyên.

Chỉ có cách xin cưới Huyền Trân là phương kế tuyệt vời  cho một tình thế chính trị lúc bấy giờ. Sự kiện này cũng  minh chứng cho việc sử dụng thuyết “bất bạo động” của sư tổ Trúc Lâm  để giải quyết xung đột trong lý thuyết nhà Phật theo báo Giác Ngộ của Phật Giáo Việt Nam nhưng không ai ngờ với cái chết đột ngột của vua Chế Mân, Huyền Trân phải lên giàn hỏa để tuẩn tiết theo vua theo tập tục người Chàm. Còn theo nhà nghiên cứu Po Dharma thì đây chỉ là việc dàn dựng câu chuyện nhầm giải cứu Huyền Trân và bội ước của nhà Trần  khiến  từ đó sự việc nầy nó trở thành mối bất hòa giữa hai dân tộc dẫn đến suy vong vương quốc Chămpa qua nhiều thế kỷ về sau nầy với sự chiến thắng rực rở của vua Lê Thánh Tông ở thành Đồ Bàn (Vijaya) 

Câu ca dao mĩa mai  nầy, không biết  có đúng hay không? Văn hoá của họ  có kém không để dân gian phải miệt thị như vậy? Chúng ta  cũng cần phải biết họ là ai, họ  từ đâu đến nhất là họ có những tập tục của một nền văn hóa khác biệt mang  những yếu tố văn hóa truyền thống của Ấn Độ. Những đền tháp được thấy mà họ sở hữu trên vùng duyên hải miền trung dài hơn có 1000 cây số với những tượng thần của một tín ngưỡng xa lạ và dị biệt dù đã đổ nát hay còn nguyên vẹn nhưng lúc nào vẫn còn là những mối đe dọa vô hình ăn sâu trong tâm trí của dân tộc ta tựa  như các  tượng thờ  Brahma, Shiva, Visnu khiến tạo ra ít nhiều  sự lo ngại, hoang mang và sợ sệt  cũng như lúc chúa Tiên (Nguyễn Hoàng)  vào trấn thủ đất Thuận Hóa (Bình Trị Thiên) ở Đàng Trong, một  vùng đất đai cằn cỗi, nguy hiểm và xa xôi.

Tới đây đất nước lạ lùng
Con chim kêu cũng sợ, con cá vẫy vùng cũng lo.

Chính vì vậy theo linh mục Léopold  Cadière, để trấn an tâm hồn và có được sự an bình, dân ta không ngần ngại đưa những nơi di tích văn hoá Chàm vào thế giới tôn giáo tín ngưỡng của mình  và biến chúng thành  những nơi thờ cúng của mình cũng như  chùa Thiên Mụ, điện Hòn Chén, đền Po Nagar vân vân…

Suốt thời gian hành trình đến Thuận Hóa, nhóm tùy tùng thân tín  theo Nguyễn Hoàng  toàn bộ  gốc Thanh Hóa và hòa nhập với người Nghệ An đến từ  cuộc di dân  lần đầu ở  thế  kỷ 14 lúc Châu Ô, Châu Rí thuộc về Đại Việt. Vì vậy người ở Thuận Hóa bấy giờ gọi là người  Thanh Nghệ (Thanh Hóa Nghệ An). Biết ra đi không hẹn ngày về, khổ cực gian nan  cũng phải chịu từ  đây nhưng  đôi khi cũng  tự  an ủi mình  để  nung đốt ý chí  của kẻ phiêu lưu ở đất lạ nên  mới  có câu  ca dao dồi dào triết lý như sau: 

Măn giang nấu cá ngạnh nguồn,
Tới đây nên phải bán buồn mua vui.

Những cư dân Thanh Nghệ  tới lúc đầu không có đông ở vùng Quảng Trị ngày nay. Họ  buộc phải hòa đồng sống chung  với những người  Chàm ở lại. Lúc đầu Nguyễn Hoàng còn nói giọng Bắc nhưng chỉ cần vài thế hệ, những người  thừa kế của ngài  cùng cư  dân chịu  ảnh hưởng của môi trường xã hội từ sự sống gần gũi của hai dân tộc nhất là ở thời kỳ không còn quan hệ và giao dịch, lấy sông Gianh làm biên giới giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài, nhất là sau khi có lũy Thầy (Trường Dục) của Đào Duy Từ  nên khiến cư dân có một âm điệu đặc biệt,  có thể nhận ra được ở cư dân Quảng Bình và Quảng Trị. Theo  học giả  Thái văn Kiểm , giọng Huế được thành hình về sau từ khi chúa Nguyễn Phúc Nguyện tức là Chúa Sãi quyết định dời đô về làng Phước Yên, huyện Quảng Điền và chúa Thượng (Nguyễn Phước Lan) về làng Kim Long vào năm 1636. Chính nhờ sự giao thoa của hai văn hóa  cổ Việt Mường  (Thanh Hóa và Nghệ An) và Chàm khiến tạo ra một lối  sống  ăn uống (thích ăn cay, ăn mắm tôm, mắm ruốc vân vân..), cách trị bệnh bằng các cây thuốc phương nam, cách trồng lúa chiêm, cách đóng thuyền (thuyền bầu) đi buôn  trên biển, cách trị thủy đắp đê dọc các dòng sông, cách dùng trong mỹ thuật, ngũ sắc riêng biệt nhất là màu tím, một màu không gây cảm xúc buồn mà cũng là màu mà các phụ nữ  Chàm ưa thích và còn trọng dụng ngày nay. Đấy là những đặc trưng mới của cộng động Việt Chàm mà chúng ta thường thấy ở Bình Trị Thiên và thường được gọi là bản sắc Huế.

Theo sử gia người Mỹ Michael Vickery, dựa trên  sự phân tích ngôn ngữ so sánh  thì biết rằng người Chăm đến từ đão Bornéo bằng đường biển vào cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Ngôn ngữ của họ  thuộc về ngôn ngữ Nam Đảo. Họ hay thường đinh cư  ở những nơi nào thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hóa trên sông. Được mênh danh là người Vikings của Đông Nam Á, họ có thói quen khuấy rối trên biển và hay cướp giật ở vùng cực nam của  quận Nhật Nam trực tiếp thuộc quyền cai trị của Giao Châu thời kỳ nước ta còn bị đô hộ bởi người Hoa. Theo sự nhận xét của nhà khảo cổ học  Việt, Ngô văn Doanh,  họ hay thường ở các vùng đồng bằng ven biển  nằm giữa ba bên là núi cao và một bên còn lại đưa ra biển đều có một hoặc vài thành.

Dựa trên các sử liệu của Trung Hoa và các bi ký cồ người ta mới biết nước Lâm Ấp chuyển thành vương quốc Champa (Champapura)  từ đầu thế kỷ VII với thủ phủ là Simhapura (Trà Kiệu). Chính  nhờ cái tên Champapura mà người ta mới đoán ra được  Champa là một quốc gia được cấu thành từ các thị quốc, có thể gọi là một liên bang  của nhiều thị quốc (pura). Pura nào mạnh nhất  thì được  chọn đóng vai trò làm « thủ lĩnh » (vai trò chủ đạo) và trở thành  là Champapura (Thành của người Chiêm hay Chiêm Thành).  Vương triều của pura đó làm chủ đất nước của dân Chàm. Như vậy Simhapura (Trà Kiệu) là pura mạnh  nhất của thời kỳ đầu sau đó đến pura Vijaya (Đồ Bàn, Bình Định). Có những thời gian ngắn khác trong  niên đại lịch sử Chàm thì thấy có Hoàn Vương ở vùng phiá nam (758 – 659) hay Đồng Dương (Quảng Nam  từ năm 875 đến 983).

Theo nhà khảo cổ học Việt Nam Trần Quốc Vượng, người Chàm hay  sử dụng mô hình văn hóa sau đây gồm có 3 phần: thánh đường (núi), thành cổ (thủ đô) và cảng sông (trung tâm kinh tế) khi được  thành lập. Chính kiểu mẫu này mà chúng ta đã thấy lặp đi lặp lại ở mỗi pura  của người Chàm từ Quảng Trị đến Bình Thuận. Theo sự nhận xét của nhà khảo cổ Trần Kỳ Phương, pura nào  xây dựng đươc những công trình tôn giáo đồ sộ  phải là pura có khả năng trưng tập một  nguồn nhân lực cần thiết mà pura nầy có thể nuôi dưởng được  với  một tiềm năng kinh tế khả dĩ  chớ thông thường người Chàm sống thiên về  thương mại  trên biển nhiều vì đất trồng trọt rất hạn hẹp với những cánh đồng nhỏ của các thung lũng ven sông ở miền trung Việt Nam.

Lịch sử loài người đã bao lần chứng minh một nền văn minh cao hơn hay thường có ít nhiều tác động làm biến đổi nền văn minh kém hơn. Cũng như La Mã mạnh  đến đâu khi xâm lược phải chịu ảnh hưởng của nền văn minh Hy Lạp hay Mông Cổ, Mãn Thanh cũng vậy khi chiếm được Trung Hoa cũng bị đồng hóa bởi nước nầy. Nứớc Đại Cồ Việt của ta cũng không ngoài lệ. Hay thường khinh khi miệt thị người Chàm hay Man,  Đại Việt chúng ta có được tiếp thu cái gì không?. Đại Việt được tiếp thu nhiều thứ lắm nhất là sau khi  cuộc viễn chinh trừng phạt của vua Lê Đại Hành ở Chiêm Thành  vào năm 982. Để nâng cao uy tín và chiến thắng vẽ vang, ngài dắt về không những một tu sĩ Ấn Độ  (Thiên Trúc) đang ở lúc đó trong tu viện Đồng Dương (Quảng Nam ngày nay) mà cả trăm người nhạc công và vũ nữ  chàm (Thái văn Kiểm:64). Có thể nói là từ đó âm nhạc cung đình có mang nhiều yếu tố Chiêm Thành. Năm 1069, vua Lý Thánh Tông truyền lệnh cho các nhạc công ở  triều đình soạn  ra  một  loại âm điệu  chậm đẩy đưa  và than khóc buồn bã theo lối người  Chàm gọi là Chiêm Thành Âm. Sau đó  dưới  thời Lý Cao Tôn về sau thì có các «Điệu Nam (Airs des Méridionaux) »  như  Hà Giang Nam,  Ai Giang Nam, Nam Thương vân vân.. Còn có một nhạc cụ thường gọi  là «Trống Cơm » hay « Phạn sĩ »  mà dân ta dùng  theo An Nam chí lược của Lê Tắc thì cũng của dân tộc Chàm. Còn phần nghệ thuật  điêu khắc thì  dưới hai triều Lý và Trần, dân Việt ta  sống chịu ảnh hưởng phương nam rất nhiều để tạo ra những hiện vật như đầu rồng thời  Lý Trần  tựa như đầu rồng makara  hay  con vịt xiêm (con ngan), ngỗng thần Hamsa  của Champa chẳng hạn được tìm thấy trong hoàng thành Thăng Long từ mái ngói, đầu hồi đến hoa văn trên chén bát (Hồ Trung Tú:264). 

Một yếu tố Chàm khác  thời nhà Lý  được trông thấy trong lãnh vực kiến trúc mà ít ai để ý là các chùa thời đó hay thường có bình đồ hình vuông, tựa như khuôn mẫu của các tháp Chàm (kalan). Chùa Diên Hựu (tức là chùa Một Cột)  ban đầu gồm có vỏn vẹn  một gian chính điện vuông vức 3 thước  và một cửa duy nhất  ra vào như tháp chàm, được dựng trên một cột có chiều cao 4  thước  tính từ măt nước.  Còn  các khúc đò đưa ở vùng ven biển như hò mái nhì hay hò máy đẩy tất cả đều có ảnh hưởng của người  Chàm cả. Cố giáo sư Trần Văn Khê  nhận thấy các  bài hát đò đưa của người Huế và các bài hát Pelog của người Chà Và (Nam Dương)  có cùng môt giai điệu. Ông kết luận rằng sau nhiều thế kỷ giao lưu, nhạc Việt đã nhuộm màu chàm.Theo nhà nghiên cứu Charles J.C. MacDonald (CNRS Marseille) tục lệ thờ cá ông là một đặc tính của người Việt ở vùng ven biến miền Trung  chớ ở miền Bắc thì không có tục lệ  nầy nhưng cho đến giờ các nhà học giả Việt như Thái Văn Kiểm, Trần văn Phước hay Trần Hàm Tấn thì nghĩ rằng đây là một tập quán của người Chàm mà người Việt tiếp nhận đấy.

Nhờ các yếu tố chàm nầy, văn hóa Việt trở nên phong phú và đa dạng vì ngoài văn hóa Việt-Mường (Bách Việt), nó còn được thừa hưởng ít nhiều, từ  thời kỳ dựng nước, các tâp tục  đến từ hai nền văn hoá cổ đại: Ấn Độ và Trung Hoa.

AP_CHAM

Dans le folklore vietnamien, en parlant de la princesse Huyền Trân (jaïs de jade), le peuple vietnamien  déplore non seulement le  sort qui lui a été réservé mais aussi la promesse du roi Trần Nhân Tôn  d’accorder la main de sa fille au roi cham Chế Mân (Jaya Simhavarman III) durant son voyage spécial à la capitale  Vijaya (Bình Định) à travers la chanson populaire suivante :

Tiếc thay cây quế giữa rừng, 
để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo.

C’est regrettable de laisser un Mán ou un Mừờng  grimper  sur le cannelier au milieu de la forêt.

Pourtant nous ne savons pas que le fondateur de la secte « Forêt de bambous » était un homme politique talentueux d’une grande perpiscacité voulant  étendre son territoire dans le sud et entretenir de bonnes relations de voisinage dans la lutte contre le danger venant du Nord. Grâce au soutien apporté par le royaume  Đại Việt dans le blocage du passage terrestre, l’armée des Yuan perdait la bataille pour la deuxième fois en attaquant le Champa sous le commandement du vaillant roi Chế Mân avec 20 000 soldats. Quant à Chế Mân, les deux provinces Châu Ô et Châu Ri  n’étaient pas entièrement sous son contrôle  car leurs habitants avaient fui vers la forêt ou  vers des endroits où le gouvernement cham exerçait pleinement encore son autorité, les trois autres  provinces  Bố Chinh, Ma Linh et Địa Lý étant cédées depuis longtemps au roi Lý Thánh Tôn par le roi cham Chế Củ (Rudravarman III)  en échange de la paix et de sa libération. Maintenant, en cédant encore deux autres provinces Châu Ô et Châu Ri, il  lui parut difficile de parler à son peuple, d’autant plus qu’il était le héros de la nation chame ayant eu réussi à gagner la victoire contre l’armée des Yuan.

Le mariage de Huyền Trân était une excellente solution pour la situation politique de l’époque. Cet événement démontre également le recours à la méthode de la « non-violence » du fondateur de « Forêt de bambou » pour résoudre les conflits dans le bouddhisme selon le journal  vietnamien Giác Ngộ, mais personne ne s’attend à la mort subite du roi  obligeant Huyền Trân à l’accompagner et à mourir avec lui au bûcher funéraire selon la coutume chame. Selon le chercheur Po Dharma, il s’agit bien d’une mise en scène de l’histoire du sauvetage organisé de Huyền Trân et de la promesse non tenue de la dynastie  des Trần, ce qui a transformé cet incident en une profonde discorde entre les deux peuples, menant ainsi au déclin du royaume de Champa quelques  siècles plus tard avec la victoire  fulgurante du roi Lê Thánh Tông dans la citadelle Đồ Bàn (Vijaya).

Cette chanson populaire  ironique est-elle  vraie ou non? La  culture chame est-elle suffisamment médiocre pour que les gens la méprisent ainsi? Nous devons également savoir qui ils sont, d’où ils viennent avec les pratiques d’une culture différente portant des éléments culturels et  traditionnels propres à l’Inde. Les temples et les tours qu’ils possédaient sur la côte centrale actuelle  s’étalaient sur  plus de 1000 kilomètres avec des statues de dieux d’une religion étrange et différente. Bien  qu’ils fussent  en ruine ou intacts, ils  étaient toujours  des menaces invisibles profondément ancrées dans l’esprit de notre peuple comme les statues de Brahma, Shiva, Visnu, ce qui a crée plus ou moins d’anxiété, de confusion et de peur comme  c’est le cas du Seigneur Tiên (Nguyễn Hoàng) qui était  chargé de gouverner le territoire  de Thuận Hóa (Binh Trị Thiên) à Đàng Trong, une région lointaine, aride et dangereuse.

Tới đây đất nước lạ lùng   
Con chim kêu cũng sợ, con cá vẫy vùng cũng lo.

Voici un lieu bien étrange
Un cri d’oiseau m ‘effraie autant que le frétillement d’un poisson dans le ruisseau.

C’est pourquoi, selon l’abbé Léopold Cadière, afin de pouvoir  rassurer l’âme et gagner la paix, notre peuple n’hésite pas à introduire les sites culturels chams dans son monde de croyance religieuse et à les transformer en lieux de culte comme la Pagode de la Dame céleste (Thiên Mụ), le palais Hòn Chén, le temple Po Nagar etc.

Tout au long du voyage jusqu’à Thuận Hóa, le groupe des fidèles et des hommes de confiance  de Nguyễn Hoàng était tous originaires de Thanh Hóa et intégrés à celui de  Nghệ An lors de la première migration au 14ème siècle lorsque les provinces  Châu Ô et Châu Rí appartenaient au  royaume Đai Việt. Les habitants de Thuận Hóa étaient appelés à cette époque sous le nom « peuple Thanh Nghệ » (Thanh Hóa-Nghệ An). Étant partis sans connaître la date de retour, ils  devaient endurer dès lors toutes les épreuves et les souffrances. Mais,  ayant raffermi la volonté d’un aventurier dans un pays étranger, parfois, ils pouvaient se consoler.  C’est pourquoi il y a donc une chanson populaire teintée de  philosophie comme suit:

Măn giang nấu cá ngạnh nguồn,
Tới đây nên phải bán buồn mua vui.

Rien, ne vaut les pousses de bambou sauvage cuites avec la petite silure,
Une fois qu’on est sur les lieux, il faut bien vendre la tristesse en échange d’un peu d’espérance.

Étant arrivés les premiers, les habitants de Thanh Nghệ n’étaient pas nombreux dans la région actuelle de Quảng Tri. Ils étaient contraints de vivre en harmonie avec les Chams restés sur place. Au début, Nguyễn Hoàng parlait encore avec un accent du Nord, mais au fil de quelques générations seulement, ses héritiers et résidents étaient influencés  par l’environnement social issu de la  mixité des deux peuples, surtout à l’époque de la rupture des relations et des échanges commerciaux en prenant la rivière Gianh comme frontière entre Đàng Trong et Đàng Ngoài et  surtout après la construction du rempart Thầy (Trường Dục) de Đào Duy Từ, ce qui  leur a donné un ton particulier, reconnaissable  aux habitants de Quảng Bình et Quảng Trị.

Selon l’érudit Thái Văn Kiểm, l’accent de Huế  s’est formé plus tard lorsque le seigneur Nguyễn Phúc Nguyên (seigneur Sãi), a décidé de transférer la capitale au village de Phước Yên, district de Quang Điền et le seigneur Thượng (Nguyễn Phước Lan) au village de Kim Long en 1636. Grâce à l’interaction de deux cultures anciennes, Việt Mường (Thanh Hóa et Nghệ An) et Chàm, on voit apparaître  un nouveau mode de vie axé sur l’alimentation (manger épicé, pâte de crevette, pissalat etc. ), le traitement des maladies avec des plantes médicinales du sud, la cultivation du riz cham, la construction des bateaux  avec le modèle  cham (thuyền bầu) pour faire du commerce en mer, la gestion de l’eau et la  construction des digues le long des rivières et  l’utilisation dans les beaux-arts,  des cinq couleurs les plus distinctives parmi lesquelles  figure  le violet, une couleur qui ne provoque pas d’émotions tristes  et que les femmes cham  aiment et utilisent encore aujourd’hui. Ce sont les nouvelles caractéristiques de la communauté Việt-Chàm que l’on voit souvent à Binh Trị Thiên et que l’on appelle désormais l’identité de Huế.

Selon l’historien américain Michael Vickery, en se basant sur l’analyse linguistique comparée, on sait que les Cham étaient venus de l’île de Bornéo par voie maritime à la fin du premier millénaire avant J.C. Leur langue appartenait aux langues austronésiennes. Ils s’installaient souvent dans des endroits propices au transport de marchandises sur le fleuve. Connus sous le nom de Vikings de l’Asie du Sud-Est, ils avaient l’habitude de semer le trouble en mer  en pillant les bateaux dans la région côtière la plus méridionale du district de Nhật Nam dépendant directement de  l’administration de Giao Châu (pays des Vietnamiens)  lorsque ce dernier était encore annexé par les Chinois. Selon l’observation de l’archéologue vietnamien Ngô Văn Doanh, ils préféraient vivre souvent dans des plaines côtières situées entre trois versants de hautes montagnes et un versant menant à la mer, le tout doté d’une ou plusieurs forteresses.

En s’appuyant sur les documents historiques chinois et des inscriptions épigraphiques, on sait que le pays Lâm Ấp (Lin Yi)  s’est transformé en royaume de Champa (Champapura) dès le début du VIIème  siècle avec Simhapura (Trà Kiệu) comme capitale. C’est grâce au nom Champapura que l’on peut deviner que le Champa est un royaume composé de plusieurs cités-états (pura). Il est en quelque sorte une fédération de nombreuses cités-états. La cité-état  la plus puissante est choisie pour assumer  le rôle de « leader » (rôle principal) et devient ainsi Champapura (la capitale du Champa).  La dynastie de cette cité-état  contrôle ainsi  tout le royaume  du Champa.

Selon l’archéologue Trần Quốc Vượng, les Chams avaient l’habitude de se servir du modèle culturel suivant constitué toujours de 3 parties: sanctuaire (montagne), citadelle (capitale) et port ( centre économique ) dans leur cité. C’est ce type de modèle qu’on a vu se répéter dans chaque cité-état cham de Quảng Trị jusqu’à Bình Thuận. D’après l’observation de l’archéologue Trần Kỳ Phương, les cités-états  qui ont édifié des sites religieux grandioses doivent être capables de mobiliser  une ressource humaine nécessaire qu’elles peuvent nourrir  avec un potentiel économique possible. Les Chams sont orientés généralement vers le commerce maritime car leurs terres arables  trouvées   dans les vallées du littoral du centre du Vietnam sont très limitées.

Combien de fois l’histoire de l’humanité a-t-elle démontré qu’une civilisation supérieure a un effet transformateur sur une civilisation inférieure? La Rome ancienne plus puissante, au moment de sa conquête, était soumise à l’influence de la civilisation grecque. De même, les Mongols ou les Mandchous, au moment de leur conquête en Chine étaient assimilés ensuite par cette dernière. Notre royaume Đại Việt ne faisait pas exception non plus. Étant habitué à dénigrer et à mépriser les Chams (ou les Mans), notre Đại Việt pouvait-il avoir quelque chose dans cette conquête?  Il recevait beaucoup de choses lors de l’expédition  militaire punitive du roi Lê Đại Hành au Champa en 982. Pour rehausser son prestige et célébrer sa victoire, il fit revenir non seulement un moine indien (Thiên Trúc) qui se trouvait au monastère de Đ ồng Dương (Quảng Nam actuel ) mais aussi une centaine de musiciens et danseuses (Thai Van. Kiem:64). On peut dire que depuis lors, la musique royale comportait de nombreux éléments du Champa. En 1069, le roi Lý Thánh Tông ordonna aux musiciens de la cour de composer une sorte de mélodie lente et triste, dans le style du peuple cham appelé Chiêm Thành Âm. Puis, sous le règne de Ly Cao Ton, il y eut des « Rimes du Sud (Airs des Méridionaux) » comme Ha Giang Nam, Ai Giang Nam, Nam Thuong etc. Il y avait aussi un instrument de musique  cham appelé «Tambour de riz » ou « Phạn sĩ » que notre peuple utilise  fréquemment, selon le livre intulé « Annam chí lược (Archives abrégées de Lê Tắc).  

Quant à la sculpture,  les Vietnamiens vivaient sous l’influence méridionale du Sud pour créer des artefacts tels que la tête d’un dragon de la dynastie Lý-Trần ressemblant à celle d’un dragon makara ou le canard siamois (vịt siêm) à l’oie Hamsa du Champa par exemple, le tout étant retrouvé dans la citadelle impériale Thăng Long sur les toits de tuiles et les pignons des bâtiments jusqu’aux motifs décorés sur les bols (Hồ Trung Tú:264).  Un autre élément cham de la dynastie des Lý que l’on observe dans le domaine de l’architecture et auquel peu de gens prêtent attention c’est que les pagodes de cette époque avaient souvent des plans carrés, semblables au modèle  des tours chams (kalan). La pagode Diên Hựu (la pagode au pilier unique) se composait à l’origine d’un  hall principal carré de 3 mètres seulement et d’une seule entrée semblable à celle d’une tour chame, érigée sur une colonne de 4 mètres de haut au-dessus de la surface de l’eau.Quant aux barcarolles de la région côtière comme le chant de la deuxième rame (hò mái nhì) ou chant de la rame propulsive (hò mái đẩy), elles ont tous reçu l’influence chame. Selon le professeur musicologue Trân Văn Khê, les chants des bateliers de Huế (ou barcarolles) et les chants de Pelog  de Java (Indonésie) présentent tous deux la même ligne mélodique. Il a conclu qu’après des siècles d’échanges, la musique vietnamienne était teintée de la couleur cham. Selon  le chercheur Charles J.C. MacDonald (CNRS Marseille), le culte de la baleine est considérée comme une caractéristique typique trouvée chez les Vietnamiens vivant le long de la côte du Centre et du Sud Vietnam car les gens du Nord ne l’ont pas eu. Certains érudits vietnamiens tels que Thái Văn Kiểm, Trần văn Phước ou Trần Hàm Tấn ont confirmé que ce culte appartient aux Chams.

Grâce  ces éléments chams,  la culture vietnamienne est devenue riche et diversifiée car outre  la culture Việt-Mường (Bai Yue), elle a hérité aussi plus ou moins, depuis la fondation du pays,  des traditions issues des  deux anciennes cultures:  l’Inde et la Chine.

[Return to CHAMPA]

Bibliographie

Thái Văn Kiểm: Việt Nam quang hoa Editeur Xuân Thu, USA
Georges Cœdès: Cổ sử các quốc gia Ấn Độ Hóa ở Viễn Đông. NXB Thế Giới năm 2011
Pierre-Yves Manguin: L’introduction de l’islam au Champa. Études chames II. BEFEO. Vol 66 pp 255-287. 1979
Pierre-Yves Manguin: Une relation ibérique du Champa en 1595. Études chames IV. BEFEO  vol 70 pp. 253-269
Ngô văn Doanh: Văn hóa cổ Chămpa. NXB Dân tộc 2002.
Hồ Trung Tú: Có 500 năm như thế. NXB Đà Nẵng 2017.
Agnès de Féo: Les Chams, l’islam et la revendication identitaire. EPHE IVème section.2004
Thái Văn Kiểm: Panorama de la musique classique vietnamienne. Des origines à nos jours.  BSEI, Nouvelle Série, Tome 39, N° 1, 1964.
Thurgood Graham: From Ancient Cham to modern dialects . Two thousand years of langage contact and change. University of Hawai Press, Honolulu. 1999
Trần Trọng Kim: Việtnam sử lược, Hànội, Imprimerie Vĩnh Thanh 1928.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Nhà xuất bản Thời Đại. Năm 2013.
Trần Kỳ Phương: Nghệ thuãt Champa. Nghiên cứu kiến trúc và điêu khắc đền tháp. Nhà Xuất Bản Thế Giới
Nguyễn văn Kự- Ngô văn Doanh: Du khảo văn hóa Chăm.  Viện nghiên cứu Đông Nam Á. 2004