Con số Âm Dương của người Việt ( Les nombres Yin et Yang des Vietnamiens)

 

Version française

Version anglaise

Con số Âm Dương  của người Việt

Người Việt  thường nói : sống chết đều có số cả . Ði buôn có số, ăn cỗ có phần. Trong cuộc sống hằng ngày, mặc quần áo hay mang giày cũng có kích thước. Khác hẳn người Hoa thích số chẵn (hay số Dương), người dân Viêt thường dùng số lẻ thay vì số dương đấy. Bởi vậy  thường thấy trong thành ngữ hay tục ngữ Việt  có sự trọng dụng số lẻ như sau : ba mặt một lời, ba hồn bảy vía, Ba chìm bảy nổi chín lênh đênh, năm thê bảy thiếp,  năm lần bảy lượt, năm cha ba mẹ, ba chóp bảy nhoáng, Môt lời nói dối , sám hối  7  ngày, Một câu nhịn chín câu lành  vân vân …hay là những con số tăng lên nhiều lần từ số 9 mà ra chẳng hạn : 18 (9×2) đời Hùng Vương,  27 (9×3) đại tang 3 năm ( 27 tháng), 36 (9×4) phố phường Hànội  vân vân. Cũng đừng quên rằng người Việt rất  xem trọng con số 5 và số 9 vì hai con số lẻ  nầy  có một vai trò rất quan trọng. Con số 5 là con số thần bí nhất vì tất cả đều khởi đầu từ  con số 5 nầy ra cả. Trời Đất có được vạn vật phát sinh từ 5 yếu tố cơ bản qua 5 trạng thái:  Mộc, Hỏa, Thổ, KimThủy mà thường gọi là ngũ hành.

Lạc Thư Hà Đồ

Con số 5 được đặt ở  trung tâm  của Lạc Thư Hà Đồ, hai bức  đồ nguồn góc của sự biến đổi và vận hành của Âm Dương  Ngũ Hành. « Đất »  là  yếu tố  đuợc gắn liền với   con số 5 và từ   ở trung tâm đất  mà ra,   người nông mới tìm thấy  ra được các phương hướng chủ yếu.  Chính nhờ vậy mà  ở  trung tâm  con người mới quản lý  được vạn vật vạn loại cùng 4 phương trời. Bởi vậy ở trong xã hội phong kiến, vị trí nầy thường dành cho vua. Chính vua là người cai trị quần chúng. Vì thế con số 5 thuộc về sơ hữu  của vua cũng như màu vàng riêng tư, màu biểu tượng của Đất. Bởi vậy các vua chúa ở thời đại phong kiến (Việtnam và Trung Hoa) thường chọn màu nầy cho y phục.  

Ngoài vị trí trung tâm mà con người giữ, mỗi con vật được gắn liền  với mỗi phương: qui với phương bắc, phụng thì phương nam, còn phương  đông dành cho rồng (hay long) và sau cùng phương tây với hổ (cọp). Cũng không có gì ngạc nhiên trong bốn con vật nầy đã có 3 con sống ở vùng nước mà đời sống nông nghiệp là chính. Đó là vùng đất của đại tộc Bách Việt. Luôn cả con rồng thường hung hăng dữ tợn trong các nền văn hóa khác thì nó rất hiền lành dễ thương qua trí tưởng tượng của những bộ tộc hiền hòa Bách Việt. Con số 5 thường được gọi là « Tham Thiên Lưỡng Địa«  (hay là  ba Trời hai Ðất ) trong thuyết  Âm Dương. Với tỷ lệ chí lí   về sự tương xứng  của Âm và Dương , có được nó  từ sự tập hợp của con số 3 và con số 2  hơn là đến từ con số 4 và con số 1 vì với hai con số  nầy , thì nhận thấy con số dương 1 hoàn toàn bị số âm  4 lấn áp và chiếm ưu thế. Còn ngược lại với  con số 2 và và số 3 thì sự  chiếm ưu thế của con số 3 không nhiều chi cho mấy cho nên sự vận động của  vũ trụ  có vẻ hài hoà hơn và gần như hoàn chỉnh. Thưở xưa, ngày thứ năm, ngày 14 (1+4) hay ngày 23 (2+3)  trong tháng là những ngày dành cho vua xuất hành. Cũng là những lúc  không được buôn bán khi vua đi dạo. Chính vì thế người dân Việt hôm nay vẫn còn kiêng cữ  những ngày đó, theo tục lệ dân gian ông bà, việc xây cất  nhà cửa, đi buôn hay đi xa. Bởi vậy người ta thường nghe  nói: 

Chớ đi ngày bảy chớ về ngày  ba
Mồng năm, mười bốn hai ba
Đi chơi cũng lỗ nữa là đi buôn
Mồng năm mười bốn hai ba
Trồng cây cây đỗ, làm nhà nhà xiêu

Con số 5 thường được nhắc đến nhiều trong ẩm thực của người Việt. Nước mắm là loại gia vị phổ biến nhất của người Việt. Trong việc chế biến pha làm nước mắm  dùng thì người ta nhận thấy có sự hiện diện cuả ngũ vị được sắp xếp theo ngũ hành: mặn với nước mắm từ chất muối ra, đắng  từ vỏ chanh,  chua  từ nước chanh hay nước dấm, cay với ớt  thái  khoanh nhỏ và  ngọt với  đường bột. Ngũ vị nầy     mặn, đắng, chua, cay, ngọt  tìm thấy  ở trong nước mắm  phù hợp với  ngũ hành của lý thuyết Âm Dương  ( Thủy , Hỏa , Mộc , Kim Thổ ). Cũng như canh chua  cá của người Nam Bộ cũng có ngũ vị như sau:  chua với me hay dấm, ngọt với những lát khớm hay thơm,  cay với ớt tươi ,  mặn với nước mắm và đắng với đậu bắp  hay bông so đũa.  Truớc khi dùng, người ta thêm vài loại rau thơm như ngò gai, rau om. Đây là đặc tính món canh chua của người Nam Bộ khác biệt với những món canh chua ở các vùng khác của Việtnam.

Chúng ta cũng không quên nhắc bánh chưng mà chúng ta thường đựợc ăn trong  những ngày Tết. Đây là món quà qúi báu  mà tổ tiên ta truyền lại cho dân tộc  qua nhiều thiên kỷ. Đây cũng là bằng chứng cụ thể nói lên lý thuyết Âm Dương ngũ hành thuộc về của đại tộc Bách Việt  (mà trong đó có bộ tộc Lạc Việt) chớ không phải của Hán tộc vì trong công thức làm bánh chưng thì có  quy luật ngũ hành tương sinh như sau:

 Hỏa sinh Thổ
 Thổ sinh Kim.

 Kim  sinh Thủy
 Thủy sinh Mộc
 Mộc sinh Hỏa

Chính giữa của bánh chưng lúc nào cũng có nhân thịt màu đỏ cả (Hỏa) rồi sau đó  nhân được bao kín xung quanh với đậu xanh lột vỏ nấu  chín màu vàng  tượng trưng cho Đất . Kế đó  đổ thêm một lớp gạo trắng  phía trên phần nhân tượng trưng cho Kim rồi đi  hấp với nước sôi (Thủy) để sau cùng bánh nó được chín và nhuộm  màu xanh của lá dừa (tượng trưng cho Mộc hay cây).

Có một loại bánh mà người dân Việt không thể thiếu trong lễ cưới. Đó là bánh xu xê hay phu thê. Bánh nầy có hình tròn ở trong nhưng được gói với lá chuối  bên ngoài với  hình khối của nó màu xanh và buột  với  dây băng màu đỏ. Như vậy cho  thấy Dương (hỉnh tròn của bánh) nằm trọn trong Âm qua hình khối. Bánh nầy thường làm với bột bán, thơm mùi lá dứa và có vừng màu đen. Giữa bánh thường  có nhân đậu xanh hấp chín (màu vàng)  trộn chung với  mứt dừa được nạo nhỏ và hạt sen (màu trắng) tựa như kem mà thường thấy trong bánh của  các vua (hay galette des rois). Tính chất  bột của bánh  rất dính  nói lên đây dây tơ hồng buộc chặt vợ chồng. Bánh nầy biểu tượng tình yêu hoàn hảo,  keo sơn bền vững và  son sắt  phù hợp với Trời Đất và ngũ hành qua 5 màu sắc (xanh, đỏ, đen, vàng và trắng).

Từ ngày chàng bước xuống ghe
Sóng bao nhiêu đợt bánh phu thê rầu bấy nhiêu.

      Lầu Ngũ Phụng

 

 

 

 

 

 

Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Một lầu vàng, tám lầu xanh, ba cửa thẳng, hai cửa quanh

Bên đông và bên tây cửa thành có hai cửa thường được  gọi là Hiển Đức Môn và Hiền Nhân Môn thì dành cho các ông và phụ nữ.

Còn con số 9 là con số dương (hoăc số lẻ). Nó tượng trưng cho quyền lực của khí dương ở tột  đĩnh khó mà ai đạt được lắm. Bởi vậy hoàng đế thường dùng nó để biểu dương   quyền lực. Hoàng đế thường bước lên chín bậc nơi mà có ngai vàng để ngự trị . Nghe nói Tử Cấm Thành ở Huế  cũng như ở Bắc Kinh có đến 9999 căn phòng.  Cũng nên nhắc lại người xây cất Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh là người Việtnam, ông Nguyễn An bị lưu đày từ thưở nhỏ vào  thời nhà Minh.  Hoàng đế cũng như tất cả cung điện đều hướng về phía nam nơi có  khí dương, để có  thể thụ hưởng được sinh khí của mặt trời nhất là hoàng đế là con của Trời. 

Ở Huế, có chín cái đỉnh bằng đồng, đặt ở trước sân Thế miếu trong hoàng thành Huế. Số 9 còn thấy qua như 9 mái  nhà của lầu  Ngũ phụng, 9 khẩu thần công (hay là Cửu vị thần công) xưa đặt  trước Ngọ Môn nay dời về vị trí hiện nay hay là 9 nhánh của sông Cửu Long vân vân…Qua chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh, nhớ lại trong sính lể mà vua Hùng Vương thứ 18 (2×9) đưa ra những điều kiện  để có thể cưới được công chúa Mị Nương thì phải có voi 9 ngà, gà chín cựa, ngựa 9 hồng mao.   Con số 9 nầy còn  tượng trưng Trời mà  ngày sinh của Trời là ngày thứ chín của tháng hai.  

Tuy không bằng sô 5 và số 9 nhưng con   số 3 cũng được trọng dụng thông thường trong đời sống dân Việt qua những thành ngữ chẳng hạn, muốn nói đến một  giới hạn hay mức độ nào không thể vượt qua thì người Việt thường có thói quen nói:

Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời.

Nhất quá Tam. (Tối đa là 3 lần trở lại)

Uốn Ba tấc lưỡi  (đắn đo trước khi nói)  , Ba trợn (trợn quá mức) , Ba phải (kẻ xu thời quá mức ) , Ba đá (thiếu trách nhiệm quá mức) vân vân …

Số 3 còn dùng để ám chỉ một việc gì hay số lượng dùng  không quan trọng:

Ăn sơ sài ba hột, Ăn ba miếng, Sách ba xu,   Ba món ăn chơi vân vân

Con số 3  cũng như con số 7  thường được nói đến rất nhiều trong văn chương Việt Nam. Thành ngữ  « Bảy nổi ba chìm với nước non » mà Hồ Xuân Hương dùng trong bài thơ: « Bánh trôi nước »:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nỗi ba chìm với nước non…

 nói lên những nỗi  gian truân của phụ nữ thời đó sống ở trong một xã hội phong kiến Khổng giáo hay là

Ba hồi trống giục đù cha kiếp
Một nhát gươm đưa, đéo mẹ đời.

đây là những lời cuối của  Cao Bá Quát, một thi sỹ lỗi lạc nhưng vì có tinh thần độc lâp, yêu chuông công bình và tự do mà bị giết trong cuộc khởi nghĩa (giặc Châu Chấu) chống triều Nguyễn dưới thời vua Tư Đức.

Nếu lý thuyết  Âm Dương Ngũ Hành vẫn tiếp tục ám ảnh  người dân Việt bởi tính cách thần bí và khó hiểu của nó nhưng   nó  lúc nào cũng  là một cách suy nghĩ và một lối sống mà phần đông người dân Việt quen giữ  thường ngày  để  thực hành    những việc  thông thường trong cuộc sống và tôn trọng truyền thống của tổ tiên.

[Trở về Âm Dương trong đời sống của người dân Việt]


Bibliographie

-Xu Zhao Long : Chôkô bunmei no hakken, Chûgoku kodai no nazo in semaru (Découverte de la civilisation du Yanzi. A la recherche des mystères de l’antiquité chinoise, Tokyo, Kadokawa-shoten 1998).
-Yasuda Yoshinori : Taiga bunmei no tanjô, Chôkô bunmei no tankyû (Naissance des civilisations des grands fleuves. Recherche sur la civilisation du Yanzi), Tôkyô, Kadokawa-shoten, 2000).
-Richard Wilhelm : Histoire de la civilisation chinoise 1931
-Nguyên Nguyên: Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương
– Léonard Rousseau: La première conquête chinoise des pays annamites (IIIe siècle avant notre ère). BEFO, année 1923, Vol 23, no 1
-Paul Pozner : Le problème des chroniques vietnamiennes., origines et influences étrangères. BEFO, année 1980, vol 67, no 67, p 275-302
-Dich Quốc Tã : Văn Học sữ Trung Quốc, traduit en vietnamien par Hoàng Minh Ðức 1975.
-Norman Jerry- Mei tsulin (1976) : The Austro asiatic in south China : some lexical evidence, Monumenta Serica 32 :274-301
-Henri Maspero : Chine Antique : 1927.
-Jacques Lemoine : Mythes d’origine, mythes d’identification. L’homme 101, paris, 1987 XXVII pp 58-85
-Fung Yu Lan: A History of Chinese Philosophy ( traduction vietnamienne Đại cương triết học sử Trung Quốc” (SG, 1968).68, tr. 140-151)).
-Alain Thote: Origine et premiers développements de l’épée en Chine.
-Cung Ðình Thanh: Trống đồng Ðồng Sơn : Sự tranh luận về chủ quyền trống
đồng giữa h ọc giã Việt và Hoa.Tập San Tư Tưởng Tháng 3 năm 2002 số 18.
-Brigitte Baptandier : En guise d’introduction. Chine et anthropologie. Ateliers 24 (2001). Journée d’étude de l’APRAS sur les ethnologies régionales à Paris en 1993.
-Nguyễn Từ Thức : Tãn Mạn về Âm Dương, chẳn lẻ (www.anviettoancau.net)
-Trần Ngọc Thêm: Tìm về bản sắc văn hóa Việt-Nam. NXB : Tp Hồ Chí Minh Tp HCM 2001.
-Nguyễn Xuân Quang: Bản sắc văn hóa việt qua ngôn ngữ việt (www.dunglac.org)
-Georges Condominas : La guérilla viêt. Trait culturel majeur et pérenne de l’espace social vietnamien, L’Homme 2002/4, N° 164, p. 17-36.
-Louis Bezacier: Sur la datation d’une représentation primitive de la charrue. (BEFO, année 1967, volume 53, pages 551-556)
-Ballinger S.W. & all: Southeast Asian mitochondrial DNA Analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migration, Genetics 1992 vol 130 p.139-152....
 

Hoa Sen (Lotus)

lotus

English version

Version française
 

Không có cây thủy sinh nào được người Việt  ngưỡng mộ và  qúi  trọng bằng cây hay hoa sen. Ngoài biểu tượng của Phật Giáo, Sen còn đồng nghĩa với  sự tinh khiết ,  thanh thản và vẻ đẹp nữa. Nó còn khác biệt hơn những cây thủy sinh khác không những   nhờ  vẻ đẹp đơn sơ thanh nhã của hoa mà còn được nhắc nhở  nói đến rất nhiều  trong phong phú  truyền thống ở Á Châu nhất là ở Việt Nam. Nơi nầy,  Sen được liệt kê  vào  4 cây cao qúy nhất đó là  mai , liên , cúc và  trúc  biểu tượng  cho bốn mùa ( tứ thì) đấy. 

Nhìn lại trong nghệ thuật của người Việt, phong cảnh thường đựợc  dàn dựng  theo một sơ đồ bất di bất dịch  và cổ điển mà  thường  có sự xác định cần  thiết để trước  những yếu tố  nào, nhất là các nhân vật  trong cảnh tượng. Cho nên thường thấy một tương quan nghệ thuật độc đáo, một kết hợp bền vững giữa một loại cây và một loại vật  trong các bức tranh nho nhỏ của người Việt. Vì vậy thường thấy   sen  liên kết  với vịt (Liên Áp). Ít khi thấy sen liên kết với con vật  nào khác chỉ trừ khi nào tác giả không còn  tôn trọng những quy ước cổ điển nữa.    Với hoa , sen thường được người Việt gọi    là Hoa Sen hay là Liên Hoa.   Sen nó thuộc họ  Nymphéacées và có tên khoa học là   Nelumbo Nucifera hay là  Nelumbium Speciosum.  Nơi nào ở Việt Nam cũng tìm thấy Sen cả (  đầm, ao bùn,  vườn công cộng, đình vân vân…). Sự hiện diện của nó  ở chùa hay ở đền  làm giảm  đi nhuệ khí sân si dục vọng  của các tu sĩ và làm người khách cảm thấy lòng lân lân thả  hồn về cõi hư vô,  ấy cũng nhờ mùi    hương thơm nhẹ nhàng của  hoa sen. Nó sống rất   dễ dàng    và  thích nghi ở mọi môi trường.   Nó còn  sinh sôi nảy nở với cuộc sống dưới nước  bằng cách chọn lọc đi tất cả nước  đọng    ô uế mà nó  xâm nhập . Vì vậy  thường ví  nó  như   người có đức tính trong đạo Khổng (junzi)(quân tử).   Người nầy, dù ở môi trường nào đi nữa  vẫn không thay đổi  bản  chất  thanh cao  trong cuộc sống, vẫn giữ  đựợc sự  thuần khiết    giữa chốn đầy dẫy tham nhũng.  Người nầy cũng không để bị lôi cuốn  cám dỗ bởi  những tật xấu của xã hội cũng như sen không bi mùi hôi thúi ờ chốn bùn nhờ mùi hương thơm của hoa.  Bởi vậy trong  thơ ca của người Việt có môt bài đề cao đức tính của người quân tử dựa trên hình ảnh của cây Sen:    

Ðố ai mà ví như sen?
Chung quanh cành trắng, giữa chen nhị vàng
Nhị vàng cành trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

 

 

 

Để ca ngợi đức tính nầy của người quân tử hay của Sen, người ta thường nói : Cư trần bất nhiễm trần. Sen có nhiều đức tính khác nên lúc nào cũng được đứng đầu trong các loại cây qúi trọng của người dân Việt và Trung Hoa. Chính Sen đem lai nguồn  cảm  hứng cho các tu sĩ của một phái thiền Phật giáo Trung Hoa tên là « Pháp Hoa Tông »  dưới đời nhà Đường.  Dựa trên lý thuyết  của kinh   « Diệu Pháp Liên Hoa » , dòng nầy chỉ lấy đức tính của Sen để tu luyện.  Trong phái nầy, thời đó có nhiều hòa thượng thi sĩ nổi tiếng như Phong Cang và Thập Đắc không thua chi  Lý Thái Bạch (1)  và  Bạch Cư Dị (2) .  Trụ sở của phái nầy là chùa Hàn Sơn nằm ở vùng lân cận của thành phố Cô Tô  (Hàng Châu) chỉ chuyên trồng Sen trong các hồ.  Phái nầy  họ nghĩ rằng muốn đựợc an lạc trong tâm hồn và tránh đi sự luân hồi và  dục vọng thèm muốn thì cần áp dụng  lý thuyết  « Diệu Pháp Liên Hoa » dựa trên các đức tính của Sen như sau:

vô ưu : mùi thơm của hoa sen khi có dịp ngử nó vào thì sẻ thấy  sự thanh thản và yên tĩnh.  Theo các người xưa, Sen còn là một loại cây chóng tăng dục cũng như rau diếp.

tùy thuận: Sen có thể sống  ở bất cứ nơi nào luôn cả những nơi khô cạn cằn cỗi.

tỏa mùi thơm: (Cư trần bất nhiễm trần) Dù nơi nào có hôi thúi , Sen cũng vẫn lấn áp  thay thế bẳng mùi hương thơm của nó,  có thể  tăng trưởng tuỳ theo cường  độ của ánh sáng trong ngày.

vô cấu: trên cơ sở sinh sản. Sen có một cơ  chế cá   biệt cho   việc sinh sản thực vật. Không có sự thành hình của giao tử như các loại hoa khác. Hoa sen không những  xuất sắc về kích thước mà còn về trạng thái  dày và vàng sáp của các cánh hoa và nhất là  hương thơm của nó có thể  tăng trưởng thay đổi trong ngày. Hoa sen chỉ sống được 4 ngày. Người Nhật diển tã sự chớm nở của hoa sen như sau: ngày đầu  hoa sen có hình dáng của chai saké, ngày thứ nhì  bằng chén saké, ngày  thứ ba bẳng chén súp và ngaỳ thứ tư thì thành  cái đĩa. Dần dần quả của nó tựu hình, tựa như cái côn lật ngửa mà thường gọi là gương sen. Trên mặt bằng phẳng nầy  thì có chừng hai chục trũng chứa  những hạt nhận. Rồi sau đó   khi quả nó chín, nó tách rời cuống, nổi lềnh bềnh   và tan rã một  khi gương sen  đụng chạm với mặt nước qua ngày tháng.  Nhờ vậy các hạt nhân nó theo dòng  nước mà trôi xa hơn nơi  mà Sen nảy nở. Những hạt sen nầy  nặng hơn nước nên  chìm lún vào đất và đâm chồi mọc rễ. Hoa sen khi tượng hình đã có hạt từ trong mầm non. Bởi vậy ngưởi Việt thường nói « nhân quả đồng hành » khi nhắc đến Sen đấy. Đức Phật cũng thường dùng hoa Sen, để nói đến những người thoát khỏi ái tình và dục vọng  vì chính ái dục là nguồn gốc của mọi tội lỗi khổ đau (duhkha) và luân hồi sinh tử.

Để ca tụng đức tính của Sen qua những lời giảng dạy của Đức Phật (3), thiền sư Minh Lương thuộc phái Lâm Tế có làm một bài kệ như sau:

Ngọc quí ẩn trong đá
Hoa Sen mọc từ bùn
Nên chỗ biết sanh tử
Ngộ vốn thiệt bồ đề

 Sen được trông thấy nhiều trong nghệ thuật của người Việt, nhất là ở trong kiến trúc của Phật giáo.   Để nhận dạng cây sen  mô típ trong kỹ thuật trang trí thường có 8 cánh hoa chỉ định 8 hướng chủ yếu và biểu hiện lại đồ hình Mandala, một dạng hình học và biểu tượng của vũ tru Phật giáo. Còn trong ngành  y dược Việtnam thì hạt sen dùng để trị bệnh tiêu chảy, kiết lỵ và mộng tinh. Các hạt sen khi ăn nhiều và ăn sống,  thường   được xem như thuốc chữa bệnh mất ngủ. Người dùng sẻ ngủ trong giây lát nếu ăn luôn cái mầm xanh ở giữa hạt sen. Thưở xưa, ở Việtnam, các cậu trai muốn tỏ tình yêu thương các cô gái thường tặng hoa sen. Trong các lễ truyền thống của người Việt  nhất là những ngày Tết , không bao giờ có thể thiếu được  mứt hạt  sen và trà ướp sen cả.  Còn ẩm thưc  thì những người  sành điệu ăn uống ai cũng biết món gỏi ngó sen.

Đất nước Việt Nam đã bị  chìm đắm triền miên trong  chiến tranh, tham nhũng và bất công. Người Việt yêu chuộng hòa bình, công bằng và tự do lúc nào cũng nuôi hy vọng không ngừng,  sẻ có một ngày đất nước  được có lại sự thanh thản, huy hoàng và kính nể cũng như hình ảnh của cây Sen. Trong bải thơ tựa đề  « Hoa Sen », vua Lê Thánh Tôn   ngư trị một thời  hoàng kim mà Việt Nam lúc đó đang ở trên đỉnh cao của vinh quang, không ngớt lời khen ngợi vẻ đẹp  duyên dáng của Sen:

Nỏn nà sắc nước nhờ duyên nước
Ngào ngạt hương thơm nức dặm Trời ..


  • (1) Lý Bạch, một trong những thi sĩ danh tiếng nhất dưới thời của vua Đuờng Huyền Tông  (701-762).
  • (2) Thi sĩ lỗi lạc đời nhà Đường (772-846)
  • (3) Siddhârta Gautama (Cồ Ðàm Tất Ðạt Ða).

 

Tôi là người Vietnam (Être Vietnamien)

Version française

English version

Niềm tự hào tôi là người Việtnam

Theo các nguồn tin khảo cổ học được biết đến hôm nay, người Việt Nam có thể xuất phát từ nhóm Thái-Việt. Một số nhà sử học vẫn tiếp tục nhận thấy ở nơi những người Việt nầy, không những là những người nhập cư thuộc chủng  Nam Á đến từ miền nam Trung Quốc (dân Bách Việt) và định cư tại vùng đồng bằng sông Hồng qua nhiều thế kỷ trước công nguyên mà còn là những người báo hiệu của nền văn minh Trung Hoa. Vì tăng trưởng dân số trong cuộc hành trình nam tiến, họ càn quét tất cả các nền văn minh rực rỡ mà chúng ta được biết cho đến nay trên bán đảo Đông Dương (Ðồng Sơn hay Chămpa). Còn những người khác còn lại, họ tin rằng người Việt Nam là kết quả đến từ sự hợp nhất giữa các dân tộc có mặt từ lâu  ở lưu vực sông Hồng trong đó cần phải nhắc đến là người Hmong, ngừời  Hoa, người Thái và người Đồng Sơn.

Dựa vào sử tích dưa hấu có vào thời điểm của các vua Hùng, một bằng chứng cụ thể nói lên sự xuất hiện của người nước ngoài không cùng chũng tộc, đã có mang đến Việt Nam qua đường biển các hạt giống (thế kỷ thứ ba trước Công nguyên) và  qua các cuộc khai quật khảo cổ xác nhận sự tồn tại của vương quốc Nam Viêt (hay Nan Yue), người dân Việt tin rằng họ xuất phát từ dân Bách Việt với gốc  của chũng cổ Mã Lai (Indonésien) nhờ qua người Đồng Sơn. Một nơi biểu lộ sự sống động nhất của tâm hồn dân tộc Việt đó là ngôi đình làng, trông lại nó không khác chi hình nhà khắc ở trên trống đồng Đông Sơn. Niềm tin này có vẻ thuyết phục bởi vì  người ta đã tìm thấy được ở nơi các bộ tộc cổ Mã Lai: ăn trầu, xăm mình và nhuộm răng,  những đặc tính kinh ngạc mà người dân Việt đã có từ thưở trước.

Ngoại trừ vài người Pháp như ông Henri Oger đã khám phá, nhận thấy được  ở trong xã hội Viêt Nam một nền văn hóa giàu có cả nghìn năm về truyền thống và tập quán, người ta vẫn còn lầm lẫn kì lạ và nghĩ rằng là văn hóa Việtnam là một bản sao chép lại của nền văn hóa Trung Hoa. Người ta cứ chê trách người dân Việt không có một nền văn hóa xứng đáng giàu có như các nền văn hóa tìm thấy ở trên bán đảo Đông Dương (như Chămpa và Chân Lạp)  qua các đền thờ ở Mỹ Sơn và Angkor.  Đấy là do thiếu sự hiểu biết  đáng tiếc  vì muốn biết sự giàu có ở trong nền văn hóa Việt thì nên cần  thiết quan tâm nhiều  đến lịch sử và văn chương hơn là nghệ thuật.

Làm thế nào họ có thể có một nghệ thuật phi thường và độc đáo khi họ vẫn còn vùi thân đấu tranh không ngừng với sự khắc nghiệt của thiên nhiên và khi Bắc Bộ không phải một nơi giàu có về tài nguyên. Ý là chưa nói đến việc hán hóa áp đặt trong suốt nghìn năm dưới sự thống trị của người Hoa. Mặc dù vậy, người dân Việt đã thể hiện bao nhiêu lần qua kỹ thuật, sự khéo léo và trí tưởng tượng. Chính nhờ vậy một số sản phẩm Việt (đặc biệt là gốm  sứ cổ) được chiếm một cương vị đáng kể trong nghệ thuật tỉnh của Trung Hoa vào thời đó.

Để cố gìn giữ truyền thống và duy trì văn hóa, người dân Việt tự tìm cho mình một  lối thoát  qua cuộc đấu tranh triền miên. Nhờ tín ngữơng tôn giáo và môi trường gần như khắc nghiệt ngay từ đầu, người dân Việt vốn có ở nơi họ một khả năng kháng cự đáng kể trước sự đau khổ về tinh thần và thể chất. Khả năng đó nó đã trở thành trong những năm qua, một trong những sức mạnh để họ có thể dành thắng lợi qua các cuộc xâm lược từ ngoài đến. Cũng nhờ sự vất vã, kiên trì và lòng hy sinh trong cuộc sống, người dân Việt kiềm chế được sự phẩn nộ và sự thay đổi thất thường của sông Hồng. Họ còn đẩy lui được nhiều lần người Trung Hoa ra khỏi bờ cõi và vượt được dãy núi Trường Sơn vào thế kỷ 18 trong cuộc Nam tiến. Dân tộc Chămpa là nạn nhân đầu tiên, tiếp theo đó là dân tộc Khờ Me trong cuộc xung đột lâu dài nầy. Người ta có thể trách móc sự tàn ác của người dân Việt đối với các dân tộc khác nhưng người ta không được quên rằng người dân Việt đã chiến đấu không ngừng kể từ khi lập nước, để bảo vệ sự sống còn và bảo tồn truyền thống của dân tộc mà thôi.

Người dân Việt đã bị thiệt thòi từ thưở nào vỉ  gần gũi địa lý với Trung Quốc. Để ngăn chặn sự di chuyển của người Mông Cổ của Hốt Tất Liệt (Kubilai Khan) trong cuộc chinh phục xứ Chămpa, người dân Việt đã bị hai lần xâm lược vào năm 1257 và 1287. Để tìm đường thương mại với Trung Quốc, chính quyền Pháp nghĩ rẳng sẻ mựợn đường lúc đầu nhờ sông Cửu Long (Mékong) rồi sau đó sông Hồng Hà để có thế đến Vân Nam. Vì vậy họ gởi  sang Đông Dương ông Doudart Lagrée tiếp theo sau đó ông Francis Garnier để hoàn thành sứ mệnh. Chính vì vậy chính quyền Pháp mới quan tâm nhiều đến vùng Bắc Bộ và can thiệp quân sự vài năm sau đó.

Sau chiến tranh Triều Tiên, để chống lại sự bành trướng của Trung Cộng, người dân Việt bị cưởng bức qua nhiều thập niên trong cuộc xung đột giữa hai khối Đông và Tây Âu. Cũng để ngăn trở đường lối chinh tri của Bắc Kinh ở Cao Miên, người dân Việt nhận được một hình phạt qua sự xâm lược chóp nhoán của Trung Cộng vào tháng 2 năm 1980 ở biên thùy Lạng Sơn trong vòng một tháng.

Nếu người dân Việt không có lưu giữ truyền thống độc lập, không có mãnh lực bảo tồn bản sắc dân tộc và cá tính mạnh mẽ thì họ có thể không còn có mặt ở trên bán đảo Đông Dương từ lâu vì về phương diện đia lý và văn hóa, họ rất gần gũi với người Trung Hoa nhất là các người nầy có một nền văn minh khó so sánh và rực rở từ 4000 năm. Việt Nam chắc chắn sẽ trở thành ngày nay một tỉnh lỵ  của Trung Quốc và một hiện thân tầm thường của nền văn minh Trung Hoa.

Dành cho những ai đã từng biết lịch sử Viêt Nam, đã làm người dân Việt thì không bao giờ được sống bình yên cả dù nguời dân Việt trong thâm tâm họ thèm muốn lắm. Đựợc uốn nắn lớn lên với đất phù sa của đồng bằng sông Hồng, lúc nào cũng chống chọi triền miên với các cơn thịnh nộ của sông Hồng, không ngừng dừng bước trong công cuộc nam tiến qua bao nhiêu lần chinh chiến, bị đồng hóa và thống trị lâu dài nhất của người Trung Hoa, còn chưa nói đến một trăm năm đô hộ của chính quyền Pháp và 20 năm bị miễn cưởng trở thành mục tiêu của cuộc tranh chấp của hai khối Đông và Tây Âu và nạn nhân của chiến tranh lạnh, người dân Việt không bao giờ nản lòng trước những khó khăn trọng đại nầy.

Nhờ đó, người dân Việt càng thiện chiến hơn, càng thêm kiên trì, cứng rắng, giữ vững lòng tin ở quan điểm chính trị của mình và càng có khả năng để đối mặt với các cuộc chạm trán khó khăn nầy. Sự gắn bó sâu đậm và mật thiết của họ với đất nuớc và truyền thống khiến họ không nhận nhường trong cuộc đấu tranh. Đối với một số người, họ là những kẻ xâm lăng nhẫn tâm và đáng sợ nhưng cũng có một số người khác xem họ như là những kẻ bảo vệ chính đáng trong cuộc dành tự do và độc lập quốc gia.

Dù có thể nào đi nữa, người dân Việt rẩt hảnh diện trong việc thay thế ông cha để bảo vệ kiên cường đất nước của tổ tiên, sự sống còn của dân tộc và xứng đáng là con Rồng cháu Tiên. Chết vì đất nước không phải chuyện ngoài lệ với tâm tính và truyền thống của ngừời dân Việt. Đấy mới là số mệnh quá cao thượng, xứng đáng mà bao nhiêu người dân Việt tựa như Trần Bình Trong, Nguyễn Thái Học, Phó Ðức Chính, Nguyễn Trung Trực, Trần Cao Vân vân vân … can đảm lãnh  nhận trên mãnh đất huyển thoại nầy

Tôi là người Vietnam

thì phải có khả năng kháng cự lại trước hết việc đồng hóa hay là tư tưởng ngoại bang và hảnh diện có mang ở trong tĩnh mạch dòng máu của con Rồng.

Soil-Water (Đất Nước)

 

dat_nuoc

French and Vietnamese versions
As long as we have the Sky and the Earth, we continue to exist.
But the day where the fatherland no more exists, our life will have no sense  

Water is omnipresent in Vietnam. Water is such in osmosis with the soil and perhaps because of that the two words Ðất-Nước (Soil-Water) are often used to indicate this country. It is also here that we firmly believe we are the descendants of the Dragon king, Lạc Long Quân, coming from the Waters, and of the fairy Âu Cơ of terrestrial origin. We can say it is here that water and land unite to give birth to a people. It is also here that are found in ancient tombs amulets bearing iconographic representation of the Dragon, a mythical animal with a pig’s head and a snake’s body, a hyphen between Land and Water because the pig indicates the wealth of peasants, symbol of the Land and the snake is related  to the Water.

dat_nuoc

Đất Nước

The history of Vietnam is also simply that of water. Water may become fatal because it can leave its bed to absorb harvests and whole villages. To attenuate his anger and his aggressiveness, one does not cease building dams, clogging breaches, raising ramparts, digging channels. It is it that has kneaded the thick identity of the Vietnamese people and forged this heart. It is also nourishing because it is it which fertilizes the soil and makes rice grow. But it is it which is accomplice of the Vietnamese people many times in overcoming foreign aggressors. Here, water has a thousand faces, as well as many colors and odors: tumultuous and unpredictable in the Red River with alluvium in brick color, marine and turquoise along the coasts in particular at Cà Ná, calm in Nha Trang, unchained and hemmed large waves with Ðà Nẵng, stagnated with an amber color in rice paddies and dying between the roots of palm trees in the arroyos of the Mekong Delta.
This water is found everywhere even in remote corners of Vietnam. After some monsoons, a basin left outside, a broken earthenware jar, a ditch at the edge of the road may hold it and thus become an aquarium for a biology laboratory, a water fragment for the breeding of the tadpoles or a mini-pond where lotus flowers bloom. It is also at the entrance of the villages that one finds stagnant water in ponds, covered again with water lentils and water weeds, companions of the pauper’s bowl of rice.
Water is also synonymous with fatherland. That is why the last emperor Duy Tân, brought to the throne at the age of 8 and later exiled by colonial authorities used this signification to reveal his state of mind. One day, coming back from a walk at the sea, his hands were so dirty that an old servant asked him to wash them in a basin filled with water.
The emperor asked him the following question: If the hands are dirty they can be washed with water. But if the water is « soiled », what can we clean it with? Emperor Duy Tân wanted to say if the fatherland is « humiliated », with what it could be washed off this outrage?.
This reflection stunned the old servant and made him shake.
Without waiting for his answer, the impassive emperor Duy Tân responded in his stead:

If the water is « soiled », one will wash it with blood.
If by essence, water is a protecting, fetal and vital element for humans, it is even more so for the majority of Vietnamese, a raison-d’être in this world, as it is synonymous with the word « Fatherland ».

Quê Hương (My country)

 

 Version française

 

Quê Hương,

French version

these are the first words that we learned from our teacher at the school. We have to love Quê Hương, that is what our teacher repeated everyday. This sometimes puzzled us when we were still attending school. Why do we have to love Quê Hương? It has nothing extraordinary. It has only a name. We do not see it. We do not even manage to feel its presence in Vietnam. Sometimes, we would like to deny it because it identifies poverty and misery. However it is like our mother, unique to each of us. It is live and irreplaceable. It is our raison d’être. We cannot grow if we do not think about Quê Hương. Even when we live overseas or in a remote corner of the planet, the shadow of Quê Hương keeps on grabbing us with tenderness and regret. If we have the opportunity to spend a sleepless night, we will notice how long the night would be. If we have the opportunity to leave Viêtnam, we realize we miss Quê Hương.

Poet Ðỗ Trung Quân managed to describe it through the poem entitled “Bài Học đầu tiên cho con (First lesson for my child) that the late composer Anh Bằng will succeed in putting latter into a song. Quê Hương is a bunch of sweet star fruits which my child gathered every day. Quê Hương is the road to school flooded with dried yellow butterflies my child took every day at the time of the return. Quê Hương is the kite of glaucous color which my child had the practice to make to fly away over the meadow . Quê Hương is the small boat that advanced gently along the river. Quê Hương is the small bamboo bridge which our mother had the practice to take at the time of the return with her conical hat inclined to protect her from the sun etc.

Bao năm xa cách Quê Hương
Nỗi sầu viễn xứ biết dường nào nguôi
Mai nầy vĩnh biệt chôn vùi
Đất người thể xác ngậm ngùi nghìn thu.

Effectively, Quê Hương is our past, our youth, our identity, our memories. We can never grow if we have no attachment to our past. Because of the the hazards of the life,we may forget Quê Hương momentarily but we do not lose it forever.

Cầu Long Biên (Ancien pont Paul Doumer, Hànội)


Version française
Version anglaise
Liste des photos

Ai có đến Hànôi hay đi tham quan vịnh Hà Long thì ít nhất cũng trông thấy cầu nầy từ đằng xa vì nó là cầu thép nối hai quận Hồ Hoàn Kiếm và quận Long Biên bắc qua sông Hổng, một con sông rất dài xuất phát từ Vân Nam và  đổ ra biển Đông  cuối cùng. Nó mang nhiều tên qua nhiều thế kỷ. Sông nầy  chỉ quen thuộc đối với thời cận hiện đại với  tên sông Hồng  chỉ có từ cuối thế kỷ XIX , dưới thời Pháp thuộc khi người Pháp ho dựa trên màu nước của đất phù sa mà đặt một tên thống nhất. Chính con sông nầy nó làm giàu có vùng đồng Bắc Bộ nơi mà các nhà sữ gia Tây Phương và Việt cho đây   là cái nôi của dân tộc Việt Nam.  Còn cái cầu nầy nó được khởi công xây dựng tháng 9 năm 1898  dưới thời kỳ Pháp thuộc với toàn quyền Paul Doumer và hoàn thành  hơn  3 năm  sau. Cầu nầy được thiết kế do hãng Daydé & Pillé nhưng kiểu dáng quá độc đáo không thua chi  đã trông thấy với các cầu của Gustave Eiffel vì vậy có sự nhầm lẫn nầy vã lại không phải là phương án thiết kế của Gustave Eiffel vì trên trang nhà của các người thừa kế của ông nầy không có liệt kê phương án nầy (http://www.gustaveeiffel.com/ouvrage/routiers.html).

Hiện trên đầu cầu vẫn còn tấm biển kim loại có khắc chữ « 1899 -1902 – Daydé & Pillé – Paris ». Nhưng cũng phải công nhận  đây là một kỳ công về kỹ thuật và công việc hậu cận vì thời đó nó là một trong bốn cầu dài nhất thế giới (nhất là ở Viễn  Đông ) và ngành công nghiệp thép bản  xứ hầu như không có, xứ Pháp thì quá xa vời. Cây cầu dài 1.862m, gồm 19 nhịp dầm thép, đặt trên 20 trụ cầu cao 43,50m. Ở giữa cầu là đường xe lửa, hai bên có đường rộng 1,3m, từng quãng một có những chỗ rộng nhô ra, nơi những ngừơi nghèo thường bán đồ. Toàn bộ chiều dài của cầu lên tới 2.500m.   

Nó là cầu chứng kiến những  thăng trầm lịch sữ của đất nước. Cầu nầy được vua Thành Thái và Toàn quyền Đông Dương đến đầu cầu để làm lễ khánh thành dưới thời Pháp thuộc. Nó cũng  là cầu mà ngày 10/10/1954, quân đội viễn chinh Pháp  lặng lẽ  cuốn gói  rời khỏi Hànội sau trận chiến ở Điện Biên Phủ. Nó bao lần bị oanh tạc hư hao trong thời kỳ chống Mỹ.  Nay sang thời bình, sau thập kỷ 90, cầu Long Biên được sử dụng chỉ cho tàu hỏa, xe đạp, xe máy  và người đi bộ từ khi có cầu Chương Dương  nằm trong mục tiêu đáp ứng nhu cầu đi lại và để phát triển kinh tế, xã hội đô thị ở hai bờ sông Hồng. Với nét cổ kính,  nó còn là nơi lý tưởng dành cho  giới trẻ Hà Thành muốn chụp ảnh đám cưới hay lưu niệm. Hôm tôi đến đây chụp thấy ớn quá chừng có nhiều  người đứng giữa cầu chụp nhất là có tàu hỏa thường tới lui trên cầu. Chỉ có ở đất nước mình mới thấy sự táo bạo như vậy mà thôi. Tôi còn nhớ em đó nói có chi đâu anh khi nghe còi thì chạy  vào mà thôi.  Một hình ảnh khó quên.

Quiconque ayant l’occasion de venir à Hànội ou d’aller à la baie d’Along  peut voir   au loin   ce pont en acier. Celui-ci relie les deux districts Hồ Hoàn Kiếm et Long Biên en enjambant le long  fleuve Rouge issu de la grotte de Yunnan en Chine  et terminant sa course dans la mer de l’Est. Ce fleuve  a plusieurs noms au fil des siècles. Il est  plus connu familièrement sous le nom actuel « Fleuve Rouge » à la fin du XIXème siècle. En voyant la couleur alluviale de son eau et en voulant uniformiser les noms portés par ce fleuve, les Français lui ont donné, à l’époque coloniale, le nom « Fleuve Rouge« . C’est lui qui nourrit et enrichit la région du delta du Nord que les historiens occidentaux et vietnamiens ont considérée toujours comme le berceau de la civilisation vietnamienne. En ce qui concerne le pont, il fut construit à l’époque coloniale en 1898 et achevé 3 ans plus tard sous l’initiative du gouverneur de l’Indochine,   Paul Doumer. Le projet de conception et de réalisation  de ce pont était assumé  par la société  Daydé & Pillé.  Comme sa forme et son style ressemblent à  ceux des ponts de Gustave Eiffel, il y a là une confusion énorme en attribuant cet ouvrage  à ce dernier.

De plus, dans la liste des ponts routiers  réalisés par Gustave Eiffel (http://www.gustaveeiffel.com/ouvrage/routiers.html), le pont Paul Doumer ne figure pas. 

Par contre, on trouve encore aujourd’hui à l’entrée de ce pont,  une plaque métallique  portant le nom de la maison  Daydé & Pillé et sa date de réalisation. Il faut reconnaître que ce pont est un remarquable ouvrage d’art de l’époque, une prouesse technique et logistique,  vu  la faiblesse de la sidérurgie locale et l’éloignement de la France. Il est l’un des quatre ponts les plus longs du monde ( le premier en Extrême Orient). Long de 1862 mètres, il  comprend  19 travées solidaires formées de poutres d’acier du type Cantilever et repose essentiellement  sur une vingtaine  de colonnes solides hautes de   43,50 mètres. De chaque côté du pont, il y a un petit trottoir réservé pour les piétons et une piste  pour les vélos et les motos tandis qu’au milieu se trouvent  les rails pour les trains. La longueur totale de ce pont atteint jusqu’à 2500 mètres.

Il est le témoin majeur des hauts et des bas de l’histoire du Vietnam.  Il fut  inauguré par l’empereur Thành Thái  en présence du gouverneur de l’Indochine Paul Doumer à l’époque coloniale. C’est aussi par ce pont que les troupes françaises  empruntèrent en Octobre 1954   pour quitter Hànoï après la chute de Điện Biên Phủ. Il était maintes fois  la cible privilégiée des bombardements durant la guerre contre les Américains.

Après la décennie des années 1990 marquée par la paix, le pont Long Biên est réservé uniquement pour les trains, les vélos, les scooters et les piétons depuis qu’i l existe  le pont Chương Dương répondant aux développements  économiques et à l’urbanisation de deux côtés du fleuve Rouge.

Avec son charme antique, il devient aujourd’hui l’endroit idéal fréquenté par la jeunesse hanoienne pour immortaliser son mariage ou son souvenir. Le jour où j’étais de passage pour faire des photos, je m’aperçus qu’il y avait quelques jeunes gens empruntant la voie du milieu fréquentée par les trains  pour être photographiés. C’est une audace effarante qu’on peut trouver seulement au Vietnam au détriment de la vie. C’est difficile d’oublier cette scène.

English version

Anyone who has the chance to come to Hanoi or go to Ha Long Bay can see in the distance this steel bridge. It connects the two districts Hồ Hoàn Kiếm and Long Biên by spanning the long Red River, which originates from the Yunnan cave in China and ends its course in the East Sea. This river has had several names over the centuries. It is more familiarly known by its current name « Red River » since the late 19th century. Seeing the alluvial color of its water and wanting to standardize the names carried by this river, the French gave it, during the colonial period, the name « Red River. » It nourishes and enriches the northern delta region, which Western and Vietnamese historians have always considered the cradle of Vietnamese civilization. Regarding the bridge, it was built during the colonial period in 1898 and completed 3 years later under the initiative of the governor of Indochina, Paul Doumer. The design and construction project of this bridge was undertaken by the company Daydé & Pillé. Since its shape and style resemble those of Gustave Eiffel‘s bridges, there is a huge confusion attributing this work to him.

Moreover, in the list of road bridges built by Gustave Eiffel (http://www.gustaveeiffel.com/ouvrage/routiers.html), the Paul Doumer Bridge does not appear.

However, even today at the entrance of this bridge, there is a metal plaque bearing the name of the Daydé & Pillé company and its date of completion. It must be acknowledged that this bridge is a remarkable work of art of its time, a technical and logistical feat, given the weakness of the local steel industry and the distance from France. It is one of the four longest bridges in the world (the first in the Far East). Measuring 1862 meters long, it comprises 19 solid spans formed of Cantilever-type steel beams and rests mainly on about twenty solid columns, each 43.50 meters high. On each side of the bridge, there is a small sidewalk reserved for pedestrians and a lane for bicycles and motorcycles, while in the middle are the rails for trains. The total length of this bridge reaches up to 2500 meters.

It is a major witness to the ups and downs of Vietnam’s history. It was inaugurated by Emperor Thành Thái in the presence of the Governor of Indochina, Paul Doumer, during the colonial era. It was also via this bridge that French troops passed in October 1954 to leave Hanoi after the fall of Điện Biên Phủ. It was repeatedly a prime target for bombings during the war against the Americans.

After the decade of the 1990s marked by peace, the Long Biên Bridge has been reserved only for trains, bicycles, scooters, and pedestrians since the Chương Dương Bridge was built to meet the economic developments and urbanization on both sides of the Red River.

With its antique charm, it has become today the ideal place frequented by Hanoi’s youth to immortalize their wedding or memories. The day I was passing by to take photos, I noticed that there were some young people using the middle lane, frequented by trains, to be photographed. It is a staggering audacity that can only be found in Vietnam at the risk of life. It is hard to forget this scene.

Galerie des photos

[RETOUR]

 

 

Temple Đô ( Đền Lý Bát Đế, Bắc Ninh)

Temple  Đô (Lý Bát Đế)

Version vietnamienne

Version anglaise

Bắc Ninh

Ce temple Đô fut édifié en l’an 1030 lors du retour du roi Lý Thái Tông pour célébrer l’anniversaire de la mort de son père Lý Công Uẫn (Lý Thái Tổ).  Mais cet édifice  a été complètement détruit à l’époque coloniale. C’est pourquoi en 1989 le gouvernement vietnamien décida de le restaurer  en s’appuyant sur les documents historiques encore  conservés. En face de sa portique d’entrée se trouve un pavillon d’eau érigé sur un grand  étang en forme de demi-lune parvenant à communiquer autrefois  au fleuve Tiêu Tương qui n’existe plus aujourd’hui. Ce complexe architectural historique  est dédié au culte des 8 rois de la dynastie Lý que le fameux historien Ngô Sĩ Liên a qualifiée comme une dynastie de clémence dans la collection intitulée  « Les Mémoires historiques du Grand Viet au complet (Ðại Việt Sử Ký toàn thư)  » (1697).

Selon l’adage populaire,  dans l’ouvrage  « Floriflège du jardin du Thiền (Thiền Uyển Tập Anh)   il y a un kệ (ou gâtha)   faisant allusion aux 8 rois de la dynastie des Lý  qu’on aimerait  attribuer soit  au disciple du moine patriarche  Khuôn Việt, Đa Bảo  soit au moine Vạn Hạnh comme suit:

Chữ Bát với nhà Lý

Một bát nước công đức
Tùy duyên hóa thế gian
Sáng choang còn soi đuốc
Bóng mất trời lên cao.

 

Un bol d’eau méritant et généreux, finit par

changer de vie avec la causalité  et la sérénité   en soi. 

Une torche d’une vive clarté continue de s’éclairer.

À la disparition de l’ombre, le soleil s’efface  derrière les montagnes.

Par insinuation, ce Kệ (ou stance)  veut évoquer les 8 rois de la dynastie des Lý , du fondateur Lý Công Uẫn jusqu’au dernier roi Lý Huệ Tông par le biais du mot bát qui signifie à la fois bol et huit  en vietnamien. Quant à Huệ Tông, son prénom est Sảm.   Étant  l’association de deux mots nhật (soleil) et  sơn (montagne) dans l’écriture des caractères chinois Han,  le mot Sảm signifie effectivement « le soleil se cache derrière les montagnes » pour désigner la fin ou la disparition. Ce kê s’avère prémonitoire car la princesse Lý Chiêu Hoàng (fille du roi Lý Huệ Tông) a cédé le trône à son époux Trần Cảnh  qui n’était autre que le roi Trần Thái Tông de la dynastie des Trần. On peut dire que la dynastie des Lý a eu  le royaume par la volonté de Dieu mais c’est aussi par cette dernière qu’elle l’a perdu.

Version vietnamienne

 


Đền Lý Bát Đế

Đền nầy được xây dựng vào  năm Canh Ngọ 1030 khi vua Lý Thái Tông về quê làm giỗ cho vua cha tức là Lý Công Uẫn (Lý Thái Tổ). Nhưng đền bị phá hũy hoàn toàn dưới thời pháp thuộc vì vậy cho đến năm 1989 thì được xây dựng lại dựa theo các tài liệu nghiên cứu còn lưu trữ. Trước đền thì có  thủy tạ trên hồ bán nguyệt thông đến sông Tiêu Tương  ngày xưa, nay không còn nữa. Đền nầy là một quần thể kiến trúc tín ngưỡng thờ tám vị vua nhà Lý, một triều đại nhân ái được sữ gia Ngô Sĩ Liên nói đến trong  bộ quốc sử   « Ðại Việt Sử Ký toàn thư » (1697). Theo lời truyền dân gian thì có một bài kệ có người cho là của thiền sư Đa Bảo, học trò của thiền sư Khuôn Việt còn có người nói là của sư Vạn Hạnh,   ám chỉ đến tám vua nhà Lý, được ghi lại trong Thiền Uyển Tập Anh như sau:

Nhất bát công đức thủy
Tuỳ duyên hoá thế gian
Quang quang trùng chiếu chúc
Một ảnh nhật đăng san

Một bát nước công đức
Tùy duyên hóa thế gian
Sáng choang còn soi đuốc
Bóng mất trời lên cao.

Bài kệ nấy ám chỉ tám đời vua của triều Lý từ Huệ Tông đến Thái Tổ qua chữ bát còn Huệ Tông tên là Sảm tức là theo Hán tự thì bên trên chữ  nhật là mặt trời, bên dưới chữ sơn là núi, chữ « Sảm » nghĩa là « mặt trời lặn sau núi » có nghĩa là suy. Sau đó đến đời Lý Chiêu Hoàng thì phải nhường ngôi cho  chồng Trần Cảnh  tức là Trần Thái Tông  thuộc nhà Trần. Có thể nói là nhà Lý được nước là tự trời mà mất nước cũng tự trời mà ra.

[RETOUR]

 

 

 

Chùa Keo (Pagode Keo, Thái Bình)

 

Version vietnamienne

English version

En évoquant Thái Bình, on ne cesse pas de penser à sa spécialité locale (soupe de poissons)  et à sa pagode Keo.  Etant préparé minutieusement avec  les morceaux de  carpe  d’eau douce assaisonnés avec de  la poudre de curcuma,, ce plat associé aux nouilles de riz crée à la fois un goût délicieux et aromatique avec les feuilles d’aneth et de basilic,  ce qui lui permet de rivaliser incontestablement avec le phở, le bouillon des Tonkinois.

Quant à la pagode Keo, elle est véritablement un ancien ouvrage  architectural localisé dans le district Vũ Thư avec une superficie de 40.907,9m2. Etant considérée souvent comme une chef d’œuvre d’art basé essentiellement sur l’utilisation des étais  du bois de fer précieux (gỗ lim), cette pagode possède plus de 100 travées de taille diverse et un clocher magnifique à 3 étages  dont chacun possède son propre toit aux tuiles « mủi hài » et une cloche en bronze carrelé.  On ne conteste pas sa réputation d’être  le plus beau   joyau architectural typique datant de l’époque des Lê postérieurs. Son dôme ressemble à une fleur de lotus épanouie au milieu de la cour de la pagode.  L’organisation du culte religieux est la particularité de cet édifice  avec   Tiền Phật hậu Thần Thánh ( Bouddha dans la cour avant  et les Génies dans la cour arrière). C’est pourquoi on retrouve  prioritairement Bouddha  dans la salle antérieure (tiền đường) de la pagode  tandis qu’on pratique le culte des génies, en particulier celui  du  moine Dương Không Lộ dans la salle postérieure (hậu đường).    Etant issus des écoles religieuses   Vô Ngôn Thông et Thảo Đường, Dương Không Lộ était non seulement le Maître du Royaume sous la dynastie des Lý mais aussi l’inventeur de la fonderie vietnamienne. Cette pagode est habituée à organiser chaque année le festival des rites traditionnels ayant lieu au printemps (le 4e jour du 1er mois lunaire), et  à l’automne (entre le 13ème et le 15ème jour du 9e mois lunaire). La fête est tellement importante que les filles ne peuvent pas s’en passer avec le dicton suivant:

Dù cho cha đánh mẹ treo, Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm.
Malgré l’interdiction de mes parents,
je ne peux pas  laisser tomber le festival des rites traditionnels au jour du mois lunaire.

Un joyau architectural vietnamien

Galerie des photos 

 
 

 
Version anglaise 

In speaking of Thái Bình province, one does not cease thinking about its local speciality (fish soup) and Keo pagoda. Being carefully prepared with  seasoned pieces  of freshwater carp in turmeric powder, this meal combined with noddles gives simustaneously a delicious  and aromatic taste  by the presence of dill  and basil leaves, which allow it to compete with phở, the Tonkinese soup. For the Keo pagoda, there is an older architectural  artefact located in the  Vũ Thư district and covering a land area of 40.907,9m2. Being considered as a greatest masterpiece  of art and  based essentially on the use of precious wooden struts (gỗ lim), this pagoda has more than 100  various-sized spans and  a magnificient threelevel bell tower,  each of which  posseses its own roof  with  shaped tiles (mũi hài) and a bell in tiled bronze. One does not deny its reputation for being the most beautiful architectural jewel dating from the time of Later Lê Dynasty. Its dome looks like a flower blossomed in the midst of pagoda’s yart. The organization of religious worship is the  particularity of this building with Tiền Phật hậu thần thánh (Buddha in front yard and geniuses in rear yard). That is why Buddha is fund in the anterior room (tiền đường) while the cult of geniuses, in particular that of Dương Không Lộ monk takes place in the posterior room (hậu đường). Coming  from religious schools Vô Ngôn Thông and Thảo Đường, Dương Không Lộ was not only the great master of the kingdom under Ly  dynasty but also the inventor of Vietnamese foundry. This pagoda is accustomed to organize each year the religious festival in the spring (4th day of the first lunar month) and autumn (between 13th and 15th day of the 9th lunar month). The festival is so important that girls  cannot do without it with the following saying: 

Dù cho cha đánh mẹ treo, em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm.
Despite the interdiction of my parents,  I cannot renounce the Keo festival at the lunar day.

 
Chùa Keo một kiến trúc đẹp nhất ở Vietnam

Vietnamese version

Nhắc đến Thái Bình thì không thể quên được món canh cá rô và chùa Keo.  Canh cá, món nầy  được kết hợp với bánh đa, tạo ra một hương vị đầm đà với lá thì là, húng bạc hà,   không thua chi món phở của người miền Bắc  còn chùa Keo thì là một công trình kiến trúc cổ  độc đáo nằm trong huyện Vũ Thư  và có diện tích 40.907,9m2.  Đựơc xem là một kiệt tác nghệ thuật bằng gỗ lim , có hơn một trăm gian lớn nhỏ khác nhau và  nhất là có một gác chuông gồm có ba tầng, 12 mái, khung gỗ, mái lợp ngói mũi hài. Gác chuông là một kiến trúc tiêu biểu dưới thời Hậu Lê và được xem là đẹp nhất của vùng Bắc Bộ với hình dáng của một hoa sen vương lên giữa sân chùa. Chùa Keo  có đặc điểm riêng trong việc thờ tự, ngoài thờ Phật phía sau còn thờ thánh.(tiền Phật, hậu Thánh). Vì vậy phía sau là nơi thờ thiền sư Dương Không Lộ, đựợc phong làm thánh.  Ông thuộc phái Vô Ngôn Thông và phái Thảo Đường, làm Quốc sư dưới triều nhà Lý và được xem là vị tổ của nghề đúc đồng. Chùa nầy hằng năm  còn có tổ chức những ngày lễ hội  truyền thống dành cho mùa Xuân và mùa Thu. Ngày lễ hội quan trọng cho đến đổi  có câu ca dao về hội chùa Keo:

Dù cho cha đánh mẹ treo,
Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm.

 

Người bán hàng rong Hanoï (Les marchandes ambulantes)

 

Les marchandes ambulantes de Hanoï

Version anglaise
Version vietnamienne
Liste des photos

Étant connues à l’époque coloniale, les marchandes ambulantes se font au fil des années une image d’une scène ordinaire et plutôt familière pour les Hanoïens dans leur vie journalière. Par contre pour les touristes étrangers et les passionnés  de photos, elles constituent  un attrait  très original,  une caractéristique   particulière de la « culture du commerce ambulant »  de Hanoï  dont les photos ne peuvent pas être absentes  dans un album de photos de voyage, en particulier avec les marchandes ambulantes de fleurs. Étant venues d’autres provinces ou  vivant  aux alentours de la capitale, celles-ci  réveillées  très  tôt, à 4 ou 5 heures du matin, doivent accomplir  des dizaines de  kilomètres en vélo pour s’approvisionner en fleurs et fruits au marché.  Puis elles  cherchent des rues  calmes et désertes  pour mettre en  valeur les produits  proposés à vendre ( fleurs et fruits)  tout en faisant appel à leur  créativité  et l’adresse de leurs mains dans la géniale exposition et  la disposition superbement équilibrée de ces produits. Ceux-ci sont proposés en fonction de leur saison.  On peut dire que ces femmes marchandes ambulantes  sont des tableaux vivants animés et multicolores se  faufilant au cœur du vieux quartier de la capitale.

Elles  apportent  tous les jours à la capitale   un style de vie   particulier sans qu’elles  le sachent. Elles continuent à s’inquiéter de manière timorée  tout en cherchant de loin la présence et le déplacement de la police locale à travers leurs yeux  craintifs et apeurés. Cela fait mal à ces femmes qui doivent chercher de l’argent pour s’acquitter des obligations familiales et avoir la tranquillité dans l’âme mais cela crée aussi un souci majeur pour ceux qui aiment à faire des photos comme moi car je suis obligé de les poursuivre patiemment  à travers les rues et les quartiers avec le but de pouvoir obtenir ces photos inoubliables ci-dessous  que je pourrai partager sur le net. Il est  très difficile d’avoir auprès de ces femmes courageuses un sourire matinal naturel avec cette vie assez  tumultueuse.

Version vietnamienne

Đã có từ  đời Pháp thuộc, người bán hàng rong là một hình ảnh bình dị quá quen thuộc  đối với người Hà Thành  trong cuộc sống hằng ngày nhưng đối với những người du khách ngoại quốc hay là những người thích chụp ảnh thì người bán hàng rong là một nét đẹp quá độc đáo, một đặc trưng  văn hoá bán hàng rong  riêng tư  của Hà Thành không thể thiếu sót để lưu niệm trong cuốn album  được nhất là với  những người bán hoa dạo.  Các phụ nữ bán rong nầy họ là những người  nhập cư từ phương xa đến, họ  thức dậy lúc 4, 5 giờ sáng đạp xe hàng cây số để lấy hoa hay trái cây ở chợ   rồi họ tìm những đường hay nơi vắng vẽ ít người  để họ trang trí lại theo ý muốn, tăng thêm với  đôi bàn tay khéo léo,  cái  vẻ đẹp của  các món hàng thực phẩm  họ bán,  nhất là hoa quả. Họ bán theo mùa, muà nào thức ấy. Có thể nói họ là những bức tranh sống  linh hoạt   muôn màu di chuyển giữa lòng phố cổ. 

Họ tạo ra hằng ngày  một nét đẹp riêng tư  cho Hà Thành mà chính họ không bao giờ biết  nghỉ đến. Họ lúc nào cũng lo lắng  rụt rè thăm dò từ đằng xa sự đeo  đuổi của các chú  cảnh sát phường xóm qua đôi mắt sợ sệt. Thật tội cho họ để kiếm tiền trang trải cuộc sống vất vã, không có lúc nào được yên tâm cả mà cũng tội cho những người thích  chụp ảnh như  tớ cũng bị lôi cuốn,  chạy theo họ qua đường phố, phải kiên nhẫn  để có thể được các tấm ảnh nầy  để chia sẻ trên trang nầy  nhất là hiếm có  được ở nơi họ  những  nụ cười tự nhiên vui vẻ buổi sáng   với cuộc sống bon chen nầy.

marchande_ambulante

 

Version anglaise

Being known at the colonial period, street women  vendors get over the years,  a picture of the ordinary scene and too familiar for people living in Hanoi. However, for foreign tourists and photo enthusiasts, they constitute an attraction very original,  a particular characteristic of ambulant commerce in Hanoï. Their photos are not missing in an album of travel pictures, in particular with  itinerant florists. Coming from other provinces or living around the capital and being  up early  around 4 or 5 in the morning, they must accomplish tens of kilometers on a bike  for their  supplies in flowers and fruits to the market. Then they seek refuge in quiet and desert streets in order to highlight the products to be sold  (flowers and fruits) by calling upon the creativity  and the manuel skill  in the ingenious exhibition and the arrangement superbly balanced of these products proposed depending on their season. 

One can say these street vendors are animated and multicoloured  living tableaux sneaking in the heart of old quarter of Hanoï. They provide every day to the capital a  particular lifestyle without them knowing. They continue to worry in timid manner by seeking away the presence and displacement of local police with their fearful eyes. It hurts these women who must find money for paying off their family obligations and having peace in their soul but it  also creates a major concern for those who love to take pictures like me because I am obliged to pursue them with patience through streets  and quarters in order to obtain these unforgettable  pictures below.  It is difficult to have a morning natural  smile from courageous women when they have a tumultuous life.

Galerie des photos

[RETURN]

Temple Quán Thánh (Đền Quán Thánh, Hànội)


Đền Quán Thánh

English version
French_version
Liste des photos

Không cách xa Hồ Tây bao nhiêu, đền Quán Thánh là một điểm tham quan không thể thiếu sót  khi đến Hànội. Đền nầy là nơi để thờ một vị thần của Đạo Giáo tên là Huyền Thiên Trấn Vũ được xem ở Á Châu là hoàng để ở phương Bắc ngự trị trên các  loài  động vật ở dưới nước.  Theo cách bố trí tinh vi của phong thủy, đền nầy được dựng lên cùng ba đền khác hợp thành Thăng Long tứ trấn, để trấn giữ bốn cửa ngỏ của Hà thành chống ngọai bang và ma qủy, mỗi đền một phương ( Đền Bạch Mã Hàng Buồm phương đông, đền Voi Phục phương tây, đền Kim liên phương nam và đền  Quán Thánh phương bắc). Theo lời nói dân gian, đền nầy đã được dựng lên năm 1010 dưới triều đại Lý Thái Tổ. Lúc đầu tượng tạc bằng gỗ. Đã bao lần sửa chữa dưới đời  nhà Trần nhưng chỉ có lần duới triề u của vua Lê Hy Tông năm 1677, sự phục hồi nó mới đáng kể đó là sự thay thế tựợng gỗ bằng đồng đen và gác chuông.

Tượng thần to tác nầy  nặng có 4 tấn và cao gần 4 thước được đặt trên bục đá một thước bề cao. Có một khuôn mặt hình vuông, ngồi chững chạc, chân không  với một bộ áo đạo sĩ. Tượng cầm trong  tay phải có cây  gươm có rắn quấn và chống lên lưng một con rùa và tay trái thì bắt quyết (hay ấn). Màu đen được chọn cho pho tượng vì màu nầy trong ngũ hành là màu tượng trưng cho nước và phương bắc. Phải nói đây là một tác phẩm kỳ diệu của những người dân  đúc đồng của làng Ngũ Xã dưới sự hướng dẩn của Vũ Công Chấn, để lại cho chúng ta  đã có gần 4 thế kỷ rồi. Đền  nầy không những là một trong những đền thuộc đạo giáo còn tìm thấy ở Hànôi mà nó còn là nơi lý tưởng để dành riêng cho những ai muốn tìm sự yên tịnh và thư thản ở Hà Thành náo nhiệt nầy.

Le temple Quán Thánh

Étant situé  non loin du lac de l’Ouest (Hồ Tây), Quán Thánh  est l’un des sites incontournables de Hànội.  Ce temple  sacré est réservé au culte d’un dieu taoïste de nom Huyền Thiên Trấn Vũ considéré en Asie comme l’empereur du Nord (Bei Di (ou Bắc Đẩu en vietnamien))  régnant sur le monde aquatique. Selon l’aménagement judicieux de Feng Shui (Phong Thủy), il est édifié  avec les trois  autres temples dans le but de protéger la capitale Thăng Long contre les envahisseurs étrangers et  les mauvais esprits, chacun dans une direction bien précise (Temple  Bạch Mã  à l’est,  temple Voi Phục (Thủ  Lệ ) à l’ouest, Kim Liên au Sud et Quán Thánh au nord de Hànội). Selon l’on-dit, ce temple fut érigé en 1010 sous le règne de Lý Thái Tổ.

La statue était   en bois au début de l’installation. En dépit des rénovations successives   sous la dynastie des Trần, c’était  seulement en 1677 sous le règne du roi Lê Hy Tông que la restauration fut significative avec l’installation et le remplacement de la statue en bronze noir ainsi que le clocher du temple. 

L’autel de Vũ Công Chấn

 Cette statue colossale de  4 tonnes et haute à  peu près de 4 mètres a été posée   sur une estrade en marbre  d’un mètre de hauteur. En position assise avec un visage carré et  ses pieds nus, elle a une tenue traditionnelle taoïste.  Elle tient dans sa main droite une épée pointée  sur le dos d’une tortue et décorée superbement   par la présence   d’un serpent  enroulé tandis que dans sa main gauche, une mudra taoïste, un geste rituel   codifié  est visible  en guise d’exorcisme (bắt ấn).  Associée  à la direction du  Nord et à l’eau, la couleur doit être  noire selon la théorie des 5 éléments (Ngũ hành).  C’est l’explication trouvée dans le choix de la couleur  réservée pour  la statue taoïste. 

La finesse des détails et la taille imposante de cette statue réalisée il y a presque 4 siècles témoignent  incontestablement de l’exploit prodigieux  et du savoir faire des métallurgistes paysans du village Ngũ Xã de cette époque supervisés par Vũ Công Chấn.

Ce temple est non seulement  l’un des derniers temples taoïstes trouvés dans la capitale mais  aussi l’endroit idéal pour ceux qui aiment retrouver la sérénité et le calme dans une ville aussi animée et  bruyante comme Hanoï.

Galerie des photos