Ông Đồ (Le calligraphe)

 

Version française

Version anglaise

Nghề ông đồ

Trong dịp lễ Tết, người Việt thường có thói quen thích treo các câu đối  trước lối vào nhà hay để đặt trước bàn thờ tổ tiên. Họ thường nhờ đến  ông đồ và  bày tỏ những khát vọng riêng tư của mình để  rồi ông nầy viết ra thành thơ hay câu đối. Chỉ có lúc Tết đến, ông đồ mới có thể  bán được chữ nuôi thân mình và mới cảm nhận còn được trọng dụng trong một xã hội tân tiến  ngày nay.  Thưở  xưa, tuy học vấn rất cao nhưng  họ thi cử  không có  phần may mắn thành công đỗ đạt như Trần Tế Xương để làm quan trong chế độ phong kiến nên buộc lòng phải làm nghề dạy học hay viết chữ thuê. Nghề  ông đồ được nhà thơ  Vũ Đình Liên  miêu tả lại một cách thắm thiết, xót thương qua bài thơ có tựa đề « Ông Đồ » để nói lên số phận éo le của ông đồ  từ thời Pháp thuộc. Nay  nghề  nầy, chỉ còn làm trò giải trí lúc Tết về hay còn trọng dụng trong việc nghiên cứu chữ Hán-Nôm và  chỉ gợi lại cho ta  những ký ức của một thời  đã qua.

 

ÔNG ĐỒ GIÀ
Vũ Đình Liên

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
 

Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phụng múa rồng bay

Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu

Ông đồ vẫn ngồi đó
Qua đường không ai hay
lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay

Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?

Version française

Le métier du calligraphe

Durant la fête du Têt, les Vietnamiens sont habitués à accrocher les « sentences parallèles » devant l’entrée de la maison ou à les placer devant l’autel des ancêtres. Ils recourent souvent à un calligraphe pour lui exprimer leurs aspirations personnelles et lui demandent de les concrétiser en  un poème ou en sentences parallèles. Ce n’est qu’à l’occasion du Tết (nouvel an vietnamien)  que le vieux calligraphe  peut vendre ses « mots (ou écrits) » pour subvenir à ses besoins journaliers et se sentir  encore  valorisé dans la société moderne d’aujourd’hui. Autrefois, malgré son éducation très élevée, le lettré (comme Trần Tế Xương)  n’avait pas la chance de réussir au concours mandarinal pour devenir un haut fonctionnaire dans le  régime féodal. Il était donc obligé de travailler comme  maître d’école ou calligraphe pour son compte. Le métier de calligraphe a été décrit par le poète Vũ Đình Liên avec affection et pitié à travers un poème intitulé « Ông Đồ (ou le vieux calligraphe) » évoquant son destin ironique durant la période coloniale française. Aujourd’hui, ce métier n’est qu’un simple divertissement lors de la fête du Têt ou il est utile encore dans l’étude des caractères sino-vietnamiens et ne fait que rappeler les souvenirs d’une époque révolue.

Le vieux calligraphe

Chaque année, quand la fleur du pêcher éclot
On voit de nouveau le vieux calligraphe
Qui étale son encre de Chine et ses papiers d’un rouge vermillon
Sur le trottoir où tant de gens passent.

Combien de gens le louent pour son travail d’écriture
En claquant leur langue, ils ne cessent pas de le complimenter
Une telle dextérité est dans les traits artistiques de l’écriture
C’est la danse du phénix et le  vol du dragon.

Mais  d’année en année, peu de gens s’y intéressent
Où sont-ils aujourd’hui ces loueurs d’écriture?
Les papiers rouges tristement inutilisés  n’arrivent plus à garder leur éclat
Et l’encre asséché  se dépose au fond de la soucoupe à encre en apparence mélancolique.

 
Le calligraphe est toujours assis là
Mais les passants ne le voient pas
Les feuilles jaunes  tombent sur ses papiers
Dans  de la bruine virevoltante en plein air.

Cette année, quand la fleur du pêcher refleurit
On ne voit plus le vieux calligraphe
De tous les gens des années passées
Où se trouve leur âme maintenant?

Old calligrapher

During the Tet festival, the Vietnamese are accustomed to hanging “parallel sentences” in front of the house entrance or placing them in front of the ancestral altar. They often turn to a calligrapher to express their personal aspirations, and ask him or her to concretize them in a poem or parallel sentences. It’s only at Tết (Vietnamese New Year) that the old calligrapher can sell his “words (or writings)” to support his daily needs and still feel valued in today’s modern society. In the past, despite his very high level of education, the scholar (like Trần Tế Xương) did not  had the chance to succeed in the mandarin competition for becoming a high official in the feudal regime. He was therefore obliged to work as a self-employed schoolmaster or calligrapher. The calligrapher’s trade was described by the poet Vũ Đình Liên with affection and pity in a poem entitled “Ông Đồ (or the old calligrapher)”, evoking his ironic fate during the French colonial period. Today, calligraphy is no more than a form of entertainment during the Tet festival, or it is still useful in the study of Sino-Vietnamese characters, but only as a reminder of a bygone era.

Every year, when the peach flower springs out
The old calligrapher is seen again
By spreading his Chinese ink and vermilion-red papers
On the sidewalk where so many people pass by.

How many people praise him for his writing
By clicking their tongues, they never cease to compliment him
Such dexterity is in the artistic traits of writing
It’s the dance of the phœnix and the flight of the dragon.

But year after year, few people are interested
Where are these handwriting appliants today?
Sadly unused red paper no longer holds its lustre
And dried-up ink settles at the bottom of the seemingly melancholy ink saucer.

The calligrapher is still sitting there
But passers-by can’t see him
Yellow leaves fall on his papers
In drizzle that swirls in the open air.

This year, when the peach flower blossoms again
The old calligrapher is nowhere to be seen
From all the people of years past
Where is their soul now?

 

Les maisons funéraires des Jaraï ( Các nhà mộ của người Gia Lai)

Nhà mộ của người Gia Lai (hay Gia Rai)

Version française

Version anglaise

Nhà mộ của người Gia Lai

Ai  đã có dịp đến tham quan viện bảo tàng Hà Nội thì thấy  ngôi nhà mộ của người Gia Lai được dựng theo  nguyên mẫu của ngôi nhà mộ của làng Kép Pinh huyện Chư Pả, tỉnh Gia Lai. Dân làng ở đây không dám làm nhà mồ  nầy cho bảo tàng vì không có lễ bỏ mả (hay lễ Pơ Thi), một lễ được xem là quan trọng theo tập tục của người Gia Lai. Nếu làm thì họ sẽ bị hồn ma hại. Vì vậy phải nhờ đến năm người Gia Lai của một làng khác để mà xây dựng. Theo nhà khảo cổ học Việt Ngô Văn Doanh,  nghi thức mai táng của người Gia Lai không những có sự tương tự  với các dân tộc  Tây Nguyên như dân tộc Bà Na chẳng hạn  mà luôn cả  với các dân tộc thiểu số ở Đông Nam Á và Thái Bình Dương.

Nhìn thoáng qua nhà mồ của người Gia Lai thì cảm thấy rợn người vì nó có vẻ huyền  bí nhất là ở xung quanh mộ có một hàng rào (krep) được dựng với các cột trụ tạc bằng rìu  không có trau chuốt tĩ mĩ. Đây là cách gợi và tạc các bức tượng bằng gỗ rất sinh động và có mang tín ngưỡng phồn thực: cảnh sinh hoạt tình dục của vợ chồng với các bộ phận sinh dục không cân xứng, nam nữ giao hợp, phụ nữ có thai, nhân vật ngồi xổm, người ôm mặt với hai tay vân vân … Chính các bức tượng  ôm mặt nầy được phổ biến và đựợc thấy ở 4 góc bờ  hàng rào. Theo các dân làng thì các tượng gỗ nầy là những kẻ phục vụ và hầu hạ ma người chết khi chưa có làm lễ bỏ mả. Thưở xưa người hậu hạ bị chôn sống theo người  địa chủ giàu  chết. Ngày nay hình tượng nầy gợi lại cái cảnh thân nhân đến viếng thăm mộ, mang thức ăn để « nuôi dưởng người chết » hằng ngày qua chiếc ống cấm sâu xuống lòng  ngôi mộ và buồn rầu than thở trong tư thế ngồi xổm trên mộ hai tay chống lên đầu gối hay ôm má. Các bức tượng bằng gỗ nầy chỉ được dựng và trông thấy cùng các mái nhà trang trí trước thời gian ngày lễ bỏ mả.

Đối với người Gia Lai, chết không phải là kết thúc cuộc sống này mà là sự khởi đầu của một cuộc sống khác ở thế giới bên kia. Linh hồn mà người Gia Lai gọi là « m’gàt » sẽ trở thành một vong linh hay hồn ma (hoặc atâu theo tiếng Gia Lai). Từ  đó người chết trở về  sống với tổ tiên ở  trong thế giới thần linh (poloi atâu).  Nhưng  trước khi lễ  bỏ  mả,  hồn ma cũng cần có thức ăn, quần áo và một cái nhà nhỏ tạm thời  để ở cũng như bao nhiêu người  thân thuộc còn sống  với các dụng cụ cần thiết để ma người chết sẽ đem theo sang sống ở thế giới bên kia nhưng tất cả được thu nhỏ lại bằng gỗ (rìu, dao, cuốc, gùi, vỏ bầu đựng nước vân vân…) Bởi vậy thường thấy dựng tạm trên mộ một ngôi nhà nhỏ. Đấy là nhà của ma người chết (hay bang atâu). Nhà mộ dài  8,25 thước và rộng 2,25 thước. Tính luôn  cả hàng rào bao chung quanh thì ngôi nhà mộ có một diện tích khoảng 45 mét vuông. Bởi vậy  người Gia Lai có tục chôn chung  có nghĩa là trong một mộ lớn như vậy có thể chứa  được nhiều quan tài thuộc những người thân thuộc với nhau. Nhà mộ có gắn liền với lễ bỏ mả. Thời gian tang chế  có  thể  mấy tháng mà cũng có thể cả năm trời, gia đình của người chết cố  kéo giữ hồn ma ở  lại trong gia đình. Thời gian nầy thường gọi là thời gian  bảo trì  ngôi mộ (dja m’xàt) thì người  thân thuộc phải đến dọn dẹp nhà mồ  thường xuyên, phải đem thức ăn cho  người chết và phải cúng kiến heo gà mỗi tháng. Theo tập tục  thì  hồn ma vẫn hiện diện ở chung quanh nhà mồ tạm. Mỗi năm, sau mùa mưa và sau khi kết thúc mùa thu hoạch thì  thấy người Gia Lai hay thường tổ chức lễ bỏ mả trong những ngày trông sáng ba ngày liên tục nhưng trước đó họ phải dành cả mấy tháng trời để dựng  một ngôi nhà mới  lại  thay thế  ngôi nhà tạm nhỏ  bé nhưng ngôi nhà nầy  nó chỉ là một cái xác vật chất không có linh hồn vì ma người chết đã  đi về với tổ tiên trong thế giới thần linh. Trong ba ngày lễ nầy, mọi người tổ chức ăn cỗ linh đình, uống rượu cần, tấu cồng chiêng, cùng nắm tay nhau múa vũ điệu truyền thống. Từ đây  các người thân thuộc của người chết mới cắt đứt vĩnh viễn mối quan hệ  với người chết. Người goá vợ hay góa chồng có  quyền lập lại cuộc đời. Còn nhà mộ nó tự  phân hủy một cách tự nhiên theo ngày tháng dù nó có hoành tráng hay trang trí thật đẹp vì theo tập tục, người thân thuộc mong rằng người chết có được một cuộc sống tốt đẹp ở thế giới bên kia. Tuy nhiên, nhà tang lễ  nầy  rất đáng được chú ý về mặt nghệ thuật và văn hóa qua  một số  tượng hình trang trí, các hoa văn được thấy trên các mái nhà của nhà mộ  để nói lên sự luân hồi của kiếp người cũng như sinh sôi nảy nở theo quan niệm của dân tộc Tây Nguyên.

Version française

Maison funéraire des Jaraï

Quiconque a eu l’occasion de visiter le musée d’ethnographie de  Hanoï voit probablement la maison funéraire des Jaraï construite suivant  le modèle du village Kep Pinh du district de Chu Pa de la province de Gia Lai. Les gens  de ce village n’osent pas la bâtir  pour le musée car il n’y a pas la cérémonie d’abandon de la tombe (ou cérémonie Pơ Thi), qui est considérée comme importante selon les coutumes des Jaraï.  En cas de construction de cette maison funéraire, ils seront punis par les esprits. C’est pour cela que le musée doit compter sur cinq personnes issues d’un autre village pour la construire. Selon l’archéologue vietnamien Ngô Văn Doanh, les rites funéraires des Jaraï ont non seulement des similitudes à celles des ethnies des Hauts Plateaux du Centre Vietnam (comme les Bahnar) mais aussi à  celles d’autres minorités ethniques de l’Asie du Sud- Est et de l’océan Pacifique.  En jetant un coup d’œil sur la tombe des Jaraï,  il  est possible d’être effrayé  car elle paraît être mystérieuse du fait qu’il y a autour de cette tombe, une palissade (krep) faite  de piliers massifs (ameh) sculptés sans aucune  finition avec des haches. C’est une façon d’évoquer  des sculptures très expressives en bois liées au culte de fertilité: des scènes d’activités sexuelles  entre mari et femme avec des organes génitaux démesurés,  des copulations entre hommes  et femmes,  des femmes enceintes,  des figures  accroupies, des personnages  se serrant le visage  avec leurs mains etc… Ce sont ces derniers qui sont de loin les plus populaires et qu’on retrouve aux quatre coins de la clôture.  Selon les villageois, ils représentent les gens destinés à servir les morts lorsque la cérémonie d’abandon de leur tombe n’a pas encore lieu.

Autrefois, les serviteurs  devaient  être enterrés vivants avec leurs riches propriétaires qui venaient  d’être décédés. Aujourd’hui, ces sculptures rappellent bien la scène où les  proches du défunt doivent rendre visite à sa maison funéraire  et alimenter quotidiennement  son « esprit » par l’intermédiaire d’un tuyau enfoncé au fond de sa tombe et se lamenter en position accroupie sur sa tombe avec les deux mains sur les genoux ou sur la joue. La mise en place de ces figures en bois en même temps que la décoration réalisée sur les toitures doit avoir lieu  juste avant  la période précédant la cérémonie d’abandon de la tombe.

Pour les Jaraï, la mort n’est pas la fin de cette vie mais le début d’une autre vie dans l’au-delà. L’âme que les Jaraï appellent  « m’gat »  se transforme en un un fantôme ou un esprit  (ou atau en Gia Lai). Désormais il rejoindra ses  ancêtres vivant dans le monde des esprits (poloi atau). Mais avant la cérémonie d’abandon de la tombe, le fantôme a besoin de nourriture, de vêtements et d’une petite maison temporaire pour y vivre comme ses proches encore en vie  avec les outils nécessaires au quotidien et emmenés avec lui dans la vie d’au-delà. Ceux-ci  sont réduits en miniature  (hache, couteau, pioche, hotte, calebasse d’eau etc…). C’est pourquoi on est habitué à voir l’installation temporaire  d’une hutte  sur la tombe. C’est la maison de l’esprit du défunt (ou bang atau). La tombe mesure 8,25 mètres de long et 2,25 mètres de large.

Y compris la clôture environnante, la maison funéraire a une superficie d’environ 45 mètres carrés. Les Jaraï ont la coutume d’enterrer ensemble les morts, ce qui signifie qu’une tombe aussi grande peut contenir de nombreux cercueils appartenant à des personnes proches les unes des autres.

La maison funéraire est associée souvent  à la cérémonie d’abandon de la tombe. La période de deuil peut durer des mois voire des années. La famille du défunt tente de garder le plus longtemps possible  le fantôme dans la famille. Cette  période est souvent appelée période d’entretien de la tombe (dja m’xàt): les proches doivent nettoyer régulièrement la tombe, apporter de la nourriture pour les morts et faire des offrandes alimentaires (poulets, porcs) tous les mois.

Selon la coutume, le fantôme ou l’esprit du trépassé est  toujours présent autour de la hutte provisoire. Chaque année, après la saison des pluies et après la fin de la saison des récoltes, les Jaraï organisent souvent la cérémonie d’abandon de la tombe  durant les trois jours lumineux consécutifs  mais avant cela, ils doivent passer plusieurs mois à construire la maison funéraire. Celle-ci va remplacer  la hutte provisoire  mais elle n’est qu’une  carcasse physique sans âme car l’esprit du défunt  est déjà parti pour rejoindre ses ancêtres dans le monde des esprits. Durant ces trois jours, les gens s’organisent pour faire le festin, boire de l’alcool de riz, jouer des gongs, se tenir la main  dans les danses traditionnelles.

Désormais, les proches du défunt  couperont définitivement les liens avec le mort. Les veuves ou les veufs ont le droit de refaire leur vie. Quant à la maison funéraire, elle se décompose naturellement au fil des années malgré qu’elle soit grandiose ou magnifiquement décorée. Selon la coutume, les proches espèrent que le trépassé  aura  une belle vie dans l’au-delà.

Cependant, cette maison funéraire mérite de retenir une plus grande  attention artistique et culturelle à travers un certain nombre de figurines décoratives et de motifs retrouvés  sur les deux toits principaux et sur les deux petits toits à pignons triangulaires car cela représente la réincarnation de la vie humaine ainsi que la fécondité selon le concept du peuple des Hauts Plateaux.

English version

Jaraï Funeral Home

Anyone who has had the opportunity to visit the Ethnography Museum of Hanoi has probably seen the Jaraï funeral house built following the model of the Kep Pinh village in the Chu Pa district of Gia Lai province. The people of this village do not dare to build it for the museum because there is no tomb abandonment ceremony (or Pơ Thi ceremony), which is considered important according to Jaraï customs. If this funeral house is built, they will be punished by the spirits. That is why the museum has to rely on five people from another village to construct it. According to Vietnamese archaeologist Ngô Văn Doanh, the funeral rites of the Jaraï not only have similarities with those of the ethnic groups of the Central Highlands of Vietnam (such as the Bahnar) but also with those of other ethnic minorities in Southeast Asia and the Pacific Ocean. A glance at the Jaraï tomb can be frightening because it appears mysterious due to the fact that around this tomb there is a palisade (krep) made of massive pillars (ameh) carved without any finishing with axes.

It is a way to evoke very expressive wooden sculptures linked to fertility worship: scenes of sexual activities between husband and wife with oversized genitals, copulations between men and women, pregnant women, squatting figures, characters holding their faces with their hands, etc. The latter are by far the most popular and can be found at the four corners of the fence. According to the villagers, they represent people destined to serve the dead when the ceremony of abandoning their tomb has not yet taken place. In the past, servants had to be buried alive with their wealthy owners who had just died. Today, these sculptures vividly recall the scene where the deceased’s relatives must visit his funeral home and daily feed his « spirit » through a pipe inserted deep into his tomb and lament in a squatting position on his grave with both hands on their knees or on their cheek. The installation of these wooden figures, along with the decoration made on the roofs, must take place just before the period preceding the ceremony of abandoning the tomb.

For the Jaraï, death is not the end of this life but the beginning of another life in the afterlife. The soul, which the Jaraï call « m’gat, » transforms into a ghost or a spirit (or atau in Gia Lai). From now on, it will join its ancestors living in the spirit world (poloi atau). But before the ceremony of abandoning the grave, the ghost needs food, clothes, and a small temporary house to live in like its still-living relatives, along with the necessary daily tools taken with it into the afterlife. These are reduced to miniature size (axe, knife, pickaxe, basket, water gourd, etc.). That is why it is customary to see the temporary installation of a hut on the grave. It is the house of the spirit of the deceased (or bang atau). The grave measures 8.25 meters long and 2.25 meters wide. Including the surrounding fence, the funeral house has an area of about 45 square meters. The Jaraï have the custom of burying the dead together, which means that such a large grave can contain many coffins belonging to people close to each other.

The funeral home is often associated with the ceremony of abandoning the tomb. The mourning period can last months or even years. The family of the deceased tries to keep the ghost within the family for as long as possible. This period is often called the tomb maintenance period (dja m’xàt): relatives must regularly clean the tomb, bring food for the dead, and make food offerings (chickens, pigs) every month. According to custom, the ghost or spirit of the deceased is always present around the temporary hut. Every year, after the rainy season and after the end of the harvest season, the Jaraï often organize the ceremony of abandoning the tomb during three consecutive bright days, but before that, they must spend several months building the funeral house. This will replace the temporary hut but it is only a physical shell without a soul because the spirit of the deceased has already left to join their ancestors in the spirit world. During these three days, people organize a feast, drink rice wine, play gongs, and hold hands in traditional dances.

From now on, the deceased’s relatives will permanently sever ties with the dead. Widows or widowers have the right to start a new life. As for the funerary house, it naturally deteriorates over the years despite being grand or beautifully decorated. According to custom, the relatives hope that the deceased will have a good life in the afterlife. However, this funerary house deserves greater artistic and cultural attention through a number of decorative figurines and patterns found on the two main roofs and on the two small triangular gabled roofs, as this represents the reincarnation of human life as well as fertility according to the concept of the Highland people.

[Back to page « Vietnam, land of 54 ethnies »]

 

Maison communale des Bahnar (Nhà Rông của dân tộc Bà Na)

Nhà rông của dân tộc Bà Na

Version française

English version

Mỗi lúc tôi đến Hànôi thì tôi phải dành nửa ngày để đi  tham quan  viện bảo tàng dân tộc học Việt Nam ở đường Nguyễn Văn Huyền, quận Cầu Giấy. Có thể nói chính ở nơi nầy tôi tiếp tục khám phá và  học hỏi biết nhiều về tập tục của các dân tộc  thiểu số ở Việt Nam. Cũng chính nơi nầy tôi được xem nhà Rông của người Bà Na, một dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng Tây Nguyên mà cũng là người Việt cổ từ đại tộc Bác Việt thuộc ngữ hệ Nam Á. Cũng như đình cũa dân tộc ta, nhà rông của họ có những nét đặc sắc về kiến trúc mà được bảo tàng dân tộc học Việt Nam tổ  chức tái tạo lại dựa theo ký ức của dân làng và một số bức ảnh một thời đã có cùng  nguyên mẫu nhà rông của làng Kon Rbàng ở thị xã Kon Tum. Đấy là  một loại nhà có mái cao được  dựng vào khoảng cuối những năm 1920. Nhà rông nầy có sự  đặc biệt của nó là có một hệ thống giằng và chống khá phức tạp nhất là trong việc liên kết chủ  yếu các mái nhà chính với nhau hay là với các vì cột qua cách buộc  bằng dây mây. Nhờ hệ thống giằng  chống nầy mà bộ nóc mái nhà nó được vươn cao và kiên cố.  Các vì  cột được thành hình nhờ kỹ thuật dùng mộng  trơn.

Còn các lỗ được đục xuyên qua các cột lớn đều cần dùng đến lưỡi rìu  tra vào cán thẳng và dài chứ không cần dùi đục. Trước khi hoàn  thiện mái nhà  thì cần có giàn giáo hình chữ A nhầm để dựng bộ khuôn nóc và lợp mái nhà bằng cỏ tranh. Rồi phủ tấm phên lớn đan bằng mây sau đó trên nóc nhầm  cản gíó thổi bay đi nóc nhà và để làm đẹp nóc với một dải hoa văn (rang reh) cao khoảng 1,50 thước. Đôi khi  còn có con chim đẽo gỗ ở giữa dải hoa văn nầy. Giàn giáo dựng nhà là một dãy những cây tre chôn nghiêng xuống đất và tựa vào các đầu quá giang cũng như cạnh sàn nhà. Đồng thời hàng loạt những cây tre khác  được buộc ngang vào làm hệ thống bậc trèo từ thấp lên cao. Nhờ kiểu giàn giáo sáng tạo độc đáo nầy mà  mọi người có thể tham gia cùng một lúc  vào một công việc theo chiều cao hay chiều ngang. Giàn giáo khi cần thiết có thể tách rời rộng hơn khỏi mái nhà để dễ làm việc nhờ các mấy dây dài ở trên đỉnh căng xuống ra xa. Nhà Rông của người Tây Nguyên không dùng đến sắt thép.

Maison communale des Bahnar 

Musée d’ethnographie (Hanoï)

nha_rong

Nhà Rông lúc nào cũng được xem là sức mạnh và tài năng của cộng đồng  dân làng nhất là nó có liên quan đến các sinh hoạt của nam giới. Theo quan niệm của họ, làng mà không có nhà Rông tức là làng đàn bà, có thể nói một cái làng chưa hẳn ra làng. Nhà rông không những là nơi  sinh hoạt văn hóa và  tín ngưỡng của buôn làng mà còn là linh hồn của làng. Bởi vậy nhà văn Nguyễn Văn Kự viết như sau trong quyển sách có tựa đề « Nhà Rông Tây Nguyên »:  xây nhà rông cũng tức là đặt trái tim cho cơ thể làng, trái tim ấy bắt đầu đập, truyền máu đi khắp cơ thể làng, kết nối tất cả lại và thổi sự sống vào cho nó trở thành một cộng đồng không gì phá vỡ được. Nhà rông  còn là nơi đón tiếp khách chung của làng mà cũng là nơi để các già làng tựu lại bàn công việc chung, chia sẻ và truyền dạy cho các bọn trẻ những kinh nghiệm về  cuộc sống. Nó còn là nơi để cất giữ  các vật « thiêng » như cồng chiêng, trống đồng vân vân…  mà còn là nơi ngủ đêm của những chàng trai  chưa vợ hay góa vợ  để túc trực bảo vệ làng.

Bởi vậy  vị trí  của nhà rông rất quan trọng ở trong làng. Nó thường được dựng lên ở giữa trung tâm của làng.  Nó có nhiều chức năng giống với đình của dân tộc Việt như trụ sở của bộ máy quản trị buôn làng, nơi sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, nhà khách, câu lạc bộ vân vân… theo  sự nhận xét của nhà khảo cứu lừng danh Hà Văn Tấn. Chính ở nơi nhà Rông nầy mà các trẻ em của  các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên được tiếp nhận những hiểu biết phong phú từ các thế thệ cha anh để mà khôn lớn và trưởng thành qua năm tháng và tiếp giữ được các tập tục và tín ngưỡng của dân tộc.

Bibliographie :

Những ngôi nhà dân gian.  Bảo tàng dân tộc học. Editeur: Nhà xuất bản Thế Giới 2005.

Nguyễn văn Kự: Nhà rông Tây Nguyên. Editeur  Nhà xuất bản Thế Giới 2007

Version française

La maison commune Rong des Bahnar

Chaque fois que je suis de passage à Hanoi, je dois consacrer une demi-journée pour revisiter le musée d’ethnographie du Vietnam situé dans la rue Nguyễn Văn Huyền, dans le district de Cầu Giấy. C’est peut-être ici que je continue à  découvrir et à apprendre davantage de choses  sur les traditions ancestrales des minorités ethniques. C’est également ici que j’ai eu l’occasion de voir la maison communale (ou nhà  Rong) des Bahnar, une minorité ethnique vivant sur les Hauts Plateaux du centre et faisant partie  des Bai Yue de la famille linguistique austro-asiatique.

Analogue à la maison communale des Vietnamiens, leur maison Rong a des traits  architecturaux caractéristiques que le musée d’ethnographie du Vietnam tente de recréer en recueillant les souvenirs des villageois et quelques vieilles photos possédées à une certaine époque ainsi que le prototype de la maison communale du village  Kon Rbang de la ville  Kon Tum. C’est  un type de maison à toit pentu construit vers la fin des années 1920. Cette maison communale a la particularité d’avoir un système de contreventement et d’étaiement assez compliqué, en reliant notamment les pans principaux entre eux ou  avec les colonnes par l’attache des cordes en rotin. Grâce à ce système de contreventement, le toit de la maison est assez élevé et solide. Les colonnes sont formées par la technique d’utilisation du tenon lisse. Quant aux trous percés à travers les grandes colonnes, il est nécessaire d’utiliser la lame de la hache  dotée d’un manche droit et long à la place du burin.

Avant de terminer la finition de la toiture, il est nécessaire d’établir  un échafaudage en forme de A pour mettre en place le modèle du toit et le recouvrir ensuite de chaume. Puis il faut  déposer sur l’arête de la toiture une grande canisse tressée en osier  destinée à empêcher le vent d’arracher le toit de chaume  et embellir ce dernier avec une bande de motifs (rang reh) d’environ 1,50 mètre de haut. Il y a parfois même un oiseau gravé sur bois se trouvant au milieu de cette bande de motifs. L’échafaudage est  en fait une rangée de bambous enfouis dans le sol et appuyés contre les extrémités des poutres transversales comme  les bords du plancher. Dans le même temps, une série d’autres bambous sont attachés horizontalement pour former un système d’escaliers allant du  bas en haut. Grâce à ce type unique d’échafaudage innovant, tout le monde peut être engagé en même temps dans une tâche aussi bien dans le sens horizontal que vertical.

En cas de besoin, l’échafaudage peut être détaché davantage du toit dans le but de faciliter le travail grâce aux longues cordes fixées au sommet pouvant être  étirées plus loin vers le bas. On ne trouve ni fer ni acier dans la construction de la maison commune « Rong »

La maison communale Rong représente à la fois la force et le talent de la communauté villageoise car elle est liée aux activités des hommes. À leur avis, un village n’ayant pas une  maison Rong  n’est pas tout à fait  un village mais il est plutôt un village réservé aux femmes.

La maison communale est non seulement le lieu des activités culturelles et religieuses du village mais aussi l’âme du village. C’est pourquoi  l’écrivain Nguyễn Văn Kự a écrit comme  suit dans le  livre intitulé « La maison Rong des Hauts Plateaux »: construire une maison communale, c’est aussi insérer un cœur  dans le corps du village. Ce cœur commence à palpiter, à véhiculer du sang dans tout le corps du village, à relier le tout et à lui insuffler la vie pour devenir une communauté difficile à la démanteler.

La maison communale n’est pas seulement un lieu destiné à recevoir les invités communs du village, mais aussi un lieu où les « anciens » du village se réunissent pour discuter du travail commun, partager et enseigner aux enfants les expériences de vie. C’est aussi le lieu d’emmagasinage des objets sacrés  tels que les gongs, les tambours de bronze etc…et le dortoir de nuit pour les jeunes  et les veufs du village  en vue d’assumer la protection et la défense de ce dernier contre les ennemis venant de l’extérieur.

C’est pour cette raison que la position de la maison communale est très importante dans le village. On la trouve généralement au centre du village.

Semblable à la maison communale des Vietnamiens, la maison Rong remplit  de nombreuses fonctions: le siège administratif du village, le lieu des activités religieuses et de croyance, la maison d’hôtes, le club etc., selon le chercheur illustre Hà Văn Tấn.

C’est dans cette maison Rong que les jeunes des minorités ethniques vivant sur les Hauts Plateaux du centre reçoivent les connaissances riches  préservées des générations passées afin de pouvoir grandir et mûrir au fil des ans et maintenir les coutumes et croyances de leur peuple.

English version

The Rong common house of the Bahnar

Every time I come to Hanoi, I have to spend half a day visiting the Vietnam Museum of Ethnology on Nguyen Van Huyen Street, Cau Giay District. It can be said that here I continue to explore and learn a lot about the customs of the ethnic minorities in Vietnam. It is also here that I get to see the Rong house of the Ba Na people, an ethnic minority living in the Central Highlands, who are also ancient Vietnamese from the Bac Viet tribe belonging to the Austroasiatic language family. Like the communal houses of our ethnic group, their Rong house has distinctive architectural features that the Vietnam Museum of Ethnology has recreated based on the memories of the villagers and some historical photos of the original Rong house of the Kon Rbang village in Kon Tum town. This type of house has a high roof and was built around the late 1920s. The uniqueness of this Rong house lies in its quite complex bracing and support system, especially in the way it connects the main roofs with each other or with the columns through tying with rattan. Thanks to this bracing system, the roof structure is elevated and solid. The columns are shaped using a technique of smooth mortise and tenon joints.

As for the holes drilled through the large columns, an axe blade with a straight and long handle is used instead of a chisel. Before completing the roof, an A-shaped scaffold is needed to erect the ridge frame and thatch the roof with straw grass. Then, large woven rattan mats are covered, followed by placing them on the ridge to prevent the wind from blowing the roof away and to beautify the ridge with a decorative strip (rang reh) about 1.50 meters high. Sometimes, there is also a wooden bird carved in the middle of this decorative strip. The scaffolding for building the house consists of a row of bamboo poles planted slanting into the ground and leaning against the ends of the crossbeams as well as the edges of the floor. At the same time, a series of other bamboo poles are tied horizontally to form a climbing system from low to high. Thanks to this uniquely creative scaffolding design, many people can participate simultaneously in work either vertically or horizontally. When necessary, the scaffolding can be separated and extended further from the roof for easier work, supported by several long ropes stretched down from the top. The Rông houses of the Central Highlands people do not use steel or iron.

The communal longhouse is always regarded as the strength and talent of the village community, especially since it is related to the activities of men. According to their belief, a village without a communal longhouse is a village of women; it can be said that a village is not truly a village. The communal longhouse is not only a place for cultural and religious activities of the village but also the soul of the village. Therefore, writer Nguyễn Văn Kự wrote in his book titled « The Communal Longhouse of the Central Highlands »: building a communal longhouse is like placing the heart into the body of the village; that heart begins to beat, sending blood throughout the village’s body, connecting everything together and breathing life into it, making it an unbreakable community. The communal longhouse is also the common reception place for guests of the village and the place where village elders gather to discuss communal affairs, share, and pass down life experiences to the younger generation. It is also a place to store sacred objects such as gongs, bronze drums, and so on, as well as a place where unmarried or widowed young men sleep overnight to stand guard and protect the village.

Therefore, the position of the communal house is very important in the village. It is often built in the center of the village. It has many functions similar to the communal temple of the Vietnamese people, such as the headquarters of the village management apparatus, a place for religious and spiritual activities, a guest house, a club, and so on, according to the renowned researcher Hà Văn Tấn. It is in this communal house that the children of the ethnic minorities in the Central Highlands receive rich knowledge from the generations of their ancestors to grow up and mature over the years, preserving the customs and beliefs of their people.

 

Bibliographie:

Những ngôi nhà dân gian.  Bảo tàng dân tộc học. Editeur: Nhà xuất bản Thế Giới 2005.
Nguyễn văn Kự: Nhà rông Tây Nguyên. Editeur  Nhà xuất bản Thế Giới 2007

 

Art du Champa (Nghệ thuật Champa)

Nghê thuật Chămpa

Version vietnamienne

English version

L’art cham continue à représenter une partie importante dans l’art du Sud Est Asiatique connu dans le passé sous le nom « art trans-indien ». On le trouve par le biais de leurs vestiges architecturaux religieux. Ceux-ci deviennent la clé de voûte de l’art Cham. Bien que ces édifices ne soient pas des monuments splendides et grandioses comme Pagan en Birmanie, Angkor au Cambodge, Borobudur en Indonésie, ils sont d’une grande beauté pleine de charme. Certains méritent de faire partie des patrimoines mondiaux de l’humanité car on y trouve à la fois une décoration composée de riches sculptures en grès et des motifs ornementaux finement gravés dans les briques. On peut dire que c’est une broderie de briques et de grès, un joyau unique en son genre pour l’humanité. Rien n’est étonnant de voir la cité sainte Mỹ Sơn d’être classée comme l’un des patrimoines mondiaux de l’humanité.  

Les habitants de l’ancien Champa ont incarné leur âme dans la terre et dans la pierre et ont su tirer parti de la nature pour en faire un Mỹ Sơn splendide, mystérieux et grandiose. C’est un vrai musée architectural, sculptural et artistique du monde de valeur inestimable qu’il est difficile de comprendre entièrement.

Feu architecte Kasimierz Kwakowski 

L’architecture chame est d’inspiration indienne. Les ouvrages architecturaux sont des ensembles comprenant un temple principal (ou kalan en langue chame) entouré de tours et de temples, le tout englobé dans une enceinte.

Les temples sont bâtis en forme de tour et en briques tandis que les linteaux, les bas-reliefs, les corniches, les tympans etc. sont en grès. Les règles de la disposition des temples cham ont été bien définies. Cela doit refléter la cosmogonie hindoue. Après avoir érigé le temple-tour, les sculpteurs Chams commencent à exécuter des bas-reliefs sur les murs du temple. Pour les ornements  de décoration, ils se servent  des motifs  de fleurs, de feuilles, de branches, d’animaux  et de scènes inspirées de l’histoire pour évoquer des sujets religieux.

Les temples et les tours chams sont construits avec des briques en terre cuite. Celles-ci sont associées à des ornements en grès: jambages, pilastres, linteaux etc.  De dimensions variées, ces briques dont les formes sont souvent parallélépipédiques sont chauffées à petit feu. Malgré l’absence du mortier, elles continuent à rester soudées les unes des autres au fil des siècles, ce qui permet aux tours et aux temples de résister tant bien que mal aux attaques des intempéries. Cela constitue encore une énigme pour la plupart des scientifiques et cela prouve que la technique de fabrication et d’utilisation des briques a atteint chez les Chams un très haut niveau. 

Par contre, selon le chercheur vietnamien, spécialiste de l’art Cham, Trần Kỳ Phương, l’extraordinaire solidité de ces énormes blocs de briques agrégés entre eux provient de l’utilisation d’un mélange d’huile (dầu rái)  venant de la résine de Pipterocarpus Alatus Roxb et de la chaux provenant de la cuisson des coquillages et de la poudre de brique. D’autres chercheurs n’hésitent pas à reprendre la vieille idée qui est pourtant abandonnée depuis longtemps. C’est celle d’une cuisson de l’édifice tout entier en une seule fois. C’est l’hypothèse émise par un chercheur vietnamien Ngô Văn Doanh dans son ouvrage intitulé « La culture du Champa, Editions Culture et Informations, Hanoï , 1994 » (Văn Hóa Chămpa, Thông Tin , Hanoï ).

En admirant ces tours, le voyageur ne peut pas retenir sa tristesse de voir disparaître l’une des civilisations brillantes d’Indochine dans les tourbillons de l’histoire. C’est à nous, les Vietnamiens de redonner à ce peuple vaincu la place et la dignité qu’il mérite dans notre société et de lui montrer notre attachement à sa culture. C’est seulement dans cet esprit d’ouverture et de tolérance que le Vietnam est fier d’être une mosaïque de 54 ethnies. C’est un apport culturel inouï à notre richesse culturelle millénaire.

Version vietnamienne

Nghệ thuật Chămpa vẫn tiếp tục là một bộ phận quan trọng của nghệ thuật Đông Nam Á được gọi là « nghệ thuật xuyên qua Ấn Độ« . Nó được tìm thấy thông qua các di tích kiến ​​trúc tôn giáo. Các dấu tích kiến trúc nầy trở thành nền tảng của nghệ thuật Chămpa. Tuy không phải là những công trình kiến ​​trúc lộng lẫy và hoành tráng như Pagan ở Miến Điện, Angkor ở Cao Miên, Borobudur ở Nam Dương, nhưng cũng mang lại vẻ đẹp tuyệt vời đầy quyến rũ. Một số di tích xứng đáng là một phần di sản thế giới của nhân loại bởi vì được tìm thấy ở trang trí các tác phẩm điêu khắc phong phú trên đá sa thạch và các họa tiết được chạm một cách tinh xảo trên gạch. Có thể nói, đây  là bức tranh thêu bằng gạch và đá sa thạch, một loại ngọc có một không hai đối với nhân loại. Không có gì ngạc nhiên khi thánh địa Mỹ Sơn được xếp vào một trong những di sản thế giới của nhân loại.

Người Chàm cổ đã gởi tâm linh vào đất, đá và đã biết dựa vào thiên nhiên để làm nên một Mỹ Sơn tráng lệ, thâm nghiêm và hùng vĩ. Đây là một bảo tàng kiến trúc điêu khắc nghệ thuật vô giá của nhân lọai  mà còn lâu chúng ta mới hiểu biết  đựơc hết.

Cố kiến trúc sư Kasimierz Kwakowski

Kiến trúc Chămpa lấy nguồn  cảm hứng từ Ấn Độ. Các công trình kiến ​​trúc là  những tổng thể gồm có  một ngôi đền chính (hoặc kalan trong tiếng chàm) được các tháp và đền bao xung quanh, tất cả được bao bọc thêm  ở  ngoài bởi một vòng vây.

Các ngôi đền  được xây dựng theo hình tháp và bằng gạch, còn các lanh tô,  các phù điêu, các gờ kiến trúc, các ô trán vân vân… được làm bằng đá sa thạch. Các quy tắc bố cục của các đền tháp Chăm đã được xác định rõ. Nó phải phản ánh vũ trụ quan của người Hindu. Sau khi dựng xong đền-tháp, các nhà điêu khắc người Chăm mới bắt đầu làm những bức phù điêu trên tường của ngôi đền. Họ sử dụng các họa tiết trang trí như lá cây, hoa lá, động vật, thần linh vân vân … để gợi lên những chủ đề tôn giáo.

Các đền tháp chàm được xây dựng bằng gạch đất nung và được kết hợp với các đồ trang trí bằng đá sa thạch: chồng trụ, cột trụ tường, lanh tô vân vân… Với nhiều kích cỡ khác nhau, những viên gạch này, có hình dạng thường là hình hộp, được nung ở nhiệt độ thấp. Mặc dù không có vữa, các viên gạch nầy vẫn tiếp tục gắn liền với nhau qua nhiều thế kỷ, cho phép các tháp và đền thờ  nầy có thể chống chọi  lại không ít thì nhiều với thời tiết khắc nghiệt. Điều này vẫn còn là một bí ẩn đối với tất cả  nhà khoa học và nó chứng tỏ rằng kỹ thuật chế tạo và sử dụng gạch đã đạt đến trình độ rất cao của người Chàm.

Mặt khác, theo nhà nghiên cứu Việt,  một chuyên gia về mỹ thuật Chămpa, Trần Kỳ Phương, sự  vững chắc lạ thường của những khối gạch khổng lồ nầy được kết hợp với nhau là do việc sử dụng hỗn hợp dầu từ nhựa cây dầu rái  Pipterocarpus Alatus Roxb và vôi nấu từ các vỏ sò và bột gạch. Các nhà nghiên cứu khác không ngần ngại tiếp thu  lại ý tưởng cũ đã bị bỏ rơi từ lâu. Đó là việc nung  nguyên toà nhà cùng một lúc. Đây là giả thuyết được nhà nghiên cứu Việt Nam Ngô Văn Doanh đưa ra trong tác phẩm “La culture du Champa, Editions Culture et Informations, Hanoi, 1994” (Văn Hóa Chămpa, Thông Tin, Hà Nội).

Khi được chiêm ngưỡng những tháp này, người  lữ khách không khỏi bùi ngùi khi chứng kiến ​​sự diệt vong của một trong những nền văn minh rực rỡ ở  Đông Dương  trong cơn lốc lịch sử. Người  dân Việt chúng ta cần phải trả lại cho một dân tộc bị bại trận nầy vị trí  và phẩm giá  mà họ rất xứng đáng có được  ở trong xã hội của chúng ta và cho họ thấy chúng ta rất gắn bó mật thiết đối với nền văn hóa của họ. Chỉ với tinh thần cởi mở và khoan dung mà  Việt Nam mới có thể tự hào là bức tranh khảm của 54 dân tộc. Đây cũng  là sự đóng góp văn hóa phi thường của họ  vào nền văn hóa  mà chúng ta có hơn nghìn năm tuổi.

English version

Cham art continues to be an important part of Southeast Asian art known in the past as « trans-Indian art« . It is found through their religious architectural remains. These become the keystone of Cham art. Although these buildings are not splendid and grandiose monuments like Pagan in Burma, Angkor in Cambodia, Borobudur in Indonesia, they are of great beauty and charm. Some of them deserve to be part of the world heritage of humanity because they are decorated with rich sandstone sculptures and ornamental patterns finely engraved in the bricks. It can be said that it is an embroidery of bricks and sandstone, a unique jewel for humanity. No wonder the holy city Mỹ Sơn to be listed as one of the world heritage sites of mankind.

The people of ancient Champa have embodied their soul in the earth and stone and have taken advantage of nature to make a splendid, mysterious and grand Mỹ Sơn. It is a true architectural, sculptural and artistic museum of the world of priceless value that is difficult to fully understand.

The late architect Kasimierz Kwakowski

Chame architecture is inspired by Indian architecture. The architectural works are complexes consisting of a main temple (or kalan in the Chame language) surrounded by towers and temples, all enclosed in a compound.

The temples are built in the form of a tower and in brick while the lintels, bas-reliefs, cornices, tympanums etc. are in sandstone. The rules for the layout of Cham temples have been well defined. It must reflect the Hindu cosmogony. After erecting the temple-tower, Cham sculptors start to execute bas-reliefs on the temple walls. For the decorative ornaments, they use motifs of flowers, leaves, branches, animals and scenes inspired by history to evoke religious subjects.

Cham temples and towers are built with clay bricks. These bricks are associated with sandstone ornaments: jambs, pilasters, lintels etc.  Being of various dimensions, these bricks whose forms are often parallelepipedic are heated over a small fire. Despite the absence of mortar, they continue to be welded together over the centuries, which allows the towers and temples to resist the attacks of the weather. This is still an enigma for most scientists and it proves that the technique of making and using bricks has reached a very high level among the Cham.

On the other hand, according to the Vietnamese researcher, specialist in Cham art, Trần Kỳ Phương, the extraordinary solidity of these huge blocks of bricks aggregated together comes from the use of a mixture of oil (dầu rái) coming from the resin of Pipterocarpus Alatus Roxb and lime coming from the cooking of shells and brick powder. Other researchers do not hesitate to take up the old idea that has long been abandoned. It is that of a cooking of the whole building at once. This is the hypothesis put forward by a Vietnamese researcher Ngô Văn Doanh in his book entitled « La culture du Champa, Editions Culture et Informations, Hanoi , 1994 » (Văn Hóa Chămpa, Thông Tin , Hanoi ).

While admiring these towers, the traveler cannot hold back his sadness to see one of the brilliant civilizations of Indochina disappearing in the whirlwinds of history. It is up to us, the Vietnamese, to give back to this defeated people the place and dignity they deserve in our society and to show our attachment to their culture. It is only in this spirit of openness and tolerance that Vietnam is proud to be a mosaic of 54 ethnicities. It is an incredible cultural contribution to our millennial cultural wealth.

[Return to CHAMPA]

Con nghê của ngươi dân Việt

 

Version francaise

Con nghê

Trong văn hóa Việt nam, chúng ta thường bị lầm lẫn con nghê với con kỳ lân (*). Con nghê nó không phải con vật có thật mà nó cũng không phải là linh vật ngoại nhập. Nó là con linh vật thuần việt, có từ ngàn xưa. Con nghê có nét giống kỳ lân. Đặc điểm phân biệt giữa nghê và lân là ở bộ móng, nghê mang móng vuốt còn kỳ lân mang móng guốc. Vã lại nghê  mang một thân hình con chó để được phù hợp với bản sắc và văn hóa của người dân Việt. Trong các tự điển sinh học không hề thấy tên con động vật nào có tên nghê cả mà chỉ có  con toan nghê (con sư tử). Trước thời đô hộ của người Hán, không có con nghê. Nó chắc chắn được hình thành trong văn hóa Việt từ giai đoạn bị người Hán đô hộ, ở thời kỳ Đồng Sơn muộn và khi nhà Lý có công xây dựng nền độc lập tự chủ thì thấy nó xuất hiện trong các công trình kiến trúc nghệ thuật như hoàng thành Thăng Long,  các chùa Dâu và Phật Tích, các đình làng vân vân… Nghê là một linh vật hư cấu khiến nó không có hình dáng cố định như hổ hay sư tử.

Bởi thế nó có sự biến đổi khi tạo hình. Nó là con vật có bốn chân, không có sừng, mình thon dáng thanh trông dáng con chó. Đặc tính của nó là « canh  giữ hay chầu chực ».  Bởi vậy thường nghe nói « phượng múa nghê chầu » trong thành ngữ.  Theo tự điển tiếng Việt, « chầu » có nghĩa là động từ dùng để hầu hạ và là canh chừng ra vào. Nó có yếu tố linh thiêng và chống lại tà ma và ác qủy.  Bởi vậy nghê được thấy ở khắp nơi trong văn hóa dân gian của người Việt từ cung đình, chùa chiền cho đến cổng làng, lăng mộ hay nóc nhà.

Theo nhà nghiên cứu mỹ thuật Trần Hậu Yên Thế thì con nghê nó có một dung mạo, một sắc thái bình dị khiến nó bộc lộ được tính gần gũi, một nét thân quen phảng phất hình ảnh con chó với cái đuôi ngắn. Nó thể hiện sự trung thành. Nhà sử học Lê Văn Lan cho biết: Mỗi con linh vật khi được tạo thành hình dáng, nó phải có khởi hình từ  một con thú nào có thật. Như vậy nghê lấy khởi hình từ con chó cũng như con rồng từ con cá sấu vậy.  Vị trí của nghê xuất hiện ở nơi nào đều phải có mang một ý nghĩa cụ thể.  Con nghê ở lăng mộ nó khác hẳn với con nghê ở cổng  đình. Ở trên đỉnh nóc của đình Đinh Bảng chẳng hạn thì nghê được xem như phượng hoàng tượng trưng cho cõi trên nhìn xuống  xem xét coi người đến viếng thăm có tâm thiện hay không để mà trừng phạt.  Còn ở  trên đỉnh của  hai cột ở trước cổng đình Mông Phụ (Đường Lâm) thì hai con nghê mang dáng điệu hồ hởi đón chào. Còn nghê ở lăng mộ thì nó thể hiện lòng kính cẩn thương xót. Nó không thể hiện sự hung dữ, uy quyền được thường  thấy như con toan nghê của Trung Hoa.  Còn nghê đội đèn được trông thấy ở  các đồ đồng Đông Sơn muộn thì có chức năng  làm tỏa ánh sáng diệt trừ tà khí. Còn ở trước cổng làng thì nó có nhiệm vụ  bảo vệ cả làng.

Theo nhà nghiên cứu mỹ thuật Trần Hậu Yên Thế, ở thời Lê trung hưng ((1428-1788), nghê vẫn xuất hiện ở các lăng mộ. Nhưng hầu hết trong các lăng mộ của các ông hoàng bà chúa triều Nguyễn thì  không có nghê mà  lại thay thế bằng kỳ lân. Nhưng trong đời sống thế tục, nghê còn được thấy ở trong hệ thống kiến trúc của hàng trăm ngôi làng Bắc bộ và cho đến nay người ta vẫn làm hình con nghê chầu”. Nó rất đa dạng, nó rất phù hợp với quan cảnh của nơi nó xuất hiện và nó thể hiện được  tâm thức của người Việt. Tùy từng giai đoạn của lịch sử, nó có những nét đặc trưng khác nhau nhưng nét cơ bản đa phần của nó  vẫn mang đậm yếu tố dân gian Việt Nam.

(*) Kỳ Lân, trong đó, Kỳ là con đực và Lân là con cái.                                                  

con_nghe

Qilin

Dans la culture vietnamienne, nous sommes habitués à confondre l’animal « nghê (ou chien-lion) » et le qilin (kỳ lân)(*).  Le « chien-lion » n’existe pas réellement dans la nature mais il n’est non plus un animal sacré emprunté à d’autres cultures. C’est une pure créature vietnamienne  datant des temps anciens. Le nghê a certains traits du qilin. La principale caractéristique permettant de faire la  distinction entre le nghê et le qilin  réside dans les doigts de pied, le nghê étant armé des griffes et le qilin des sabots. De plus le nghê a le corps d’un chien  pour être conforme à l’identité et la culture du peuple vietnamien. Dans les dictionnaires de biologie, il n’y a aucun animal portant ce nom « nghê » ou « chien-lion », mais il existe  seulement le lion. Avant la domination des Han (ou Chinois), on ne décèle pas son existence. Sa formation a lieu  dans la culture vietnamienne à partir de la période de domination des Han, à la fin de la période Đồng Sơn et au moment où la dynastie des  Lý a  réussi à  acquérir l’indépendance totale. C’est durant cette période qu’on vit son apparition dans les projets de construction architecturale comme la citadelle impériale de Thăng Long, les  pagode Dâu et Phật Tích, les maisons communales etc… C’est une créature imaginaire  n’ayant jamais une apparence ou une forme précise comme un tigre ou un lion.

C’est pour cela qu’il y a la variation de modification dans la mise en forme de cette créature. Celle-ci est un animal à quatre pattes,  sans cornes, un corps  effilé, ce qui lui donne une ressemblance à un chien de garde. Sa caractéristique particulière est « la garde et la protection ». On est habitué à dire « le phénix danse et le chien-lion fait la garde» dans un proverbe. Dans le dictionnaire vietnamien, « chầu » est employé pour signifier « attendre l’ordre » et « surveiller ». Cette créature possède l’élément « sacré »  destiné à éloigner et neutraliser les mauvais esprits. C’est pourquoi, le chien-lion (ou nghê) est visible partout dans le folklore vietnamien,  de la cour royale et de la pagode jusqu’à l’entrée du village, les tombes et les toits des maisons.

Selon le  spécialiste des beaux-arts Trần Hậu Yên Thế, cette créature  a une physionomie, une  apparence idyllique  qui lui permet de faciliter le premier abord, une caractéristique familière, révélant ainsi sa loyauté à l’image d’un chien à la queue courte. 

L’historien Lê Văn Lan nous fait savoir qu’au moment de la création de la  mascotte, on doit s’inspirer au départ d’un vrai animal. C’est ainsi que  le chien-lion est crée à  partir du chien de garde comme c’est le cas du dragon avec le crocodile. Partout, dans chaque lieu, le chien-lion doit apparaître avec une signification particulière. Le  nghê situé  au cimetière est différent de celui se trouvant à l’entrée de la maison communale.

Au sommet de la toiture de cette dernière (Đinh Bảng par exemple), le chien-lion, analogue à un phénix appartenant aux animaux d’en haut, observe en bas le déplacement  du visiteur dans le but de le protéger ou de le punir en fonction de son comportement lors de sa visite. Par contre, sur les  sommets des  deux colonnes à  l’entrée de la maison communale Mông Phụ (Đường Lâm), se trouvent deux nghê ayant chacun une allure joyeuse et accueillante.  Quant au nghê accroupi devant le  tombeau, il se montre à la fois compatissant et miséricordieux. Cela ne manifeste pas en aucun cas  la férocité et la puissance trouvées fréquemment chez le lion chinois. Le pied de lampe  en forme de « chien-lion » accroupi trouvé dans les trouvailles de la culture de Đồng Sơn tardif,  a pour fonction de  faire rayonner une lumière   destinée à  éloigner et  détruire les esprits maléfiques. Devant l’entrée du village, sa présence apporte à tout le village la protection.

Selon le spécialiste des beaux-arts Trần Hậu Yên Thế, durant la période des Lê Trung Hưng (1428-1788) , le « chien-lion » est est encore présent auprès des tombes royales. Par contre il n’existe plus le « nghê » dans la plupart des tombes royales sous  la dynastie des  Nguyễn mais il est remplacé par le qilin.

Mais dans la vie ordinaire, le chien-lion est visible  toujours dans le réseau architectural des  centaines de villages du Nord. Jusqu’à présent, on continue  à faire des statues de « chien-lion » en position de garde. Le chien-lion se trouve sous diverses formes. Il est très adapté au paysage du lieu où il est présent et il montre l’esprit du peuple vietnamien. En fonction de chaque période de l’histoire, il se présente de manière différente et distinctive mais la base de ses caractéristiques continue à porter l’élément folklorique vietnamien.

(*) Qilin, c’est le mot désignant le couple d’animaux de Fengsui où Qi est le mâle et Lin est la femelle.

Bibliographie:

Đinh Hồng Hải: Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền thống Việt Nam.  Tập 3. Các con vật linh. Editions Nhà Xuất Bản thế giới. Hànội 2016
Trần Hậu Yên Thế, Nguyễn Đưc Hoà, Hồ Hữu Long: Phác họa Nghê. Nhà Xuất Bản thế giới.

Văn hóa Điền Quốc và Nam Chiếu (Royaume de Dian et Nanzhao)

Văn hóa Điền Quốc

Version française
English version 

Thời kỳ Bắc thuộc,  nước Giao Châu thường bị quấy nhiểu cướp bóc bởi nước Nam Chiếu 南诏 (Vân Nam)  nhất là cuối đời nhà Đường thời vua Huyền Tôn (Xuanzong). Nước nầy được thống nhất nhờ tù trưởng của chiếu Mông Xá,  Bi La Cáp (Piluoge) và gồm có sáu nước nhỏ  mà mỗi nước nầy được gọi là chiếu (zhao). Chiếu Mông Xá (Meng She) của  Bi La Cáp  nằm  ở  phiá nam vì vậy mới gọi là Nam chiếu. Vương quốc nầy ở gần hồ Nhĩ Hải (Erhai)  nằm ở tỉnh Vân Nam ngày nay và ở phiá tây của bắc bộ Việt Nam. Theo sử gia Trần Trọng Kim thì người Nam Chiếu phần đồng là người nòi thái mà có cả người Bạch và người Lô Lô thuộc về nhóm Tạng-Miến. Nhờ sự thống nhất nầy mà Nam Chiếu càng ngày càng mạnh đem quân đi đánh Thổ phồn (Tây Tạng)  rồi dời đô lên đóng ở thành Thái Hoà (thành Đại Lý ngày nay). Nam Chiếu cũng đã từng xâm chiếm An Nam (tên gọi khi đó của Việt Nam dưới thời nhà Đường ) từ những năm 858 tới năm 866. Hai lần nhà Đường gữi binh sang cứu Giao Châu cũng bị thất bại nên phải đợi đến năm ất dậu (865) vua nhà Đường sai tướng là Cao Biền mới bình được giặc quân Nam Chiếu. Có lần quân Nam Chiếu chiếm đoạt được thành giết dân  Giao Châu hơn 15 vạn. Đất Giao Châu bị Nam Chiếu phá hại gần mười năm trời.

Sở dĩ Nam Chiếu thường liên tục phát động các cuộc chiến tranh xâm lấn An Nam Đô hộ phủ  (Vietnam) hay Tây Xuyên (dải phía Tây Tứ Xuyên) là chủ yếu cướp bóc tài nguyên và nô lê.  Nước nầy thống trị dựa trên ba bộ phận mà mà bộ phận chính là nô lệ. Bậc trên  cao cả là  bậc thống trị gồm có các đại diện của qúy tộc chủ nô (vương thất, tướng tá, quan lớn nhỏ), bậc kế  đó có các bình dân và bậc sau cùng  là tù binh chiến tranh và dân thiểu số bị chinh phục và trở thành nô lệ.  Sau khi bị đuổi  bởi Cao Biền ra khỏi An Nam  thì Nam Chiếu bị suy dần vì chiến tranh triền miên. Năm 873, Nam chiếu bị đẩy ra khỏi Tứ Xuyên và phải lùi sau đó về Vân Nam. Khi Viêt nam được thoát ách thống trị Trung Hoa với Ngô Quyền thì nước Nam Chiếu bị tiêu diệt và được thay thế sau một thời gian ngắn  bởi  vương quốc  của Đoàn Tư Bình. Ông nầy lập ra nhà Đại Lý vào năm 937 và bị thôn tính bởi quân Mông Cổ vào năm 1253.

Sở dĩ Nam Chiếu nhất là Vân Nam được nhắc đến nhiều ở trong sử ta vì nơi nầy có một nền văn hoá Điền Quốc cùng thời với nền văn hoá Đồng Sơn của Việt Nam. Theo sự quan sát của nhà khảo cổ học Việt Nguyễn Việt, có thể nói vào thời đó, văn hóa Đồng Sơn đuợc phát triển trong bối cảnh cởi mở, đã trao đổi lẫn nhau những thông tin và sản phẩm với Điền quốc qua sông Hồng. Lấy nguổn nước ở Vân Nam, sông Hồng được xem thời đó như là đường tơ lụa sông.  Qua các cuộc khai quật khảo cổ, các  dữ liệu tích lũy hơn nửa thế kỷ đã chứng minh rằng các hiện vật kiếm được, từ vùng Đông Sơn và Vân Nam, thuộc hai nền văn hóa có liên quan trong lĩnh vực văn hóa dựa trên nền tảng văn hóa Việt ở tây nam Trung Quốc và bán đảo Đông Dương. Cả hai trung tâm khu vực đều là nơi mà những người tiêu dùng nhiều các trống đồng và các dụng cụ kim loại.  Người Điền thường  sử dụng trống đồng lớn nhằm để liên lạc trong chiến trận.  Cũng trông thấy trong các ngôi mộ của tầng lớp quý tộc người Điền có các trống đồng lớn chứa vỏ sò. Phần trên của trống thường được  thay thế bằng một nắp đúc từ đồng thiếc.  Trên nắp  được thấy nhiều cảnh vật khác nhau trong cuộc sống hằng ngày của người dân Điền qua các tượng hình nhỏ bé: săn bắn, trộng trọt hay dệt vải. Đôi khi còn có các cảnh êm đềm hơn nữa như khiêu vũ, đấu bò tót vân vân…

Người Điền là  những người có đầu óc sáng kiến khiến họ tạo ra nhiều hình dáng phưc tạp và tinh xảo. Họ  dùng  cả hai phương pháp khuôn sáp đã mất và phương pháp khuôn mảnh. Phải làm thế nào để  sáng tỏ  hai nền văn hóa này tương tác với nhau trong bối cảnh luyện kim ở châu Á? Hiển nhiên  là ngoài ra mối quan hệ rõ ràng với văn hoá Đông Sơn, đồ đồng Vân Nam cũng thể hiện những đặc điểm nổi bật ở các khu vực phía bắc và phía tây của hồ Điền quốc  mà  được xem đó là  các nguồn có thể có cho sự  cảm hứng trong việc sáng tạo. (TzeiHuey Chiou-Peng).

Bibliographie:

TzeHuey Chiou-Peng: Dian bronze art : its source and formation.  IPPA 2008, n° 28, pp 34-43.
Trần Trọng Kim: Việt nam sử lược. Imprimerie Vĩnh Thanh, Hànôi 1928.
Chiêm Toàn Hữu: Văn hóa Nam Chiếu Đại Lý. Nhà xuất bản văn hóa thông tin Hànôi 2004.

Version française

La culture de Dian 

Durant la période de domination chinoise, la province Giao Châu était souvent envahie  et pillée par le royaume  de Nanzhao 南诏 (Yunnan), en particulier à la fin de la dynastie  des Tang sous le règne de l’empereur Huyền Tôn (Xuanzong). Ce pays était unifié par le  roi de Meng She, Piluoge (ou Bi La Cáp en vietnamien) et constitué de six petits royaumes, dont chacun était appelé un zhao (ou chi  ).  Le royaume  Meng She de  Piluoge était localisé  dans le sud. C’est pour cette raison qu’il était désigné  sous le nom Nan Zhao (ou pays au sud). Ce royaume était situé  près du lac Erhai dans l’actuelle province de Yunnan et à l’ouest du nord du Vietnam. Selon l’historien vietnamien  Trần Trọng Kim, le royaume de Nan Zhao était occupé en grande partie par la population Thaïe mais les Bai  et les Lo Lo appartenant au groupe tibéto-birman y étaient aussi présents. Grâce à cette unification,  le royaume Nan Zhao se renforça de jour en jour et envoya ses troupes pour combattre Thổ Phồn (ou Tibet) puis déplaça et installa  sa capitale à  la ville  Thái Hòa (capitale Dali d’aujourd’hui). Nan Zhao a également envahi An Nam (le nom donné au  Vietnam à l’époque de la dynastie des Tang) de l’an 858 jusqu’en   866. La dynastie Tang a tenté d’envoyer  deux fois des troupes pour sauver la  province Giao Châu de cette occupation mais  elle a échoué complètement.  Il faut attendre jusqu’en l’an 865, pour que l’empereur des Tang envoyât cette fois le général Kao Ping (Cao Biền) pour chasser définitivement les Nan Zhao et  pacifier la province Giao Châu. Une fois, l’armée de Nan Zhao réussit à occuper la province An Nam et tuer plus de 15 000 habitants. La province  Giao Châu  supporta incessamment le harcèlement des Nan Zhao durant presque dix ans.

La raison pour laquelle le royaume de Nan Zhao a lancé incessamment des guerres pour envahir An Nam (Vietnam) ou la bande occidentale du Sichuan était principalement le pillage des ressources et la capture des esclaves. Ce pays était fortement hiérarchisé  avec une structure à trois niveaux dont le plus important et le plus bas était basé essentiellement au système  d’esclavage. Le niveau le plus élevé revenait à la classe dirigeante  composée de représentants de la noblesse et des maîtres d’esclaves (famille royale, généraux, grands et petits fonctionnaires). Le niveau suivant comprenait les gens ordinaires et le dernier niveau était occupé par  les prisonniers de guerre et la minorité ethnique chargés d’entretenir le système d’esclavage. Après avoir été expulsé par Kao Ping hors d’An Nam,  le royaume de Nanzhao a progressivement décliné en raison de la guerre sempiternelle avec ses voisins. En 873, les Nan Zhao furent expulsés du Sichuan et  refoulés vers la région de Yunnan. Lors de la libération du Viêt Nam de la domination chinoise  avec Ngô Quyền, le royaume de Nan Zhao fut entièrement détruit et  remplacé peu de temps après par le royaume de Duan Siping ( Đoàn Tư Bình). Celui-ci fonda le royaume de Dali en  937 et disparut lors de la conquête mongole en 1253.

Le royaume de Nan Zhao ainsi que la province de Yunnan était mentionné souvent dans notre histoire car elle avait la culture de Dian à la même époque  de celle de  Đồng Sơn au Vietnam. Selon l’archéologue vietnamien Nguyễn Việt, on peut dire qu’à cette époque, la culture Đồng Sơn s’est développée dans un cadre très ouvert, a échangé réciproquement  les informations et les  objets avec  le royaume de Dian  au moyen du fleuve Rouge. Prenant la source au Yunnan, le fleuve Rouge était considéré à l’époque comme la route de la soie. Grâce à des fouilles archéologiques, les données recueillies durant  plus d’un demi-siècle ont prouvé que les artefacts comparables dans les régions de Đồng Sơn et de Yunnan, appartenaient à deux cultures apparentées dans la sphère culturelle des Yue du sud-ouest de la Chine et la péninsule indochinoise. Les deux centres régionaux abritaient de nombreux consommateurs de tambours de bronze et d’instruments métalliques. Les Dian utilisaient souvent de grands tambours en bronze pour faciliter la communication au combat. On voit également dans les tombes de l’aristocratie  de Dian de grands tambours en bronze contenant des coquillages. La partie supérieure du tambour est généralement remplacée par un couvercle en fonte de bronze. Sur le couvercle, on peut voir de nombreuses scènes différentes de la vie quotidienne des Dian à travers des figurines: chasse, agriculture ou tissage. Parfois, il y a des scènes encore plus paisibles  comme la danse, la tauromachie etc.

Les Dian étaient des gens créatifs qui leur permettaient de créer de nombreuses formes très complexes et sophistiquées. Ils utilisaient à la fois la méthode de moulage à la cire perdue et la méthode de moulage en plusieurs fragments. Comment ces deux cultures devraient-elles interagir dans le contexte de la métallurgie en Asie? Il est évident  qu’outre  leurs affinités évidentes avec la culture de Đồng Sơn, les bronzes de Yunnan présentent aussi les caractéristiques des régions nord et ouest du lac de Dian considérées comme les sources  possibles pour leur inspiration. (TzeiHuey Chiou-Peng).

Bibliographie:
TzeHuey Chiou-Peng: Dian bronze art : its source and formation.  IPPA 2008, n° 28, pp 34-43.
Trần Trọng Kim: Việt nam sử lược. Imprimerie Vĩnh Thanh, Hànôi 1928.
Chiêm Toàn Hữu: Văn hóa Nam Chiếu Đại Lý. Nhà xuất bản văn hóa thông tin Hànôi 2004.
 

During the period of Northern domination, the region of Giao Châu was often disturbed and plundered by the Nam Chiếu state 南诏 (Nanzhao, located in Yunnan), especially towards the end of the Tang dynasty during the reign of Emperor Xuanzong. This state was unified by the chieftain of the Mông Xá tribe, Bi La Cáp (Piluoge), and consisted of six small states, each called a « chiếu » (zhao ). The Mông Xá chiếu (Meng She) of Bi La Cáp was located in the south, hence the name Nam Chiếu. This kingdom was near Erhai Lake, situated in present-day Yunnan province and to the west of northern Vietnam. According to historian Trần Trọng Kim, the people of Nam Chiếu were mostly of the Tai ethnicity, including both the White Tai and Lolo people, who belong to the Tibeto-Burman group. Thanks to this unification, Nam Chiếu grew stronger and sent armies to attack the Tubo (Tibet) region, then moved their capital to the city of Thái Hòa (now Dali). Nam Chiếu also invaded An Nam (the name for Vietnam under the Tang dynasty) from 858 to 866. Twice the Tang dynasty sent troops to rescue Giao Châu but were defeated, and it was not until the year Ất Dậu (865) that the Tang emperor dispatched General Cao Biền to suppress the Nam Chiếu forces. On one occasion, the Nam Chiếu army captured a citadel and killed over 150,000 people of Giao Châu. The land of Giao Châu suffered devastation by Nam Chiếu for nearly ten years.

The reason Nam Chiếu frequently launched continuous invasions against the An Nam Protectorate (Vietnam) or Tây Xuyên (the western strip of Sichuan) was mainly to plunder resources and slaves. This country was ruled based on three components, with the main component being slaves. The highest class was the ruling class, including representatives of the slave-owning aristocracy (royalty, generals, officials large and small), followed by commoners, and the lowest class were war captives and conquered ethnic minorities who became slaves. After being driven out of An Nam by Cao Biền, Nam Chiếu gradually declined due to continuous warfare. In 873, Nam Chiếu was pushed out of Sichuan and had to retreat to Yunnan. When Vietnam freed itself from Chinese domination under Ngô Quyền, Nam Chiếu was destroyed and was shortly replaced by the kingdom of Đoàn Tư Bình. He established the Đại Lý kingdom in 937, which was annexed by the Mongol army in 1253.

The reason Nam Chiếu, especially Yunnan, is frequently mentioned in our history is because this place had a Dian Kingdom culture contemporaneous with the Đông Sơn culture of Vietnam. According to the observations of Vietnamese archaeologist Nguyễn Việt, it can be said that at that time, the Đông Sơn culture developed in an open context, exchanging information and products with the Dian Kingdom across the Red River. Originating from the waters of Yunnan, the Red River was considered at that time as a river silk road. Through archaeological excavations, data accumulated over more than half a century has proven that the artifacts found from the Đông Sơn region and Yunnan belong to two related cultures in terms of cultural aspects based on Vietnamese culture in southwestern China and the Indochinese Peninsula. Both regional centers were places where people extensively used bronze drums and metal tools. The Dian people often used large bronze drums for communication during battles. It is also seen in the tombs of the Dian nobility that large bronze drums containing shells were present. The top part of the drum was often replaced by a lid cast from bronze-tin alloy. On the lid, many different scenes of daily life of the Dian people are depicted through small figurines: hunting, farming, or weaving. Sometimes there are even more peaceful scenes such as dancing, bullfighting, and so on.

Dien people

The Dien people are those with innovative minds that lead them to create many complex and exquisite shapes. They use both the lost-wax casting method and the piece-mold casting method. How can we clarify the interaction between these two cultures in the context of metallurgy in Asia? Obviously, besides the clear relationship with the Dong Son culture, the bronze artifacts of Yunnan also exhibit prominent features in the northern and western regions of the Dien kingdom, which are considered possible sources of inspiration for creativity. (TzeiHuey Chiou-Peng).

Bibliographie:

TzeHuey Chiou-Peng: Dian bronze art : its source and formation.  IPPA 2008, n° 28, pp 34-43.
Trần Trọng Kim: Việt nam sử lược. Imprimerie Vĩnh Thanh, Hànôi 1928.
Chiêm Toàn Hữu: Văn hóa Nam Chiếu Đại Lý. Nhà xuất bản văn hóa thông tin Hànôi 2004.

Chùa Chiền Việt Nam: Phần 1 (Version vietnamienne)

 

Thân là nguồn sinh diệt, Pháp tính vẫn như xưa
Thiền sư Thuần Chân của phái  Tì Na Lưu Đà Chi(1101)

pagoda

Version française

Không giống như chữ « Đền » thường chỉ nơi thờ một danh nhân (anh hùng, vua hoặc thần), chữ « Chùa » thì chỉ được dùng để chỉ nơi thờ phượng  tôn kính Đức Phật. Trước khi xây dựng tòa nhà này, điều cần thiết là phải xem xét kỹ vị trí vì cần phải có sự hòa hợp với thiên nhiên ở xung quanh. Mặt khác, không giống như những ngôi chùa ở Trung Quốc, Ấn Độ hay Cao Miên, việc hoành tráng và xa hoa không nằm ở trong các tiêu chuẩn được lựa chọn trong việc thực hiện công trình này. Đây là lý do tại sao các vật liệu cơ bản được sử dụng chủ yếu thường là gỗ, gạch và ngói. Chùa không nhất thiết phải trội hơn các toà nhà ở xung quanh.  Trên thực tế  ở trong mỗi ngôi làng đều có một ngôi chùa. Tương tự như đình, chùa thường khơi lại đối với mọi người  dân Việt hình ảnh làng quê mà còn lại bao hàm cả hình ảnh quê hương. Chùa  vẫn có  một sức lôi cuốn quyến rũ đối với họ.

pagode0

Chùa được ghé thăm nhiều hơn đình vì không có phân chia giai cấp nào được nhìn thấy ở nơi đó. Đây là sự bình đẳng tuyệt đối giữa  các con người với nhau mà cũng là phương châm do chính Đức Phật thuyết giảng để chia sẻ và giải thoát những đau khổ của con người. Ngay cả trong khung cảnh nghiêm túc và trang trọng này, đôi khi còn tìm thấy ở trong sân chùa các vở kịch cổ điển. Đây không phải là trường hợp của đình nơi  cần có sự tôn trọng nghiêm ngặt. Sự phân biệt thứ bậc có thể thấy được ít nhiều. Ngay cả phép vua cũng không thể ảnh hưởng đến phong tục lệ làng đựơc. Đó cũng là lý do tại sao chùa rất gần gũi với người dân Việt hơn bao giờ hết. Chúng ta vẫn thường quen nói: Đất vua, chùa làng, cảnh Phật để gợi nhớ không chỉ sự gần gũi, gắn bó hữu tình của chùa với dân làng mà còn là sự hòa hợp với thiên nhiên.icone_lotus

Chùa có được  một vai trò then chốt trong đời sống xã hội của làng xã cho đến nỗi chùa được nhắc đến thường xuyên trong các  câu ca dao:

Ðầu làng có một cây đa,
Cuối làng cây thị, đàng xa ngôi chùa.

hay

Rủ nhau xuống bể mò cua,
Lên non bẻ củi, vào chùa nghe kinh.

khiến cho chúng ta nhận thấy người dân Việt rất gắn bó sâu  sắc với biển cả và núi non để được nuôi dưỡng và với  chùa  chiền  để  đáp ứng nhu cầu tâm linh. Chùa chiền đúng là nơi nương tựa lý tưởng và tâm linh của họ trước những thiên tai, hiểm họa thường gặp trong cuộc sống hàng ngày.

Cho đến ngày nay, nguồn gốc của từ « chùa » vẫn chưa được làm sáng tỏ. Không có mối liên hệ nào được tìm thấy về nguồn gốc của chữ từ « tự (chùa) » trong tiếng Hán. Theo một số nhà chuyên môn, nguồn gốc của nó nên được tìm thấy trong chữ Pali « thupa » hoặc « stupa » viết bằng tiếng phạn vì lúc mới xây dựng, chùa Việt Nam có dáng dấp của một bảo tháp. Do đó người Việt Nam  hay quen rút gọn trong cách phát âm của các từ  được du nhập từ nước ngoài, từ « stupa » trở thành từ « stu » hoặc « thu » để nhanh chóng dẫn đến từ « chùa » qua nhiều năm. Theo nhà nghiên cứu Việt Nam Hà Văn Tấn, đây chỉ là  sự phỏng đoán mà thôi. 

pagode_chuachien

Còn từ “Chiền” thì có ở trong tiếng Việt cổ, ngày nay được dùng cùng với từ “chùa” để gợi lên kiến ​​trúc của chùa. Tuy nhiên, từ « chiền » này thường được nhắc đến một mình trong quá khứ để chỉ chùa. Đây là điều chúng ta  tìm thấy trong bài thơ “Chùa vắng vẻ, tịch mịch” của vua Trần Nhân Tôn hay bài “Cảnh ở tự chiền” của Nguyễn Trãi.  Đối với nhiều người, từ « chiền » này có nguồn gốc từ tiếng Pali « cetiya » hoặc trong từ « Caitya » trong tiếng phạn để chỉ bàn thờ Phật trong mọi trường hợp.

Công trình xây dựng chùa đòi hỏi nhiều thời gian và công sức nghiên cứu nhất là việc thăm dò sơ bộ mặt bằng. Nó phải đáp ứng nghiêm ngặt một số tiêu chí nhất định ở  trong phong thủy vì theo người dân Việt, môn khoa học này có thể gây ra   một ảnh hưởng tai hại hay không đối với đời sống xã hội của dân làng. Nhà sư Khổng Lộ của phái Vô Ngôn Thông (1016-1094), cố vấn triều Lý, đã có dịp đề cập đến vấn đề này trong một bài thơ của mình với câu như sau: Tuyển đắc long xà địa khả  cư  (chọn được đất rồng mới có thể ở yên). Chúng ta thường quen xây dựng chùa trên một ngọn đồi hoặc một gò đất hoặc trên một khu vực đủ cao để nó có thể chiếm ưu thế đới với các nhà của dân làng. Bởi vậy vì có liên hệ với địa hình của chùa nên từ « Lên chùa » được người Việt sử dụng ngay cả khi chùa được nằm trên mặt đất bằng.

Hầu hết ở các chùa, đặc biệt là các chùa ở miền bắc Việt Nam, khung cảnh rất thanh bình, huyền bí và tráng lệ. Sông, núi, đồi, suối vân vân… luôn hiện hữu ở nơi đó, đôi khi còn tạo nên những cảnh quan ngoạn mục bởi sự hòa nhập hài hòa với thiên nhiên. Đây là trường hợp của chùa Thầy ở tỉnh Hà Tây, cách thủ đô Hànội 20 cây số nằm  giữa núi và nước. [Tiếp theo]

Chronologie des Han orientaux (Version vietnamienne)

Version française

Niên đại nhà Đông Hán

Ở các vùng lãnh thổ bị người Hán chinh phục, đặc biệt là ở miền nam Trung Quốc, công cuộc hán  hóa vẫn tiếp tục diễn ra một cách mạnh mẽ. Đây là lý do khiến các cuộc nổi dậy khởi đầu liên tục tiếp nối nhau ở Điền quốc (86, 83 trước Công nguyên, 14 sau Công nguyên từ năm 40 đến năm 45) và bị trấn áp nghiêm khắc. Những cuộc nổi dậy này một phần lớn là do sự lạm dụng của các quan chức người Hán và hành vi của những người định cư Trung Hoa nhằm chiếm sỡ hữu những vùng đất màu mỡ và đẩy dân cư địa phương đến  những nơi xa xôi hẻo lánh ở trên lãnh thổ của họ. Ngoài ra, họ còn  phải chấp nhận dùng ngôn ngữ, phong tục và tín ngưỡng tôn giáo của người Hán.

Cuộc khởi nghĩa của hai bà Trưng

Vào năm 40, một cuộc nổi loạn nghiêm trọng đã xảy ra ở tỉnh Giao Châu  bao gồm lúc bấy giờ một phần lãnh thổ của Quảng Tây ( Si) và Quảng Đông (Kouang Tong). Cuộc khởi nghỉa nầy được dẫn đầu bởi hai đứa con gái của một tỉnh trưởng địa phương Trưng Trắc (Zheng Cè) và Trưng Nhị (Zheng Èr). Vì sự  phản đối chính sách đồng hóa của Trung Quốc do thái thú Trung Quốc Tô Định (Su Ding) thực hiện một cách tàn bạo bởi Thi Sách, chồng của Trưng Trắc nên khiến Tô Định không ngần ngại xử tử ông nầy để noi gương  cho  quân nổi dậy, đặc biệt là người dân Việt.

Cuộc hành quyết gương mẫu này đã làm phẩn nộ hai bà Trưng và dấy lên phong trào nổi dậy ở toàn các vùng lãnh thổ của người Yue. Hai bà Trưng đã thành công trong việc chiếm được 65 thành trì trong một khoảng thời gian ngắn. Hai bà tự phong là nữ vương ở  trên các lãnh thổ được chinh phục và định cư ở  Mê Linh (Meiling). Vào năm 41 sau Công Nguyên, hai bà bị đánh bại bởi  Phục Ba Tướng Quân Mã Viện và tự sát để tránh  đầu hàng bằng cách tự trầm mình xuống sông Hát Giang. Vì vậy, hai bà trở thành biểu tượng của cuộc kháng chiến của người Việt Nam. Ngày nay, hai bà vẫn tiếp tục được thờ cúng không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều vùng thuộc lãnh thổ Việt của Trung Quốc (Quảng Tây và Quảng Đông). Mã Viện bắt đầu áp dụng chính sách khủng bố và cưỡng bức bằng cách đặt người Trung Quốc ở tất cả các cấp chính quyền địa phương và áp đặt tiếng Trung Hoa là ngôn ngữ chính thức trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Đây là sự thống trị đầu tiên của Trung Quốc kéo dài gần một ngàn năm trước khi cuộc chiến tranh giải phóng do tướng Ngô Quyền khởi xướng. Trong khi đó,  Hán Quang Vũ Đế đã thành công trong việc mang lại sự thịnh vượng và ổn định đế chế của mình bằng cách giảm thuế từ một phần mười xuống còn một phần ba mươi ở  các lợi nhuận thu thập được . Sau khi ông qua đời, con trai của ông, tương tự như Hán Vũ Đế, hoàng đế Hiếu Minh (Minh Đế) tiếp tục chính sách mở rộng  bờ cõi bằng cách phát động một cuộc tấn công chống lại Hung Nô phía bắc với mục đích giải phóng các quốc gia Trung Á khỏi sự giám hộ của Hung Nô và tái lập lợi ích cho Trung Quốc với sự an toàn ở con đường tơ lụa. Tướng Ban Siêu (Ban Chao), anh trai của nhà sử học nổi tiếng Bàn Cổ hay Mạnh Kiên (Ban Gu)  phụ trách lúc bấy giờ cuộc thám hiểm quân sự này. Ông đã thành công trong việc đến biển Caspi và khuất phục được người Nguyệt Chi (Yuezhi) với sự giúp đỡ của người Kusana.

 Nhân vật bất tử

Từ năm 91 sau công nguyên, Trung Quốc của Hán Minh  Đế  đã kiểm soát các đường mòn của các đoàn lữ hành trên con đường tơ lụa ở lưu vực Tarim. Nhờ con đường này, các sứ thần của Hán Minh Đế  mang về từ Tây Vực (Tianzu) những hình tượng của Đức Phật sau khi hoàng đế nhìn thấy được Đức Phật trong giấc mơ. Do đó, Phật giáo bắt đầu vào Trung Quốc với sự thành lập của chùa Bạch Mã. Trung Quốc chỉ  rời xa đế chế La Mã (Da Qin) bởi vương quốc Parthia (Ba Tư cổ đại). Bất chấp những công lao mỡ mang lãnh thổ, Hán Minh Đế không để lại trong sử sách nhà Hán hình ảnh  của một vị hoàng đế tài giỏi như cha mình là  Quang Vũ Đế hay con trai của ngài là Hán Chương Đế (Zhandi)(75-88) được tô điểm với tất cả các đức tính bởi vì dưới thời trị vì của ngài, một cuộc khởi nghĩa nông dân đã diễn ra vào năm 60 do  các lao dịch nặng nề, các công việc đắp đê sông Hoàng Hà và các công trình xây dựng cung điện mới ở phương Bắc được xem coi là tốn kém và quá đổi. Thiếu tiềm năng, những người kế nhiệm của Hán Chương Đế đã không thể đi theo con đường của những người tiền nhiệm. Họ trở thành các đồ chơi mưu mô của triều đình do các hoạn quan và các sĩ phu cầm đầu trong khi đó ở các tỉnh, các điền chủ bắt đầu độc chiếm các đặc quyền của chính phủ và lập thành các đội quân riêng tư. Sự tan rã của đế quốc nhà Hán ngày càng trở nên khó tránh khỏi.

Vào năm 189, vụ thảm sát 2000 hoạn quan do tướng Viên Thiệu ra lệnh khiến làm rối loạn triều đình nhà Hán. Cuộc tàn sát này sau đó được diễn ra bởi vị tướng Đổng Trác trúc phế Hán Thiếu Đế (Shaodi). Điều nầy dẩn đến một thời kỳ chính trị hỗn loạn và bất ổn khiến ai cũng cố gắng có vận may để chiếm được đế chế. Ba người  xuất chúng trong đám quân nhân và nổi tiếng qua những chiến công hiển hách Tào Tháo,  Lưu BịTôn Kiên  cùng nhau chia  trị gần một thế kỷ đế chế của nhà Hán. Đây cũng là sự kết thúc của một nhà nước tập quyền và bắt đầu cho thời kỳ Tam Quốc.

Niên đại Đông Hán (Đông Hán)

25-57: Triều đại của Hán Quang Vũ Đế (Guangwudi)
57-75: Triều đại của  Hán Minh Đế (Mingdi)
75-88: Triều đại của  Hán Hiếu Chương Đế (Zhandi)
88-106: Triều đại của Hiếu Hoà Đế (Heidi)
106: Triều đại của Hiếu Thương Đế (Shangdi)
106-125: Triều đại của  Hiếu An Đế (Andi).
125: Vương triều của Shaodi.
125-144: Triều đại của  Hiếu Thuận Đế (Chongdi).
145-146: Triều đại của Hiếu Chất Đế (Zhidi).
146-168: Triều đại của Hiếu Hoàn Đế (Huandi).
168-189: Triều đại của Hiếu Linh Đế (Lingdi).
184 Cuộc nổi dậy của Khăn vàng (Turbans jaunes)
189: Truất phế  Hán Thiếu Đế (Shaodi) bởi Đổng Trác.
189-220: Triều đại của  Hán Hiếu Hiến Đế (Xiandi).
190: Sự trỗi dậy và quyền lực của tướng quân Tào Tháo.
Chương 220: Cái chết của Tào Tháo và Hán Hiếu Hiến Đế. Cuối thời nhà Hán
220-316: Thời Tam Quốc.

Đây là một triều đại được tồn tại bốn thế kỷ (từ năm 206 trước Công nguyên đến năm 220 sau Công nguyên). Chính dưới triều đại nhà Hán mà  Khổng giáo  được phát triển và thịnh hành. Từ một học thuyết triết học, nó để lại cho Trung Quốc ngày hôm nay một di sản tinh thần và luân lý  và tiếp tục có một ảnh hưởng trọng đại cho hàng triệu người châu Á. Đây cũng là thời điểm phong phú nhất với các biến cố và các nguồn lực sáng tạo khoa học và nghệ thuật ở một nước Trung Quốc vừa rạng rỡ vừa chinh phục. Đây là lý do tại sao người Trung Hoa cảm nhận hơn bao giờ hết là những đứa con trai của nhà Hán bởi vì triều đại nầy mang lại cho họ một khoảnh khắc thiết yếu trong việc thành hình và làm rạng rỡ bản sắc của họ. [TRỞ VỀ]

Chonologie des Han occidentaux (Version vietnamienne)

 

Version française

Niên đại nhà Tây Hán


Năm 202 TCN: Lưu Bang tự xưng là hoàng đế. (Hán Cao Tổ)
195 TCN : Hán Cao Tổ qua đời
198-188 TCN: trị vì của Hán Huệ Đế.
188-180 TCN: nhiếp chính của Lữ Hậu.
180-157 TCN: trị vì của Hán Văn Đế.
157-141 TCN: triều đại của Hán Cảnh Đế.
154 TCN: nổi loạn của bảy nước chư hầu.
141-87 TCN: trị vì của Hán Vũ Đế.
87-74 TCN: trị vì của Hán Chiêu Đế.
80-68 TCN: nhiếp chính của tướng Hoắc Quang.
74 TCN: trị vì 27 ngày của Lưu Anh, bị phế truất hoàng đế.
74-48 TCN: trị vì của Hán Tuyên Đế.
48-33 TCN: trị vì của Hán Nguyên Đế.
33-7 TCN: trị vì của Hán Thành Đế.
7-1 TCN: trị vì của Hán Ai Đế.
1 TCN-5 SCN : trị vì của hoàng đế trẻ tuổi Hậu Phế Đế, bị Vương Mãng hạ độc.


Sau khi nắm quyền, Vương Mãng bắt đầu thay đổi một loạt cải cách tiền tệ (3 lần vào các năm 9, 10 và 14 sau Công Nguyên) và kinh tế của đất nước. Các tầng lớp bị ảnh hưởng nhiều nhất là các giới quý tộc và thương nhân bởi vì với mỗi lần thay đổi tiền tệ, những đồng tiền cũ được đổi lấy các đồng tiền mới với tỷ giá kém ưu đãi hơn khiến mọi người làm ra đồng tiền giả thay vì làm mất đi giá trị lúc đổi. Việc làm tiền giả bị trừng phạt nghiêm khắc. Mặt khác, các nông dân không bị ảnh hưởng nhiều bởi qua các cuộc cải cách này họ bán ngũ cốc với số lượng nhỏ để mua thực phẩm cần thiết trên thị trường và họ không phải lo lắng về tiền mặt. Từ đó về sau, Vương Mãng làm giới quý tộc và thương nhân giàu có căm ghét nhưng theo nhà Hán học Thụy Điển H. Bielenstein, vào thời điểm thực hiện cải cách kinh tế nầy, nguyên nhân chính thực sự khiến ông bị sa sút là do hàng loạt thiên tai (hạn hán, lũ lụt, các con cào cào) đầu tiên dẫn đến nạn đói, sau đó lại là cướp bóc, nổi dậy và cuối cùng là cuộc nội chiến. Trận lũ lụt khiến một số lượng lớn người dân sống ở các vùng bị ảnh hưởng phải di cư. Thảm họa này khiến những người tị nạn chết đói tập hợp lại thành các băng cướp bóc những khu vực họ đi qua và nổi dậy chống lại quân của chính phủ được phép đàn áp họ. Được biết đến với cái tên Xích Mi vì họ nhuộm lông mày màu đỏ, đám người này sớm giành được chiến công đầu tiên vào năm 22 sau Công nguyên và bắt đầu xâm chiếm các vùng khác của phía tây. Trong khi đó, có những cuộc khởi nghĩa do tầng lớp quý tộc Hán lãnh đạo nhưng đều bị đàn áp và bị dập tắt. Mãi đến mười ba năm nội chiến, gia tộc họ Lưu mới lấy lại niềm tin được ở Lưu Tú, một nhân vật tài năng và hào kiệt sau này được gọi là Quang Vũ (Hán Quang Vũ Đế) để khôi phục lại  đế chế và vương triều nhà Hán.

Đây là sự khởi đầu của thời kỳ nhà  Đông Hán. Khi lên nắm chính quyền, Hán Quang Vũ Đế không ngừng có những hành động ủng hộ dân nghèo và nô lệ. Không giống như Hán Vũ Đế, ông không thực hiện chính sách can thiệp vào các nước chư hầu. Tuy nhiên, sau đó chính ông là người đã cử Mã Viện đi dẹp cuộc nổi dậy của hai chị em Trưng Trắc Trưng Nhị trên lãnh thổ người Việt. Ông được các nhà sử học  xem coi là một trong những vị hoàng đế vĩ đại của nhà Hán cùng với Hán Vũ Đế. Qua các cuộc khai quật khảo cổ học, chúng ta biết rằng  người Hán đã hơn người La Mã trong một số lĩnh vực vào thời điểm này. Họ là những người đầu tiên phát minh ra một sản phẩm để truyền đạt tư tưởng và kiến ​​thức của mình. Họ thường gọi sản phầm nầy  với cái tên « zhi » hoặc giấy. Vào năm 105 sau Công Nguyên, một hoạn quan tên là Thái Luân của triều đình, khi quan sát cách các con ong vò vẽ nhai các sợi gỗ trong việc xây tổ, đã nảy ra ý tưởng bắt chước chúng và nhờ đó đã phát minh ra loại giấy nầy mà trình lên sau đó cho hoàng đế Hán Hòa Đế của nhà Đông Hán.

Khảo cổ học gần đây đã biện bác việc nầy vì các mảnh giấy được làm từ các sợi thực vật nầy được tìm thấy rõ ràng trước thời Thái Luân, một số có niên đại từ triều đại của  Hán Vũ Đế và một số khác được khai quật từ các lăng mộ của thời Tây Hán và từ đầu  thời kỳ nhà Đông Hán. Rất thường ghi nhận sự mâu thuẫn về niên đại mà người Trung Hoa cố tình đưa vào lịch sử truyền thống của họ được thiết lập  cho đến giờ bởi các triều đại, đặc biệt nhất là thời nhà Tần và Hán, trong chính thống Nho giáo và trong thời kỳ chinh phục thôn tính các lãnh thổ mới nếu chúng ta tiếp tục có  trí óc lý luận theo Descartes. 

Các nhân vật huyền thoại của Trung Hoa như Phục Hi, Nữ Oa, Bàn Cổ, Thần Nông được vay mượn từ các dân cư ở phía Nam. Đây là trường hợp mà nhà học giả Trung Hoa vĩ đại Ruey Yih-Fu, người đã nhìn thấy ở Phục Hi và Nữ Oa một nét văn hóa cụ thể của người Man Di,  người man rợ ở phương Nam hoặc dịch giả người Pháp Le Blanc của bộ sách  Hoài Nam Tử. Theo ông nầy thì chu kỳ Phục Hi Nữ Oa là một truyền thống của Sỡ Quốc. Các người Hán thậm chí còn đưa vào văn học của họ một huyền thoại sáng tạo Bàn Cổ  được lấy lại từ tổ tiên của người Dao (Brigitte Baptandier). Nhà khảo cổ học Trung Hoa Yan Wenming mô tả đây là một sản phẩm độc đáo của nhiều nguồn gốc hoặc một người như nhà Hán học  học nổi tiếng Chang Kwang-Chih để nói đến hiện tượng ở trong lĩnh vực tương tác văn hóa.

Cho đến giờ, người Hán hay thường viết bằng bút lông hoặc mực đen trên các bảng gỗ, lụa hoặc bảng tre. Có vẻ theo như một số nhà khảo cổ học, phương pháp sản xuất mà  Thái Luân trình lên hoàng đế Hán Hoà Đế vào năm 105 sau Công nguyên chỉ là sự tổng hợp và cải tiến các kinh nghiệm trước đó nhầm tạo điều kiện cho việc thay thế dần dần các tơ lụa và tre bằng giấy mà sản phẩm nầy ít tốn kém hơn trước sự yêu cầu càng ngày càng tăng lên ở thời bấy giờ.

Cấu trúc của các ngôi mộ

Vào đầu thời Tây Hán, các mộ hố đứng thẳng vẫn còn  trọng dụng rất nhiều. Truyền thống kiến ​​trúc này được thể hiện qua các ngôi mộ của  bà Đại ở Mã Vương Đôi  gần Trường Sa (Hồ Nam), Dabaotai gần Bắc Kinh và Fenghuangshan gần Jiangling (Hà Bắc). Sau đó, những ngôi mộ này được thay thế theo năm tháng bằng mô hình lăng nằm ngang trải khắp đế quốc Hán. Nhiều yếu tố đã góp phần vào sự thay đổi này và mang đến cho nghệ thuật tang lễ một sức sống mới. Ngoài kích thước bề thế của các ngôi mộ, chúng ta  còn nhận thấy đến sự phong phú của đồ đạc trong nhà mộ và niềm tin tôn giáo có liên quan đến sự thuyên chuyển  qua thế giơí bên kia của người Hán. Chính vì lý do đó mà các hoàng tử, quý tộc, đại địa chủ, các quan, các thương nhân giàu có đã không ngần ngại phô trương những đặc ân mà họ có trong xã hội và chức năng mà họ mong muốn được duy trì trong cuộc sống ở thế giới bên kia  và để thể hiện lòng mộ đạo và sự tận tâm của họ đối với người đã khuất bằng cách cố gắng cung cấp cho mọi thứ cần thiết qua các đồ vật tang lễ (hoặc minh khí). Những phẩm vật nầy dưới thời trị vì của nhà Hán đặc biệt rất  tinh vi. Với ý nghĩa biểu tượng, các vật nầy gồm có các mô hình thu nhỏ của các bình nghi lễ và nhạc cụ ở các nghi lễ hay các nhà nông trại hoặc các nhà ở.

Được biết thời đó  người Hán đã sử dụng xe cút kít và ròng rọc để di chuyển hàng hóa, trong khi đó  trong nông nghiệp, họ sử dụng búa bập bênh để nghiền ngũ cốc và khoáng sản. Đó là dưới thời trị vì của nhà Hán, người Trung Hoa  đã sử dụng bánh xe mái chèo cho nhiều mục đích khác nhau. Nhờ tiếp xúc với những người man rợ của phương Bắc, người Hung Nô, các nghệ nhân Trung Hoa đã vay mượn từ các người nầy những kỹ thuật mà họ rất thành công trong việc thông thạo  và sản xuất những đồ vật có chất lượng vượt trội. Đây là những gì chúng ta phát hiện ra nhờ các quá trình khai quật trong các ngôi mộ cổ kính với đồ trang trí xe ngựa, đồ sành sứ, đồ trang sức, khóa thắt lưng, vân vân … vào năm 132 sau Công Nguyên, máy đo địa chấn đầu tiên trên thế giới có thể cảnh báo triều đình nhà Hán và chỉ ra hướng của tâm chấn của trận động đất. Việc phát minh ra đồng hồ đo đường cùng đến lúc với quả cầu thiên thể quay đầu tiên. Ở Trung Quốc, đồ sứ ra đời, có độ tinh khiết và trắng sáng phù hợp với cái tên mà người Ý gọi nó là « vỏ trai (porcellana) » vào thế kỷ 15. Nguyên tố chính trong thành phần của đồ sứ là kaolin (thạch cao) được biết đến vào thời Đông Hán. Dưới triều đại này, đồ sứ bắt đầu có  được một sự bùng nổ thực sự.

Từ thời Chiến quốc cho đến thời nhà Tây Hán, người Trung Hoa đã có thể vẽ các bản đồ trên lụa và đựng trong hộp. Vào thời Xuân Thu anh hùng Kinh Kha được cử đi bởi thái tử Đan người nước Yên, cố  tình sử dụng một bản đồ gấp lại giấu một con dao găm để ám sát Tần Thủy Hoàng. Chỉ đến năm 1973, người ta mới phát hiện ra sự tồn tại của những tấm bản đồ này ở lăng mộ Mã Vương Đôi số 3 (168 trước Công nguyên). Do đó, hai bản đồ nầy cùng một bản đồ thành phố được xem là những bản đồ cổ nhất ở Trung Hoa và trên thế giới. Trong lĩnh vực thiên văn, Trung Hoa có sự phát triển nổi bật. Văn bản thiên văn được phát hiện trong lăng mộ số 3 ở Mã Vương Đôi (168 TCN) báo cáo chính xác những quan sát liên quan đến chuyển động của năm hành tinh trong khoảng thời gian 246-177 TCN. Toàn bộ hành trình của sao thổ trên bầu trời được tính là 30 năm, một con số không xa với 29,46 năm mà các nhà thiên văn học ngày nay cung cấp. 

Ngọc bích là một trong những loại đá khó gia công nhất. Tuy nhiên, kể từ thời kỳ đồ đá, những người thợ chạm khắc ngọc bích ở Trung Hoa đã khéo léo chạm khắc ngọc có lẽ bằng cách sử dụng bột nhão quartzite hoặc grenat, điều này mang lại cho ngọc bích một giá trị nghệ thuật đặc biệt với những chiếc nhẫn, các vòng tròn, hình tượng rồng vân vân… Dưới  thời nhà Thương (triều đại Thương Ân), ngọc bích được dùng cho việc trang trí thuần túy. Đây là những gì mà các nhà khảo cổ học phát hiện ra trong lăng mộ của hoàng hậu Phù Hảo (tìm thấy 755 ngọc bích). Sau đó, vào thời Tây Chu, người ta đã có phong tục che mặt cho người đã khuất bằng một chiếc mặt nạ và ngực với các mảnh giáp ghép được tạo thành từ nhiều mảnh. Đây là một dấu hiệu khác biệt hay quý tộc bằng cách đặt  các mảnh giáp trên cơ thể của người quá cố  thường mặc đồ tơ lụa. Các mặt nạ và các tấm vải liệm không dùng với mục đích trang trí mà có chức năng tôn giáo nhằm tìm kiếm sự bất tử dưới thời nhà Hán. Những chiếc bùa nhỏ bằng ngọc bích được sử dụng để bịt kín 9 lỗ trên cơ thể của người đã khuất để linh hồn người đó có thể sống mãi ở thế giới bên kia. Mặt khác, chúng ta không biết vai trò của viên ngọc « bi », được đặt trên trán của vua Nam Việt, Triệu Muội. Tấm vải liệm của Liu Shen, anh trai của hoàng đế Hán Vũ Đế và  bà vợ, công chúa Dou Wan, được tìm thấy ở Mancheng, gồm có đến 2498 tấm ngọc bích với các kích cỡ khác nhau được khâu bằng chỉ vàng, minh chứng cho sự hoàn hảo của người thợ mài ngọc Trung Hoa trong việc  chế tạo các tấm vải liệm và các vật trang trí sang trọng từ thời nhà Hán. 

Người Trung Hoa hay thường sơn mài nhiều loại  đồ khác nhau. Một số đồ vật sơn mài, đặc biệt là chiếc cốc gỗ đỏ được tìm thấy trong một ngôi mộ ở Chiết Giang tiết lộ  sự biết làm phi thường của họ từ thời đồ đá (thiên niên kỷ 5-4 trước Công nguyên). Cần nhớ lại rằng khu vực này thuộc nước Ngô Việt, một phần lãnh thổ cũ của đại tộc Bách Việt  trước khi bị sát nhập bởi  nước Sỡ, sau này bị Tần Thủy Hoàng chinh phục trong quá trình thống nhất đế chế. Đây có phải là kỹ năng của họ hay của người Bách Việt? Dù sau  bắt chước  người nước Sỡ, những người Hán đã thể hiện được sự thành thạo hoàn hảo trong nghệ thuật uốn gỗ bằng cách tạo ra các tác phẩm nguyên bản và cách điệu có chất lượng tuyệt vời khiến các nhà khảo cổ phải sững sờ thán phục trong  các cuộc khai quật khảo cổ học. Những lớp sơn mài này gợi lại những hoa văn và kiểu dáng phức tạp được tìm thấy trên các chiếc bình bằng đồng. Họ đã thành công trong việc đưa sơn mài trở thành một sản phẩm chủ đạo trong thời kỳ trị vì của nhà Hán. Được biết các đồ vật sơn mài được chôn trong các lăng mộ có thể được bảo quản hàng chục thế kỷ nhờ sự hiện diện của một loại enzyme đóng vai trò như chất xúc tác protit (urushiol) trên màng mỏng của các đồ vật, không nhạy với nhiệt nóng, không thấm nước và không để axit ăn mòn. Hơn một trăm đồ vật sơn mài (khay, cốc erbei, bình hoa vân vân..) đã được khai quật ở Mã Vương Đôi gần Trường Sa (Hồ Nam). Các tác phẩm khác còn nguyên vẹn được lấy được từ lăng mộ của hầu tước Yi họ Zeng ở Leigudun (Hồ Bắc). [TRỞ VỀ]

Tài liệu tham khảo:

Cây đèn dầu hình phượng hoàng

  • La Chine des Han. Histoire et civilisation. Office du Livre. 1982
  • Splendeur des Han. Essor de l’empire céleste. Editeur Flammarion. 2014
  • Chine ancienne. Des origines à la dynastie des Tang. Maurio Scarpari. Gründ.
  • Trésors de Chine millénaires mais intacts. National Geographic. Octobre 2001
  • La dynastie des Han. Vingt siècles d’influence sur la société chinoise. National Geographic. Février 2004.
  • Chine. La gloire des empereurs. Paris Musées. Editions Findakly.
  • La Chine des premiers empereurs. Editions Atlas. 1991
  • Splendeurs des Han. Essor de l’empire céleste. Editions des Beaux Arts. 2014.

Niên đại nhà Đông Hán (Tiếp theo)

 

Dynastie des Han: Art de vivre (version vietnamienne)

Version française

Nghệ thuật sống  dưới thời nhà Hán

Dưới thời  nhà Hán, xã hội Trung Hoa được cơ cấu đến mức độ chỉ có sĩ phu và nông dân mới được kính trọng so với  các nghệ nhân và thương nhân theo Hán thư của Ban Cố vào thế kỷ thứ nhất. Tuy nhiên, chỉ có người buôn bán mới được hưởng lợi từ hệ thống kinh tế của đế chế mặc dầu có một số hạn chế do triều đình  áp đặt. Sự gia tăng các công ty tư nhân và việc mở các tuyến đường thương mại (như con đường tơ lụa chẳng hạn) đã giúp họ trở nên giàu có dễ dàng. Họ bán những phẩm vật không cần thiết và hàng hóa xa xỉ được ưa thích bởi tầng lớp quý tộc Hán và điền chủ. Nhờ nghệ thuật tang chế  mà  mới có được các bài học bổ ích về nghệ thuật sống cũng như các trò tiêu khiển dưới thời đại đó. Tơ lụa được dành cho triều đình, giới quý tộc và các quan chức trong khi vải lanh thì người dân  hay thường dùng và được thấy trong  các bộ trang phục truyền thống và được trang trí  phong phú thêm nhờ các phụ kiện nhầm thể hiện được địa vị  của họ ở  trong xã hội. Tơ lụa đang có sự  phát triển đáng kể vì phẩm vật nầy thuộc về hàng hóa thương mại sang trọng  nhưng nó cũng được sử dụng trong hệ thống cống nạp  cho Hung Nô và các nước chư hầu. Vào năm thứ nhất  trước Công nguyên, việc quyên góp tơ lụa đã đạt đến đỉnh cao với 370 quần áo, 30.000 cuộn lụa và 30.000 chỉ tơ lụa. Các thương nhân lợi dụng các  cuộc trao  đổi nầy để bắt đầu giao dịch sinh lợi với  các người nước ngoài, đặc biệt là với người Parthe và người La Mã. Các xưởng tư nhân cạnh tranh với các  công xưởng của triều đình. Điều này thúc đẩy việc sản xuất tơ lụa và gia tăng sự đa dạng ở trong khu vực. Việc dệt vải cho thấy được  mức độ kỹ thuật cấp cao qua một chiếc áo lụa dài 1,28 thước  và sải cánh 1,90 thước  được tìm thấy  ở lăng mộ của bà Đại chỉ nặng có 49 gam.

Ngoài tấm vải lụa che quan tài của người quá cố và được trang trí bằng các bức vẽ minh họa vũ trụ quan của Lão giáo  còn phát hiện ra các bản thảo Di Kinh viết trên lụa, hai bản sao của Đạo Đức Kinh, hai quyển sách y học và hai văn bản về Âm-Dương, ba bản đồ ở một trong ba ngôi mộ của Mã Vương Đôi, một số được viết bằng chữ lishu (chữ viết của người ghi chép) và xiaozhuan (chữ viết dưới dạng dấu ấn) có niên đại từ thời Hán Cao Tổ, những chữ khác được viết hoàn toàn bằng tiếng lishu có niên đại của thời Hán Vũ Đế. Mặc dù giá rất đắt đỏ, tơ lụa vẫn được ưa chuộng hơn vì dễ tiện dụng hơn, nhẹ hơn và dễ vận chuyển hơn so với các thẻ bằng gỗ. Dưới thời nhà Hán, sơn mài mà  công việc nầy vẫn được xem coi là một nghề thủ công tinh tế, bắt đầu lan tràn vào  các nhà của những người giàu có.

 Noi theo tầng lớp quý tộc của nước Sỡ, họ sử dụng  các chén đĩa gỗ sơn mài, thường có màu đỏ ở mặt trong và màu đen ở mặt ngoài với các hoa văn sơn nổi, những màu này được tương ứng với  các màu của Âm Dương. Cũng tương tự như vậy với các khay và các hộp thì họ dùng để đựng quần áo xếp, đồ vệ sinh cá nhân, các bản thảo, vân vân… Đối với các gia đình quý tộc, ngọc thạch được thay thế bằng sơn mài. Còn đối với các người bình dân, gốm cùng gỗ những vật liệu được trọng dụng ở chén đĩa. Tương tự như các mâm hình tròn hoặc hình chữ nhật riêng lẻ,  các bàn thấp, thường có chân, được sử dụng để phục vụ các bữa ăn với các món ăn, đũa (kuaizi), thìa, cốc  erbei để uống nước và rượu. Về lương thực chính, kê và gạo là những loại ngũ cốc được phổ biến nhất.

Kê được dành cho các ngày lễ ở miền bắc Trung Quốc trong khi gạo, một sản phẩm của vương quốc Sỡ cổ đại, bị hạn chế ở miền nam Trung Quốc vì nó là một sản phẩm xa xỉ. Đối với người nghèo, lúa mì và đậu nành vẫn chiếm ưu thế trong bữa ăn của họ. Đồ ăn Trung Quốc cũng giống như thời Tần. Geng, một loại thịt hầm, vẫn là thức ăn truyền thống của Trung Quốc trong đó  các miếng thịt và rau được trộn với nhau. Tuy nhiên, sau khi bành trướng lãnh thổ và sự xuất hiện và thuần hóa các sản phẩm mới từ các nơi khác của đế chế, những  sáng kiến đổi mới bắt đầu xuất hiện từ từ trong việc sản xuất mì sợi, các thức ăn hấp và  các bánh từ bột mì. Rang, luộc, chiên, hầm và hấp là một số phương pháp nấu ăn được thấy. Chiếu được dùng để ngồi bởi mọi tầng lớp xã hội cho đến cuối triều đại. Chiếu được giữ cố định ở bốn góc bằng những quả cân nhỏ làm bằng đồng và được  tượng trưng qua các con vật đáng yêu: hổ, báo, hươu, cừu, vân vân.. Để giảm bớt sự khó chịu do tư thế quỳ trên gót chân,việc dùng vật dụng dựa lưng hoặc tay vịn bằng gỗ sơn mài rất thông thường.  Chiếu còn được dùng để ngủ bởi những người dân bình thường ở  miền trung và miền nam Trung Hoa. Mặt khác, ở phía bắc Trung Quốc, vì thời tiết quá lạnh, người ta phải dùng đến một cái « kang», một loại giường đất được đắp bằng gạch và trên đó trải chiếu và chăn. Dưới kang này, có một hệ thống đường ống  nước để phân phối hơi nóng  từ lò sưởi được đặt ở bên trong hoặc bên ngoài ngôi nhà.

Giải trí và thú ăn chơi không bị lãng quên dưới thời nhà Hán

Nhờ các văn bản, chúng ta mới biết rằng truyền thống âm nhạc của nước Sỡ giữ một vị trí quan trọng trong triều đình nhà Hán và được tiếp tục yêu chuộng. Theo nhà Hán học người Pháp J.P. Diény, người Hán thích loại âm nhạc bi ai, buồn thảm hơn tất cả các loại nhạc khác. Các chủ đề được yêu chuộng trong các bài hát  thường  là chia ly, trốn tránh và  khoái lạc. Chính ở trong những ngôi mộ cổ kính những tượng hình  nhỏ của  các vũ công (minh khí) mới được phát hiện ra. Thông qua các cử chỉ, những tượng hình này cho thấy khả năng tài ba của  các vũ công khi  múa với các đường lượn bay nhờ qua các  cánh tay áo dài của chiếc váy.

Các điệu múa nầy được dựa trên các chuyển động của quần áo do sự khởi động cơ thể và cánh tay khiến tạo ra cho vũ công kèm theo bài hát đôi khi u sầu, một bức chân dung sống động trong nghệ thuật vũ đạo của người Hán. Đối với họ, theo quan niệm của Nho giáo, gia đình là đơn vị cơ bản của hệ thống xã hội mà việc thờ cúng tổ tiên, các nghi lễ, yến tiệc và hôn nhân được tổ chức thường xuyên nên mang lại rất nhiều cơ hội trong suốt cả năm và lý do để có được âm nhạc làm cho cuộc sống hài hòa. Là biểu tượng của sự uy quyền và sức mạnh nên không thể  thiếu được tiếng chuông đồng. Các công cụ nầy được sử dụng thường xuyên trong các nghi lễ mà còn có ở trong âm nhạc cung đình. Nhờ các cuộc khai quật khảo cổ học, chúng ta  được biết rằng cuộc sống của các hoàng tử nhà Hán nổi bật với các bữa tiệc linh đình, các trò chơi và các buổi hòa nhạc kèm theo các điệu múa. Còn các trò tiêu khiển thì chỉ dành cho nam giới. Liubo (một loại trò chơi cờ vua) là một trong những trò chơi phổ biến nhất thời bấy giờ với trò chơi xúc xắc có tới 18 mặt. Thà chơi còn hơn nhàn rỗi, đây là lời khuyên của Đức Khổng Tử ở trong sách « Văn tuyến », một trong tập tứ thư.

Không giống như khảo cổ học của các thời kỳ trước, khảo cổ học của người Hán cho phép chúng ta tiếp cận lĩnh vực thân mật như việc trang điểm của các phụ nữ. Họ dùng kem che khuyết điểm bằng bột gạo hoặc chì trắng để trang điểm khuôn mặt. Những vết màu đỏ được bôi lên trên gò má, quầng thâm dưới mắt, chấm màu trên môi vân vân… Thời nhà Hán, giáo dục là  việc ưu tiên cho giới trẻ. Từ lúc còn ấu thơ, sự vâng lời, lễ phép và tôn trọng đối với người lớn tuổi đã được dạy dỗ. Lên mười tuổi, cậu bé bắt đầu nhận được những bài học của thầy. Cũng phải học những điều suy ngẫm của Đức Khổng Tử (Luận ngữ), kinh điển về đạo hiếu (Xiao jing) vân vân… trước khi bước vào khoảng mười lăm đến hai mươi tuổi thì đọc Kinh điển.

 
Được xem là thấp kém hơn nam giới, phụ nữ buộc phải học nghề dệt lụa và nấu ăn ngay từ khi còn bé và phải có những đức tính chủ yếu được truyền như dịu dàng, khiêm tốn, tự chủ. Còn phải chịu ba phục tùng (Tam Tòng): lúc nhỏ thì phục tùng cha, lấy chồng phục tùng chồng và khi góa chồng thì phục tùng con. Người phụ nữ có thể lấy chồng vào khoảng 14-15 tuổi để đảm bảo sự nối dõi tông đường. Bất chấp những ràng buộc của Nho giáo, người phụ nữ vẫn tiếp tục có được quyền lực thực sự trong cấu trúc gia đình, đặc biệt là trong mối quan hệ giữa mẹ và con trai. Sự quan tâm đến việc tôn vinh những người đã khuất khiến người Hán, đặc biệt là người Tây Hán, tạo ra những khu chôn cất xa hoa và những kho báu thực sự là những tấm vải liệm ngọc bích để tìm kiếm sự bất tử. Đây là trường hợp  mộ chôn cất cha của Hán Vũ Đế, Hán Cảnh Đế.

Cho đến nay, các nhà khảo cổ học đã khai quật được hơn 40.000  hiện vật ở xung quanh gò chôn cất của hoàng đế. Người ta dự đoán toàn bộ khu tang lễ này sẽ cung cấp khoảng 300.000 đến 500.000 hiện vật vì ngoài phần mộ còn có hai huyệt riêng biệt để khám phá, đó là huyệt của hoàng hậu và người thiếp yêu thích của hoàng đế Hán Cảnh Đế. Theo một nhà khảo cổ Trung Quốc phụ trách cuộc khai quật này, điều quan trọng không phải là số lượng hiện vật được phát hiện mà là tầm quan trọng của mỗi hiện vật phát hiện được tìm thấy ở trong khu mộ táng này. Người ta đựợc  dẫn đến kết luận rằng nhà Tây Hán rất trân trọng các ngôi mộ hoành tráng mặc dù qua sự tiết lộ của các cuộc khai quật,  các  đồ vật rất nhỏ hơn nhiều so với các đồ vật tìm thấy ở trong các lăng mộ nhà Tần. [RETOUR]

Niên đại Tây Hán (Còn tiếp)