Estampes vietnamiennes (Tranh dân gian)

Tranh khắc của Henri Oger

(Les estampes de Henri Oger)

Version française

English version

Không có tính hiếu kỳ và tinh thần cởi mở của người lính trẻ Pháp này, các tranh dân gian phổ biến của Việt Nam  được biết  có nguồn gốc từ thế kỷ 15, vào thời điểm mà học giả Lương Như Hộc đã du nhập các kỹ thuật  chế tạo  tranh  sau chuyến công du chính thức ở Trung Hoa, có lẽ sẽ bị lãng quên và  biến mất mãi mãi với những thăng trầm của chiến tranh.

Henri Oger là một trong những người Pháp hiếm hoi, đã khám phá được vào đầu thế kỷ 20  một nền văn minh có được nghìn năm phong phú về truyền thống và phong tục  ở  một  xã hội Việt Nam nghèo đói, lạc hậu và  kín kẽ  cho đến giờ đối với các người nước ngoài. Chỉ ở thời điểm đó chỉ có những nhà học giã Tây Phương như Gustave Dumoutier, Pierre HuardMaurice Durand hay các cha cố đạo như Alexandre de Rhodes,  Léopold Cadière mới quan tâm đến  xứ nhỏ bé nầy mà thôi. Còn tên của Henri Oger không bao giờ nghe nói đến chỉ có được nhắc một lần ở trong một bài duy nhất của nhà học giả Pierre Huard được đăng trong tập san BEFO (1970) trang 215-217 với tựa đề là « Le pionnier de la technologie vietnamienne (Người tiên phong kỹ thuật của người An Nam). Sau khi có bằng Tú tài triết học hạng bình  vào năm 1905, ông đăng ký vào Trường Cao học Thực hành (École supérieure des études pratiques) (Ban IV). Ông là học trò của Sylvain LeviLouis Finot.

Năm 1907, ông xin bộ thuộc địa cho phép ông làm nghĩa vụ quân sự tự nguyện tại Hà Nội (1908 – 1909). Lời thỉnh cầu của ông được chấp nhận. Lúc đó ông mới có 23 tuỗi và ông tiếp tục học tiếng Nôm và chữ Hán ở trường thuộc địa  Hànôi và đậu ra trường  đứng được  hạng 4 trong nhóm 25 học trò.  Chính trong thời gian nầy, ông miệt mài đeo đuổi nghiên cứu mô tả nền văn minh vật chất và tâm linh của xứ Bắc Kỳ mà ờ nơi đây  ông Gustave Dumoutier chỉ đề cập nghiên cứu qua vài nét các hoạt động thủ công. Theo nhà học giả Pháp Pierre Huard, Henri Oger lợi dụng nghĩa vụ quân sự và hành chánh để thỏa mãn tính tò mò  vô bờ bến của một nhà bác học trên mọi lãnh vực, ngôn ngữ cũng như văn học. Ông còn tự khen mình cho rằng công trình nghiên cứu nền văn minh  vật chất của người dân Việt và các khía cạnh xã hội học của nó  vẫn chưa có ai làm ở Đông Dương. Ông công nhận  cần phải tiến hành kiểm kê và làm các danh mục rộng lớn.  Tuy biết  rằng có rất nhiều tự điển ở Việt Nam nhưng thật sự không có các cuộc khảo sát nào mang tính chất xã hội và dân tộc học cả. Chính vì thế ông chủ động sản xuất một cuốn bách khoa toàn thư gồm  có 2 tập, liên quan đến mọi khía cạnh của xã hội Việt Nam của thưở xưa: thủ công, lễ hội, kỹ thuật canh tác, phong tục tổ tiên vân vân… Ông nhờ đến khoảng ba mươi thợ khắc để thực hiện các bản vẽ khắc trên gỗ. Vì lý do thời tiết nên các bảng khắc nầy được in lại tại chổ theo phương pháp truyền thống của người dân Việt.

Mỗi ngày ông phải la cà khắp 36 phố phường và vùng ngoại ô Hànội  cùng các họa sĩ để phát họa trên giấy từng công đoạn những hình ảnh linh động về cuộc sống của người Hà Thành.  Phải công nhận các hình ảnh nầy được vẽ một cách tĩ mĩ mà luôn cả chi tiết cũng được ghi nhận rõ ràng cùng các động tác. Nhờ lòng ngưỡng mộ văn hóa của người dân Việt mà  Henri Oger mới vượt qua vào thời điểm này tất cả những khó khăn nhất là trong việc quyên tiền và thực hiện một công trình khổng lồ này gồm có được 4677  tranh khắc tất cả. Ông không nhận được  sự viện trợ nào từ nhà nước Pháp cả mà còn bị khiển trách vì quá lơ là với công việc hành chánh (Ông là lính hạng nhì ). Ông không được xem trọng như một nhà nghiên cứu ở trường Viễn Đông Bác cổ như Henri Maspéro. Thêm vào đó, ông còn cổ vũ  cho  việc cải cách xã hội và dân sự tại Đông Dương, dưới hình thức của phong trào « Ngôi nhà cho mọi người » được sáng lập tại Pháp.  Ông chỉ thu được tiền đăng ký của hai mươi người hảo tâm, tổng số tiền có được là 2000 đồng nên ông  chỉ in được 60 bản mà thôi. Sau đó,  viện lý do ông bệnh mà thật sự ra ông không hoàn thành công việc hành chính được giao phó nên năm 1919 ông được phép hồi hương về Pháp. Năm 1922, ông được nghỉ hưu và lấy vợ không có  được đứa con nào cả. Theo Pierre Huard, ông sống ở Tây Ban Nha từ tháng hai năm 1932. Từ 1936, kể như ông mất tích và không còn tin tức chi cả về ông.

Mặc dù vậy, ông Henri Oger đã thành công trong việc  thực hiện công trình nầy  và để lại cho người dân Việt Nam một kho tàng vô giá. Công trình nghệ thuật của ông vẫn  ít được biết đến với công chúng Pháp và Việt Nam trong nhiều thập kỷ. Chỉ trong năm 1978, có một cuộc triển lãm mang tên « Những họa sĩ nông dân Việt Nam » đã  được diễn ra tại Trung tâm văn hóa ở thành phố Bourges. Ba bản sao của công trình của ông đang được lưu giữ hiện nay ở các thư viện quốc gia Hà Nội và Sài Gòn, nhưng chỉ ở  Saigon mới tìm thấy có được các tập  vẹn toàn. Tuy rằng cuốn sách « Kỹ thuật của người An Nam » không có nhiều giá trị về mặt khoa học nhưng về mặt lịch sử đây là một cuốn sách cổ qúi giá  vô cùng và có một không hai  ở đầu thế kỉ 20 vì nó minh họa lại cuộc sống của nguời Hà Thành mà còn lưu lại vài hình tập tục mà ngày nay không còn nữa theo sự nhận xét của hai phó giáo sư trường Viễn Đông Bác Cổ  Olivier TessierPhilippe Le Failler. Gần đây, với sự hợp tác của Thư viện Khoa học Tổng hợp TP HCM, Trường Viễn Đông Bác Cổ tái bản lại toàn bộ tác phẩm hiếm có này bằng 3 thứ tiếng (Việt, Pháp và Anh), dưới dạng sách và ấn phẩm điện tử. Còn có  bổ sung bản dịch ra chữ quốc ngữ tất cả những chú thích được viết bằng chữ Hán Nôm trong lần tái bản này. Đây cũng là một cách thức của  Trường Viễn Đông Bác Cổ công nhận công trình nghiên cứu của Henri Oger.

Khác hẳn với các bạn đồng nghiệp ở Trường Viễn Đông Bác Cổ, Henri Oger đi trước thời đại vì ông không tán thành quan điểm của giới trí thức phương Tây vào thời điểm đó mà  chủ nghĩa thực dân đang ở đỉnh cao và tất cả đều phải phục vụ cho chính sách nầy. Ngược lại ông cố gắng hòa mình sống trong môi trường của người dân Việt, học ngôn ngữ mẹ đẻ của họ và cùng họ la cà mãi hai năm trời  để biết  tập tục rõ hơn và mô tả đúng hơn. Chỉ có những nhà dân tộc học như Georges Condominas hay ông mới làm được việc  phi thường nầy.

estampes_oger

Version française

Sans la curiosité et l’esprit d’ouverture de ce jeune militaire français, les estampes populaires vietnamiennes dont l’origine remonta au XVème siècle, à l’époque où le lettré Lương Như Hộc  introduisit les techniques de fabrication des estampes lors du retour de sa mission officielle en Chine, seraient probablement dans les oubliettes et disparaîtraient à jamais avec les vicissitudes de la guerre. 

 

Attraper la libellule

Henri Oger était l’un des rares français qui, au début du siècle dernier, put découvrir à travers la société vietnamienne hermétique jusque-là aux étrangers, pauvre et arriérée, une civilisation millénaire riche en traditions et en coutumes. À cette époque il n’y avait que des érudits occidentaux comme Gustave Dumoutier, Pierre Huard , Maurice Durand ou des missionnaires comme Alexandre de Rhodes, Léopold Cadière portant intérêt à ce petit pays. Quant au nom de Henri Oger, personne le ne le connait sauf une fois il est évoqué dans le seul article de l’érudit Pierre Huard publié dans le bulletin de EFEO (1970) pages 215_217 avec le titre  « Le pionnier de la technologie vietnamienne ». Après l’obtention du baccalauréat  de philosophie avec mention assez bien  en 1905, il fut inscrit à l’École supérieure des études pratiques (IVème section). Il était l’élève de Sylvain Levi et Louis Finot.

En 1907, il demanda au ministère des Colonies de pouvoir faire ses deux ans de service militaire volontaire à Hànoï (1908 – 1909). Sa requête fut acceptée. Alors il n’eut que 23 ans . Il continua à poursuivre sur place ses études  en caractères chinois (Hán) et démotiques (Nôm)  à l’école coloniale  dont il sortit classé 4ème sur 25 élèves. C’est durant cette période qu’il s’adonna à poursuivre  la recherche descriptive de la civilisation  matérielle et spirituelle du  Tonkin, là où Gustave Dumoutier n’avait abordé que par touches l’étude de quelques activités artisanales. Selon Pierre Huard, Henri Oger profita du service militaire et de l’administration pour assouvir la curiosité d’un savant dans tous les domaines, aussi bien linguistique que littéraire. Il se flatta que les travaux de recherche sur la civilisation matérielle du peuple vietnamien et ses aspects sociologiques n’eussent pas encore été réalisés en Indochine. Il reconnut qu’il était nécessaire  de faire des inventaires  et de vastes répertoires.

Malgré l’existence de nombreux dictionnaires au Vietnam, il n’y avait pas vraiment des enquêtes sociales et ethnographiques. Partant de cette constatation, il prit l’initiative de réaliser une encyclopédie constituée de 2 volumes, relatant tous les aspects de la société vietnamienne d’autrefois: métiers d’artisans, fêtes, techniques d’agriculture, coutumes ancestrales etc….. Il demanda  à une trentaine de graveurs de réaliser des dessins gravés sur bois. Puis  à cause des conditions climatiques, il fit imprimer sur place les planches de ces gravures selon les méthodes traditionnelles vietnamiennes. Chaque jour,  il dut parcourir les trente-six rues et les faubourgs de Hanoï avec les artistes pour retracer sur papier les scènes dynamiques de la vie de leurs  habitants.  Il faut reconnaître que ces croquis étaient dessinés avec méticulosité et  les  détails  des mouvements étaient décrits surtout avec précision. 

Grâce à  l’amour du Vietnam et l’estime de son peuple que  Henri Oger eût  à cette époque, cela lui permit  de surmonter  toutes les difficultés rencontrées dans la collection des fonds et dans la réalisation de cette œuvre gigantesque  ayant  4677 dessins en tout. Il ne reçut aucun aide de l’Etat français mais il fut reproché par contre pour ne pas assumer correctement son emploi administratif. (un soldat de deuxième classe). Il  ne fut jamais considéré  vraiment comme  un chercheur à l’Ecole Française d’Extrême Orient tel que Henri Maspero. En plus, il voulut faire des réformes sur l’éducation sociale et civique en Indochine  en fondant « Une maison de tous » en France. Il obtint seulement les souscriptions d’une vingtaine de personnes généreuses, au total 2000 piastres. Cela lui permit d’imprimer seulement 60 exemplaires. Profitant de sa maladie mais plutôt de son manque d’assiduité dans son travail administratif, il fut rapatrié en France en 1919. En 1922, il prit sa retraite et se maria sans avoir des  enfants. Selon Pierre Huard, il vit en Espagne à partir février 1932. Puis il fut porté disparu en 1936. On n’avait plus de nouvelles sur lui.

Malgré cela, Henri Oger a réussi à réaliser son projet scientifique et à  laisser au peuple vietnamien un trésor inestimable. Son œuvre est restée méconnue du public français et vietnamien pendant des décennies. Seulement en 1978, une exposition intitulée « Les peintres paysans du Vietnam » eut lieu au centre culturel de Bourges. 

Trois exemplaires de son œuvre sont conservés actuellement aux Bibliothèques Nationales de Hanoï et de Saïgon mais c’est seulement dans cette dernière ville qu’on trouve l’intégralité de ses 2 volumes. Bien que  l’ouvrage de Henri Oger intitulé « Technique du peuple annamite » n’ait pas beaucoup de valeur scientifique, il constitue par contre au point de vue historique un livre ancien précieux et unique en son genre au début du 20ème siècle car il illustre la vie journalière des Hanoïens et il garde quelques croquis relatant  certaines coutumes qui n’existent plus aujourd’hui  selon les observations des deux chercheurs Olivier Tessier et Philippe Le Failler de l’Ecole Française d’Extrême Orient (EFEO). Récemment, avec la coopération de la Bibliothèque des Sciences Générales de Ho Chi Minh Ville, cet ouvrage rare a été réédité en trois  langues, sous forme de livres et de publications électroniques.

Il existe également une traduction dans la langue nationale de toutes les notes écrites en Hán (chinois) et en  Nôm (vietnamien) dans cette édition. C’est aussi la manière de l’EFEO d’apporter la reconnaissance implicite des travaux scientifiques de Henri Oger. Différent de ses collègues de son époque, il était en avance sur son temps car il n’épousait pas le point de vue de l’intelligentzia occidentale à une époque où le colonialisme était à son apogée et tout devait servir cette politique.  Par contre il s’efforçait de s’installer dans le propre milieu des Vietnamiens, d’apprendre leur langue maternelle et parcourir tous les recoins de Hanoï durant ses deux années successives  afin de mieux connaître leurs us et coutumes  et les décrire avec justesse et concision.   Il n’y a que  les ethnologues comme Georges Condominas et lui pouvant accomplir ce travail extraordinaire. 

English version

Without the curiosity and open spirit of this young French soldier, the popular folk paintings of Vietnam, known to have originated from the 15th century, at the time when scholar Lương Như Hộc introduced painting techniques after an official trip to China, would probably have been forgotten and disappeared forever amidst the upheavals of war.

Henri Oger was one of the rare Frenchmen who, at the beginning of the 20th century, discovered a civilization with a thousand years of rich tradition and customs in a poor, backward, and secretive Vietnamese society that was until then unknown to foreigners. Only at that time did Western scholars such as Gustave Dumoutier, Pierre Huard, Maurice Durand, or missionaries like Alexandre de Rhodes and Léopold Cadière show interest in this small country. Henri Oger’s name was never mentioned except once in a single article by scholar Pierre Huard published in the BEFO journal (1970), pages 215-217, titled « Le pionnier de la technologie vietnamienne » (The Pioneer of Vietnamese Technology). After obtaining a philosophy baccalaureate with a pass grade in 1905, he enrolled in the École supérieure des études pratiques (Higher School of Practical Studies) (Section IV). He was a student of Sylvain Levi and Louis Finot.

In 1907, he requested permission from the colonial ministry to perform voluntary military service in Hanoi (1908 – 1909). His request was granted. At that time, he was only 23 years old and continued to study Nom script and Chinese characters at the colonial school in Hanoi, graduating ranked 4th among 25 students. During this period, he diligently pursued research describing the material and spiritual civilization of Northern Vietnam, where Gustave Dumoutier had only briefly touched upon the handicraft activities. According to the French scholar Pierre Huard, Henri Oger took advantage of military service and administrative duties to satisfy the boundless curiosity of a polymath across all fields, including language and literature. He even praised himself, stating that his research on the material civilization of the Vietnamese people and its sociological aspects had not been done by anyone in Indochina. He acknowledged the need to conduct extensive inventories and compile large catalogs.

Although aware that there were many dictionaries in Vietnam, there had been no sociological or ethnological surveys. Therefore, he proactively produced an encyclopedia in two volumes, covering all aspects of ancient Vietnamese society: handicrafts, festivals, farming techniques, ancestral customs, and so forth. He enlisted about thirty woodcarvers to create woodblock engravings. Due to weather conditions, these woodblocks were reprinted locally using traditional Vietnamese methods. Every day he had to roam around the 36 streets and suburbs of Hanoi with artists to sketch on paper each stage of the lively images of the life of the people of Hanoi. It must be acknowledged that these images were drawn meticulously, with even the details clearly recorded along with the movements.

Thanks to his admiration for the culture of the Vietnamese people, Henri Oger was able to overcome, at that time, all difficulties, especially in raising funds and carrying out this enormous project which included a total of 4,677 engravings. He did not receive any support from the French government and was even reprimanded for being too negligent with administrative work (he was a second-class soldier). He was not respected as a researcher at the School of the Far East like Henri Maspéro. Furthermore, he also advocated for social and civil reform in Indochina, under the form of the « A House for Everyone » movement founded in France. He only collected registration fees from twenty benefactors, totaling 2,000 đồng, so he could only print 60 copies. Afterwards, citing illness as a reason, but in reality because he did not complete the assigned administrative work, in 1919 he was allowed to return to France. In 1922, he retired and married but had no children. According to Pierre Huard, he lived in Spain from February 1932. From 1936, he was considered missing and there was no further news about him.

Nevertheless, Mr. Henri Oger succeeded in carrying out this work and left the Vietnamese people an invaluable treasure. His artistic work has remained little known to the French and Vietnamese public for many decades. Only in 1978 was an exhibition titled « Vietnamese Peasant Painters » held at the cultural center in the city of Bourges.

estampes_1

Three copies of his work are currently preserved in the national libraries of Hanoi and Saigon, but only in Saigon can complete volumes be found. Although the book « Techniques of the Annamites » does not have much scientific value, historically it is an extremely precious and unique old book at the beginning of the 20th century because it illustrates the life of the people of Hanoi and also preserves some customs that no longer exist today, according to the assessment of two associate professors from the École française d’Extrême-Orient, Olivier Tessier and Philippe Le Failler. Recently, in cooperation with the General Science Library of Ho Chi Minh City, the École française d’Extrême-Orient reprinted this rare work in three languages (Vietnamese, French, and English), in the form of books and electronic publications.

Additionally, this reprint included a translation into the national script of all annotations originally written in classical Chinese and Nom characters. This is also a way for the École française d’Extrême-Orient to acknowledge Henri Oger’s research work. Unlike his colleagues at the École française d’Extrême-Orient, Henri Oger was ahead of his time because he did not agree with the views of Western intellectuals at that time when colonialism was at its peak and everything had to serve that policy. On the contrary, he tried to immerse himself in the environment of the Vietnamese people, learned their native language, and spent two years hanging out with them to better understand their customs and describe them more accurately. Only ethnologists like Georges Condominas or he himself could accomplish this extraordinary task.

Bibliographie:

Introduction générale à l’étude de la technique du peuple annamite. 2 volumes. Editions: Geuthner-Jouve, Paris.
Huard Pierre: Le pionnier de la technologie vietnamienne. Henri Oger (1885-1936).  BEFO. Tome 57, 1970 pp  215-217
Tessier Olivier: Du geste au dessin. La vie à Hanoï au début du XXème siècle saisie par Henri Oger.  Arts asiatiques. Tome 66. 2011
Nguyễn Mạnh Hùng: Kỹ thuật của người An Nam. Quyển 1 Sách chuyên khảo. 

Áo dài (Tunique vietnamienne)

 

aodai

Version française

English version

Áo dài vẫn được xem là một trong những biểu tượng truyền thống của người dân Việt. Du khách nước ngoài đến Việt Nam có cơ hội nhìn thấy một phụ nữ mặc chiếc áo dài ở trên đường phố  hay là những ngày đầu năm Tết ở chùa hay nhà thờ. Đó là một chiếc áo dài bó sát bằng vải nhẹ, hở hai bên hông, mặc ở bên ngoài một quần ống rộng. Người du khách chắc chắn phải lặng người ngưỡng mộ trước vẻ đẹp thanh lịch hiện thân này. Không phải y phục nầy gợi lên sự ngưỡng mộ  mà đấy là mối quan hệ giữa người phụ nữ và chiếc áo dài hay là văn hóa. Tuy nhiên, áo dài chỉ có một lịch sử gần đây thôi. Nó chỉ có từ thế kỷ 18.

 Có ấn tượng trước  vẻ tao nhã của các trang phục Mãn Châu dưới thời nhà Thanh, một chúa Nguyễn tên là Võ Vương mới nghỉ ra  thiết kế ra một bộ trang phục cho dân tộc Việt lấy nguồn cảm hứng từ các mô hình Mãn Châu này. Phải mất một thế kỷ về sau, áo dài này mới được quần chúng chấp nhận dưới thời vua Minh Mạng.

Quelques tuniques sélectionnées

Trang phục này  trở thành là biểu tượng quốc gia với nhiều kiểu mẫu đa dạng không những về màu sắc mà cả hoa văn trang trí. Áo dài được người phụ nữ Việt Nam mặc nhiều nhất hiện nay trong những ngày lễ cổ truyền.

Version française

Áo dài est considérée toujours comme l’un des symboles du Vietnam traditionnel. Le touriste étranger qui débarque au Vietnam a l’occasion de voir une femme vêtue d’une « áo dài » dans la rue ou dans les premiers jours de notre nouvel an à la pagode ou à l’église. Il s’agit d’une longue tunique moulante en tissu léger, ouverte sur les côtés à partir de la taille et portée sur un pantalon large. Le touriste est muet sûrement d’admiration face à cette élégance incarnée. Ce n’est pas le costume qui provoque cette admiration mais plutôt la relation entre la femme et sa tunique ou sa culture. Pourtant l’áo dài n’a qu’une histoire récente. Elle ne date que du 18ème siècle.

Impressionné par l’élégance des costumes mandchous sous le règne des Qing, un seigneur Nguyễn  de nom  Võ Vương est venu de concevoir un costume national vietnamien en trouvant son inspiration dans ces modèles mandchous. Il faut attendre un siècle  plus tard pour que cette tunique soit adoptée définitivement dans les couches populaires durant le règne de l’empereur Minh Mạng.

Ce costume devient le symbole national avec des modèles de plus en plus variés non seulement  dans les coloris mais aussi dans les motifs de décoration. Il est le plus porté aujourd’hui par les Vietnamiennes dans les fêtes traditionnelles.

Musée de la tunique (Bảo tàng viện áo dài)

Vương Hồng Sển (1902-1996)

 

Vương Hồng Sển (1902-1996)

collection_vuonghongsen

English version

Vietnamese version

Né à Sóc Trăng dans le Sud Vietnam, Vương Hồng Sển était connu non seulement comme un collectionneur d’antiquités mais aussi un homme de grande culture. Dans ses écrits, il parlait de ce qu’il a connu ou il a vécu avec un style à la fois comique et déroutant. Pourtant ceux-ci constituent aujourd’hui un fond documentaire d’une valeur inestimable pour ceux qui aimeraient connaître la culture vietnamienne. Durant sa vie, il a eu l’occasion de collectionner plus de 800 objets en céramique parmi lesquels se trouvaient en grand nombre ceux à décor en deux couleurs (bleu et blanc) et datant de 18 ou 19 ème siècle. Avant sa mort, il a offert sa collection d’objets et tous ses écrits à l’Etat dans le seul but de pouvoir les préserver intégralement et d’apporter sa contribution à la recherche et à la sauvegarde du patrimoine culturel national.

Musée national d’histoire (Saïgon)

Galerie des photos

Version anglaise

Being born at Sóc Trăng in South Vietnam, Vương Hồng  Sển was known not only as a art collector but also a man of great culture. In his writings, he talked about  what he has known or he has lived with comic and disconcerting style. However these  writings  are today documentary resources of inestimable value for those who would like to be interested in Vietnamese culture. During his life, he had the opportunity to collect more than 800 pieces of art including a wide number of ceramic objects decorated with blue and white colours in  18th or 19th  century. Before his death,  he has offered his fine collection of objects and books to  State with the aim of  giving his contribution to the preservation of the national cultural heritage.

Version vietnamienne

Sưu tập Vương Hồng Sển

Sinh ở Sóc Trăng thuộc về miền nam Vietnam, Vương Hồng Sển là một nhà nghiên cứu văn hoá và sưu tập cổ vật nổi tiếng ở miền Nam. Trong các tác phẩm của ông, ông thường nói những gì ông hiểu biết và  tai nghe mắt thấy  với một lối viết văn rất khôi hài và nửa đùa nửa thật khiến người đọc khó quên và dễ say mê.  Tuy nhiên những tác phẩm nầy nó mang một giá trị vô giá cho những ai muốn biết và tìm hiểu thêm về văn hóa Việt Nam.  Trong suốt cuộc đời, ông đã say mê và thu thập được hơn 800 cổ vật mà trong đó gồm phần đông là các đồ gốm men xanh trắng từ thế kỷ  18 hay 19.  Đến cuối đời, ông cống hiến cho nhà nước toàn bộ cổ vật và sách viết với  chủ đích để tránh sự thất lạc và bảo tồn văn hóa quốc gia.

Céramique (Gốm Viet Nam)

 

gom

Version française

English version

Bất chấp sự thống trị lâu dài một ngàn năm của Trung Hoa ở  Vietnam, người ta rất ngạc nhiên khi nhận thấy quốc gia nầy  thành công  thể hiện xuất sắc được sự khác biệt  từ thế kỷ 14 trở đi trong lĩnh vực đồ  gốm. Do đó, Viet Nam trở thành một diễn viên  thiết yếu cho sự  phát triển thương mại mạnh mẽ ở Đông Nam Á trong lãnh vực đồ gốm với các thuyền bè và chiếc la bàn mà Viet nam đựợc biết đến từ thế kỷ thứ 11. Các cuộc khai quật dưới lòng biển của những con tàu có giá trị đến lịch sử gốm sứ Việt Nam trong những năm 1997-1999 ở Biển Đông, đặc biệt là ở đảo Cù Lao chàm (Poulo Cham) và đảo Hòn Dầm gần đảo Phú Quốc (Kiên Giang) khẳng định  lại vai trò chủ yếu mà Việt Nam đã đóng trong việc buôn bán đồ gốm lúc bấy giờ với vô số hiện vật vô giá trong đó  có một  chiếc bình sứ màu xanh và trắng có họa tiết thiên nga được công nhận từ đây là bảo vật quốc gia. 

Trong quyển  sách Suma Oriental (1515), sứ giã Bồ Đào Nha, Tomé Pirès  có tóm tắt lại tất cả các cuộc  trao đổi này và ghi nhận luôn việc sản xuất  đồ gốm mà Việt Nam dành riêng để bán cho Trung Hoa. Thậm chí vào thời điểm này còn có các đồ gốm hoa lam của Vietnam được nhái  trong  các lò nung Swatow  ở Trung Hoa. Theo nhà khảo cúu Pháp Philippe Colomban (CNRS) thì tính đặc thù của  đồ gốm Vietnam bắt đầu thể hiện cùng sự thành hình của một quốc gia độc lập. Các đồ gốm dưới hai triều Lý và Trần đều là đơn sắc. Ba loại men được trông thấy: men ngà, men nâu và men bắt chước ngọc từ màu xanh đến màu vàng. Từ khi Trung Quốc bị  xâm lược bởi  người Mông Cổ, đồ gốm Việt Nam được triều đình của hoàng đế nhà Nguyên Hốt Tất Liệt (Kubilai Khan) ưa chuộng vì thế trong các vật dụng mà Việt Nam phải cống nạp thì thấy ngoài những chiếc sừng của con tê giác và ngọc trai, còn có các chén sứ màu trắng.

Sự thành công  nầy phần lớn nhờ vào màu xanh của cobalt đã mang lại cho  nghệ thuật gốm Việt Nam một tinh thần  được tồn tại hai thế kỷ và dẩn đến sự chinh phục  được  các  người nước ngoài  ở  những vùng xa xôi  tại Á Châu. Đây là trường hợp của một bình lớn được tìm thấy ở cung điện Topkapi  (Istanbul) mang một dòng chữ bằng chữ Trung Hoa, màu xanh lam có thể đọc được bằng tiếng Việt: được vẽ với niềm vui của nghệ nhân Pei theo sau là chữ Thị (hiển nhiên một người đàn bà) ở huyện Nam Sách trong năm thứ 8 của Thái Hoà (1143-1459)  hoặc một đĩa hoa lam trang trí với các hoa được lưu giữ ở bảo tàng Ardabil (Tehéran).

Nếu màu xanh coban đã được biết đến ở Viet Nam trong một thời gian dài ngay cả trước cuộc xâm lăng của quân Minh bạo tàn thì việc sử dụng nó được áp đặt  chỉ vào những năm 1430-1450. Chính từ thời điểm này,  các đồ gốm đơn sắc được thay thế  bởi các đồ gốm hoa lam. Chính nhờ sự  thông thạo  hoàn hảo các kỹ thuật chế tạo, trang trí và  cách nung gốm mà nghệ nhân Vietnam Nam có thể trau dồi trí tưởng tượng của mình. Mặc dù  có những hạn chế  trong cách vẽ tô màu  nhất là không thể sửa chữa lại được, chúng ta nhận thấy sự xuất hiện trên  sành không chỉ  những hình vẽ phức tạp hơn mà còn có nhiều sắc tố  với các hình dạng và hoa tiết  nguyên bản khiến  biến nghệ nhân trở thành một nghệ sĩ xuất sắc. Nếu có  mượn một số lượng lớn các hình vẽ  trang trí từ Trung Quốc (hoa mẫu đơn, hoa sen, hoa, tán lá vân vân..), thì nghệ nhân Vietnam có ý tưởng tạo ra một phong cách  độc lập ít  có theo nghi thức và rạo rực hơn so với nghệ nhân Trung Hoa  qua sự sống động của nét vẽ và sự tự nhiên.  

Còn biết làm thế nào để thích ứng những yếu tố trang trí này theo phong cách Vietnam: cá vàng Trung Hoa  trở thành cá bống, một loài cá nước ngọt ở Vietnam. Chúng ta  cũng lưu ý rằng  các đồ gốm Viet Nam không bị ảnh hưởng phương Tây. Có sự liên tục trang trí đồng tâm trên các  đĩa Viet Nam. Đây không còn là trường hợp của Trung Quốc nữa từ khi quốc gia  này đã  khám phá  ra được phối cảnh từ triều đại Gia Kinh nhà Minh (1522-1566). Mặt khác,  các họa tiết ở trung tâm của các đĩa  thấy được rõ  ràng, có chất lượng vượt trội so với các họa tiết bổ sung, điều này chứng tỏ có sự tham gia  của nhiều  người thủ công trong  việc thực hiện.

Version française

Il est étonnant de constater que, malgré la longue  domination de la Chine durant 1000 ans sur le Vietnam, ce dernier arriva à se distinguer brillamment à partir du XIVème siècle dans le domaine de la céramique. Il devint ainsi un acteur essentiel du  commerce florissant du Sud-Est asiatique dans ce domaine avec ses jonques et sa boussole connue depuis le XIème  siècle. Les récentes fouilles sous-marines  des bateaux chargés de l’histoire de la céramique vietnamienne durant les années 1997-1999   dans la mer de l’Est en particulier  à l’île Poulo Cham (Cù Lao chàm) et l’île Hòn Dầm près de l’île de Phú Quốc (Kien Giang) confirment  le rôle  majeur qu’eut joué le Vietnam dans le commerce des céramiques vietnamiennes à cette époque avec la récupération de  plusieurs objets inestimables parmi lesquels figure le vase en porcelaine bleu et blanc avec les motifs de cygne  reconnu depuis comme le trésor national du Vietnam. Tome Pirès dans sa Suma Oriental (1515) résuma tous ces échanges et nota l’existence même d’une production céramique vietnamienne destinée à la vente pour la Chine. Il y eut même à cette époque l’imitation des bleu et blanc vietnamiens dans les fours chinois de Swatow. 

Selon le chercheur français Philippe Colomban du CNRS, la spécificité de la céramique vietnamienne  commença à se manifester à la naissance d’un Vietnam indépendant.  Les céramiques des Lý et Trần étaient monochromes. Trois types d’émaux étaient rencontrés: ivoire, brun et une couleur à l’imitation du jade, allant du vert au jaune. Lors de l’invasion de la Chine par les Mongols,  la céramique vietnamienne fut très appréciée par la cour de l’empereur  Kubilai Khan (Nguyên Thế Tổ) car dans le tribut  que  le Viet Nam  dut  lui apporter comportait outre les cornes de rhinocéros, des perles, des bols de porcelaine blanche. Son succès est dû en grande partie plus tard  au bleu de cobalt qui insuffle à l’art céramique vietnamien un esprit durant  pendant deux siècles et qui lui permet de conquérir le public étranger même dans les coins les plus refoulés de l’Asie. C’est le cas d’un grand vase- bouteille trouvé du palais Topkapi d’Istanbul portant une inscription en caractères chinois, en bleu sous couverte que l’on peut lire à la vietnamienne : Peint pour le plaisir par Pei suivi par le qualificatif Thi (désignant sans ambiguïté le sexe féminin)  de Nam Sách dans la 8ème année de Thái Hoà (1443-1459) ou un plat à décor floral bleu et blanc du Trésor d’Ardabil (Musée de Téhéran).

Si le bleu de cobalt fut connu au Vietnam depuis longtemps même avant l’invasion chinoise des Ming cruels, il apparaît que son utilisation s’imposa seulement autour des années 1430-1450. C’est à partir de cette époque que le bleu et blanc supplantèrent définitivement les céramiques monochromes.

Vase (Dynastie des Lê)
Photo Loan de Fontbrune

C’est grâce à la maîtrise parfaite des techniques de fabrication, de décoration et de cuisson que le potier vietnamien peut cultiver son imagination. Malgré des contraintes de la peinture sous couverte n’empêchant tout repentir, on voit apparaître sur le grès non seulement des dessins de plus en plus sophistiqués mais aussi une variété de pigments, une éruption de formes et des décors originaux qui l’érigent en artiste  distingué. Si celui-ci emprunte un bon nombre de dessins décoratifs à la Chine (pivoines, lotus, fleurs, rinceaux etc.), il a par contre l’idée de créer un style autonome moins hiératique et plus enjoué que son homologue chinois par la vivacité de son trait et par sa spontanéité.

Il sait adapter ces éléments décoratifs au style vietnamien: le poisson rouge chinois devenant ainsi un gobie  (Cá Bống), un poisson d’eau douce vietnamien. On note également que la céramique vietnamienne ne subit aucune influence occidentale. Il y a la continuité de l’ornementation concentrique sur les assiettes vietnamiennes. Ce n’est plus le cas de la Chine depuis que celle-ci découvrit la perspective à partir du règne de Jiajing (1522-1566). Par contre, la qualité du motif central trouvé sur les assiettes, est nettement supérieure à celle des motifs annexes, ce qui témoigne de l’intervention de plusieurs artisans dans leur réalisation.

Des céramiques vietnamiennes chargées d’histoire  (Philippe Colomban CNRS)

English version

It is astonishing to note that, despite China’s long domination over Vietnam for 1000 years, the latter managed to distinguish itself brilliantly from the 14th century onwards in the field of ceramics. It thus became a key player in the flourishing Southeast Asian trade in this field with its junks and its compass known since the 11th century. Recent underwater excavations of boats carrying the history of Vietnamese ceramics during the years 1997-1999 in the East Sea, particularly at Poulo Cham Island (Cù Lao Chàm) and Hòn Dầm Island near Phú Quốc Island (Kiên Giang), confirm the major role Vietnam played in the trade of Vietnamese ceramics at that time with the recovery of several priceless objects, among which is the blue and white porcelain vase with swan motifs now recognized as a national treasure of Vietnam. Tome Pirès, in his Suma Oriental (1515), summarized all these exchanges and noted the very existence of Vietnamese ceramic production intended for sale to China. At that time, there was even imitation of Vietnamese blue and white ceramics in the Chinese kilns of Swatow.

According to the French researcher Philippe Colomban from the CNRS, the specificity of Vietnamese ceramics began to manifest with the birth of an independent Vietnam. The ceramics of the Lý and Trần dynasties were monochrome. Three types of glazes were encountered: ivory, brown, and a jade imitation color, ranging from green to yellow. During the Mongol invasion of China, Vietnamese ceramics were highly appreciated by the court of Emperor Kubilai Khan (Nguyên Thế Tổ) because the tribute that Vietnam had to bring him included, besides rhinoceros horns and pearls, bowls of white porcelain. Its success is largely due later to cobalt blue, which infused Vietnamese ceramic art with a spirit lasting for two centuries and allowed it to conquer foreign audiences even in the most remote corners of Asia. This is the case of a large bottle-shaped vase found in the Topkapi Palace in Istanbul bearing an inscription in Chinese characters, in underglaze blue, which can be read in Vietnamese: Painted for pleasure by Pei followed by the qualifier Thi (unambiguously indicating the female gender) from Nam Sách in the 8th year of Thái Hoà (1443-1459), or a blue and white floral-decorated dish from the Ardabil Treasury (Tehran Museum).

Although cobalt blue had been known in Vietnam for a long time, even before the invasion of the cruel Ming Chinese, its use only became widespread around the years 1430-1450. It was from this period that blue and white definitively supplanted monochrome ceramics.
Thanks to the perfect mastery of manufacturing, decorating, and firing techniques, the Vietnamese potter could cultivate his imagination. Despite the constraints of underglaze painting that prevent any correction, not only increasingly sophisticated designs appear on the stoneware but also a variety of pigments, an eruption of forms, and original decorations that elevate him to the status of a distinguished artist. While he borrows many decorative designs from China (peonies, lotuses, flowers, scrolls, etc.), he has the idea to create an autonomous style that is less hieratic and more playful than his Chinese counterpart, through the liveliness of his line and his spontaneity.

He knows how to adapt these decorative elements to the Vietnamese style: the Chinese goldfish thus becoming a goby (Cá Bống), a Vietnamese freshwater fish. It is also noted that Vietnamese ceramics do not undergo any Western influence. There is a continuity of concentric ornamentation on Vietnamese plates. This is no longer the case in China since it discovered perspective starting from the reign of Jiajing (1522-1566). However, the quality of the central motif found on the plates is clearly superior to that of the secondary motifs, which indicates the involvement of several artisans in their creation.

Bình màu lam ở điện Tokapi (Istanbul, Thổ Nhi Kỳ)

Articles  trouvés concernant la céramique vietnamienne

La céramique vietnamienne (Philippe Colomban CNRS)
Des céramiques vietnamiennes chargées d’histoire  (Philippe Colomban CNRS)

[Return]

Art culinaire (Nghệ thuật ẩm thực của người Việt)

amthucvn

English version

Vietnamese version

Les Vietnamiens accordent une grande importance à l’art culinaire, en particulier à leur manger. Celui-ci est une première nécessité dans leur vie journalière et dans leur culture. Rien n’est surprenant de voir qu’un grand nombre de mots usuels ont été préfixés par le mot « ăn » bien que l’utilisation de ce dernier ne soit pas justifiée dans la signification de ces mots. Parmi ceux-ci, on peut citer: ăn nói ( parler ), ăn mặc ( habiller ), ăn ở ( vivre ), ăn tiêu ( consommer ) , ăn ngủ ( dormir ), ăn trộm ( voler ), ăn gian ( tricher ), ăn hối lộ (corrompre), ăn hiếp ( opprimer ) etc .. On a l’habitude de dire souvent : Trời đánh tránh bữa ăn pour dire que même Dieu n’ose pas déranger les Vietnamiens durant leur repas.

Leur manger est élaboré soigneusement selon le concept du Yin et du Yang et de 5 éléments (Thuyết Âm Dương Ngũ Hành) qui est à la base fondamentale de leur civilisation Văn Lang.  Yin -Yang (Âm Dương) est la représentation de deux pôles de toutes choses, une dualité à la fois contraire et complémentaire. Est de nature Yin tout ce qui est fluide, froid, humide, passif, sombre, intérieur, d’essence féminine comme le ciel, la lune, la nuit, l’eau, l’hiver. Est de nature Yang tout ce qui est solide, chaud, lumineux, actif, extérieur, d’essence masculine comme la terre, le soleil, le feu, l’été.  L’homme est le trait d’union entre ces deux pôles ou plutôt entre la Terre (Dương) et le Ciel ( Âm ). L’harmonie peut être trouvée seulement dans l’équilibre que l’homme apporte à son environnement, à son univers et à son corps. La nourriture des Vietnamiens trouve ainsi toute sa préparation méticuleuse et sa particularité dans la relation dialectique de la théorie du Yin et du Yang. Elle témoigne aussi du respect de la tradition culturelle millénaire d’un pays agricole et d’une civilisation connue pour la culture du riz avec sa technique de la rizière inondée (trồng lúa nước). C’est pour cela que le riz ne peut pas être manquant dans un repas vietnamien. Il est à la base d’un grand nombre de plats vietnamiens. (bánh cuốn, bánh xèo, phở, bún , bánh tráng, bánh chưng etc…..) (raviolis, crêpe, soupe tonkinoise, vermicelle, galette de riz, gâteau de riz etc ..). Le riz peut être complet, rond, long, concassé, parfumé, gluant etc … Plus qu’un aliment, le riz est pour les Vietnamiens la preuve intangible de leur culture Bai Yue, la trace d’une civilisation qui ne se perd pas sous le poids de la longue domination chinoise.

Âm Dương trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt

 

© Đặng Anh Tuấn

La manière de manger des Vietnamiens n’est pas étrangère non plus à la recherche du juste milieu prôné dans le concept du Yin et du Yang. « Manger ensemble » exige à leurs yeux un certain respect, un certain niveau de culture dans l’art de manger car il y a l’interdépendance indéniable des convives dans le partage alimentaire et spatial. On a l’habitude de dire : Ăn trông nồi , ngồi trông hướng. On doit faire attention à la marmite du riz lorsqu’on mange et à l’orientation au moment où on est assis. C’est la maxime que les parents vietnamiens ont l’habitude de dire à leurs enfants quand ils se mettaient à table et étaient encore de jeunes garçons. On doit se comporter au juste milieu lorsqu’on est invité à un repas. On n’a pas le droit de manger trop vite pour éviter d’être taxé d’impolitesse mais on ne peut pas manger trop lentement à son rythme car on peut laisser les autres convives dans l’attente. On n’est pas permis de vider les plats ou la marmitée car on se sent trop gourmand. Par contre, on ne connaît pas le savoir-vivre si on mange un tout petit peu, ce qui pourrait vexer l’hôte de la maison. Ce comportement circonspect peut être résumé par le dicton suivant: Ăn hết bị đòn, ăn còn mất vợ. (Vider la marmitée mérite une fessée, en laisser le reste conduit à la perte de l’épouse). C’est cette recherche constante de l’équilibre évoqué dans la théorie de Yin et de Yang que le Vietnamien doit exercer avec habileté dans un repas . On ne peut pas ignorer non plus le caractère « varié » que porte la nourriture vietnamienne. Celle-ci se caractérise par la diversité et l’exubérance visible des couleurs des ingrédients dans sa préparation.

Lire la suite

Etre femme au Vietnam

Người phụ nữ Vietnam

etre_femme

Être femme au Vietnam

English version

Version française

Việt Nam là một quốc gia mà Nho giáo có ảnh hưởng đáng kể đến đời sống chính trị và xã hội. Là triết lý nhà nước dưới thời Hán, Nho giáo nhiều lần được sử dụng làm mô hình duy nhất cho việc tổ chức nhà nước và xã hội Việt Nam. Ảnh hưởng Nho giáo này không phải là không liên quan đến những điều kiện truyền thống áp đặt lên người phụ nữ Việt Nam. Họ phải tuân theo luật tam tòng sau: Tam tòng:

Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử.

-vâng lời cha trước khi kết hôn,
-vâng lời chồng sau khi kết hôn,
-vâng lời con trai cả sau khi góa bụa.

Luật này đã được Nguyễn Trãi, cố vấn của vua Lê Lợi, nhắc lại trong « Gia Huấn Ca » vào đầu thế kỷ 15. Dưới triều Nguyễn, bộ luật Gia Long, có hiệu lực vào thế kỷ 19, là bộ luật lạc hậu và khắt khe nhất mà Việt Nam từng biết đến.

Mặc dù vậy, phụ nữ Việt Nam vẫn giữ vai trò chủ đạo trong gia đình và xã hội Việt Nam. Điều này được thể hiện qua các bài hát, bài thơ, truyện kể và những bài hát ru. Phụ nữ Việt Nam không chỉ được miêu tả là những sinh vật dịu dàng, ngoan ngoãn và đức hạnh, mà còn là những người chăm chỉ, được ban cho một lòng kiên nhẫn vô bờ bến.

Hai chị em Trưng Trắc Trưng Nhị là những nữ anh hùng được ca ngợi và tôn kính không kém gì các anh hùng Quang Trung, Hưng Đạo Vương, vân ân. Họ là những người phụ nữ đầu tiên nổi dậy, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của Trung Quốc. Họ cũng là những người phụ nữ sát cánh cùng nam giới trong cuộc đấu tranh giành độc lập. Trường hợp tiêu biểu nhất vẫn là nữ anh hùng Nguyễn Thị Giang. Theo truyền thống Việt Nam, bà đã tự sát vào năm 1930 sau khi chồng bà, nhà lãnh đạo quốc gia Nguyễn Thái Học, bị hành quyết.

Phụ nữ Việt Nam là hình mẫu hoàn hảo cho việc bảo vệ tổ quốc và danh dự quốc gia. Điều này được thể hiện rõ qua câu chuyện « Hòn Vọng Phu ». Đó là câu chuyện về một người phụ nữ đứng chết trân trên đỉnh đồi, bế con trên tay, chờ đợi người chồng đã ra đi biên cương trở về. Hình ảnh người phụ nữ mẫu mực này hiện diện ở nhiều nơi trên khắp lãnh thổ Việt Nam (Cao Bằng, Ninh Hòa, vân vân).

Người phụ nữ mẫu mực này cũng được tìm thấy trong truyện « Thiếu Phụ Nam Xương« . Đó là câu chuyện về một người phụ nữ đã tự tử vì bị chồng đánh giá sai về lòng chung thủy của mình. Đàn ông có quyền yếu đuối, nhưng phụ nữ thì không. Cô ấy phải là một hình mẫu hoàn hảo. Điều này đã gây ra nhiều tranh cãi và tranh cãi trong nhiều năm.

Một số phụ nữ đã cố gắng phá vỡ ách Nho giáo này. Một số phụ nữ đã cố gắng phá vỡ ách thống trị của Nho giáo. Đó là trường hợp của nhà thơ Hồ Xuân Hương, người đã phá vỡ những điều cấm kỵ bằng cách sáng tác những bài thơ gợi cảm vào cuối thế kỷ 18. Bà luôn khẳng định mình trên phương diện văn chương, như một người phụ nữ được giải phóng. Thơ của bà luôn tràn ngập những gợi cảm.

Sự phản đối mạnh mẽ này của một người phụ nữ trong xã hội Nho giáo có thể được tìm thấy trong bài thơ sau đây mô tả bánh Trôi Nước (một loại bánh trắng, tròn với phần nhân ngọt, được tắm trong nước đường caramen): 

Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bẩy nỗi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay trẻ nặng
Mà em vẫn giử tấm lòng son

Bà ám chỉ một người phụ nữ, vào thời điểm đó, bất chấp những ô uế của cơ thể và những khó khăn của cuộc sống, vẫn giữ được trái tim chung thủy và trong sáng. Bà cũng là người duy nhất dám đề cập đến quyền lợi của phái nữ và nói về tình yêu xác thịt mà không hề xấu hổ. Bà đã đi trước thời đại. Bà đã tránh được sự chỉ trích nhờ kỹ năng sử dụng ẩn dụ và ẩn dụ vô song. Bà đã dùng những miêu tả vô hại về phong cảnh và đồ vật để nói về sự khiêu dâm, về những điều thô tục nhất trong xã hội phong kiến.

Thậm chí còn có một giai thoại về bà, do chính nhà thơ Xuân Diệu kể lại: Một hôm trời mưa. Đường trơn trượt. Hồ Xuân Hương bỗng nhiên ngã. Bà nằm dài ra, hai tay giơ ra sau đầu, hai chân dang rộng. Bọn con trai cười ồ lên. Bà liền ứng khẩu làm một câu đối: 

Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài

Đây cũng là trường hợp của Ỷ Lan, người được vua Lý Thánh Tôn sủng ái. Bà đã lợi dụng chiến dịch chống Chiêm Thành của chồng để bảo vệ quyền nhiếp chính một cách xuất sắc. Vào thời điểm đó, bà đã thực hiện nhiều biện pháp xã hội đối với người nghèo, đặc biệt là đối với phụ nữ. Tuy nhiên, vào năm 1907, lần đầu tiên các lớp học dành cho nữ sinh được mở tại một trường tư thục. Phong trào nữ quyền bắt đầu được phát động.Ngày nay, mặc dù luật pháp thừa nhận bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội, nhưng sự bất bình đẳng này vẫn tồn tại trên thực tế.

Đây không còn là vấn đề pháp lý nữa, mà là vấn đề tâm lý. Tình trạng này vẫn tồn tại ở khắp mọi nơi, đặc biệt là ở các vùng nông thôn.

Le Vietnam est un pays où le confucianisme influe considérablement sur la vie politique et sur la société. Devenu philosophie d’état sous les Han, le confucianisme fut employé à plusieurs reprises comme le modèle unique de l’organisation de l’état et de la société vietnamienne. Cette emprise confucéenne n’est pas étrangère aux conditions traditionnelles imposées aux femmes vietnamiennes. Celles-ci sont soumises à la loi des trois obéissances suivantes: Tam Tòng:

Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử

   –obéissance au père avant le mariage,
   -obéissance au mari une fois mariée,
   -obéissance au fils aîné une fois veuve

Cette loi fut rappelée dans ses « Instructions familiales » ( Gia Huấn Ca ) par Nguyễn Trãi, le conseiller du roi Lê Lợi au début du XVème  siècle. Sous les Nguyễn, le code Gia Long qui était en vigueur au XIXème  siècle est le plus rétrograde et le plus rigoriste que le Vietnam ait connu.

Lire la suite

Héros du Vietnam (Anh hùng dân tộc)

Photo prise au musée d’histoire du Vietnam  (Saïgon)

French version

English version

histoire1

Các vị anh hùng dân tộc  Việt Nam

Trên con đường lịch sử của dân tộc Việt, danh sách các vị anh hùng nó dài đến mức mà ta không thể nêu lên được hết cả. Nhưng cũng không vì thế một người trai trẻ đất Việt lại không biết đến những bậc anh hùng như Trần Hưng Đạo,  Nguyễn Huệ và Lê Lai bởi vì các nhân vật này đều là một tấm gương mẫu mực để  mà chúng ta noi theo.

Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (1228- 1300)

Nghiệp lớn thuộc về người tài đức.

Đối mặt với  quân Nguyên gồm có 500.000 chiến binh hiếu chiến của  Hốt Tất Liệt, một quốc gia nhỏ bé như Việt Nam ta khó mà có thể chống lại cuộc xâm lược tàn bạo này. Mặc dù vậy, Việt Nam đã hai lần đánh bại quân Mông Cổ vào năm 1257 và năm 1287 bằng những chiến công hiển hách trên sông Bạch Ðằng nhờ tài năng của tướng Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn. Theo các nhà sử học, Việt Nam là quốc gia duy nhất ở châu Á và châu Âu đã thành công chống lại được cuộc xâm lược của người Mông Cổ vào thời điểm đó. Cũng không có gì ngạc nhiên cả nếu chúng ta hãy nhìn lại vào  tự truyện của vị tướng này. Có mối quan hệ mật thiết với hoàng tộc họ Trần, ông là một nhân vật phi thường. Ông biết  chú tâm lúc bấy giờ đến  mọi lực lượng chính trị của đất nước, khơi dậy tinh thần đoàn kết và  sức mạnh của cả một dân tộc với quân binh Việt Nam thông qua các hội đồng nhân dân  (như  Hôi Nghị Diên Hồng) và có  được dưới quyền  các đấng nam nhi tài năng trong đó có một nhân vật nổi bật nhất  là Phạm Ngũ Lão. Nhờ mưu lược  của ông  mà quân đội nhân dân Việt Nam đã tiêu diệt hoàn toàn quân Mông Cổ bằng cách đóng cọc ở giữa lòng sông Hồng khiến phá  vỡ  được  tất cả  thuyền bè  của chúng. Dù có những chiến công hiển hách nhưng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn biết rằng khó có thể thắng được kẻ thù hùng mạnh như quân Mông Cổ.

Nhận thức được thực tế địa lý và nhu cầu chính trị, ông biết tránh việc cắt  đứt hoàn toàn mối quan hệ với nước láng giềng hùng mạnh bằng cách đề nghị Việt Nam tiếp tục triều cống để đổi lại  có  được một nền hòa bình lâu dài. Nhờ có cái nhìn sáng suốt  của vị tướng này mà Việt Nam tìm  lại được một thời kỳ hòa bình và độc lập. Vị tướng này được người dân Việt rất hâm mộ vì họ tìm thấy ở  nơi  ông các  đức tính của một chính trị gia lỗi lạc.  Hồi ức của ông được tôn vinh hàng năm tại đền Kiếp Bắc.

Những lời khuyên mà ông dành cho vua Trần Anh Tôn trước khi ông qua đời vào năm 1300 được xem đây là những  tài liệu mà người  dân Việt tham khảo nhiều lần trong cuộc đấu tranh giành độc lập:

Khi kẻ thù tiến tới với tiếng vang ầm ĩ  như lửa và gió, thì  rất dễ dàng đánh bại nó. Nếu nó dùng tính kiên nhẫn như con tằm gặm lá dâu mà không mưu cầu thắng lợi nhanh chóng, không cướp bóc dân chúng thì chúng ta không chỉ cần tướng giỏi mà còn phải biết soạn thảo một  chiến thuật tương xứng  cũng như ở  trong ván cờ.

Trong mọi trường hợp, quân đội phải đoàn kết cùng một lòng như cha con một nhà, đối xử  dân chúng phải có tình người thì mới có thể bảo đảm được góc rễ ăn sâu  và  cơ sở mới được bền lâu.

Nguyễn Huệ (1753-1792)

Quang Trung Nguyễn Huê quê gốc ở Tây Sơn, nơi tổ tiên ông đã đến định cư để lánh nạn  chiến  tranh  giữa Trịnh-Nguyễn. Ông đã cùng với hai người anh của mình là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ dựng cờ  khởi nghĩa ở Tây Sơn, một vùng đất gần Quy Nhơn ở phía nam Việt Nam hiện nay. Tuy ở  độ trẻ tuổi nhưng ông đã đóng vai trò lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nầy mà còn là người điều hành công việc của Ðại Việt về sau khi diệt trừ được hai nhà Nguyễn và Trịnh.

Sự  thành công đầu tiên của ông là chiến thắng mà ông dành được trong công cuộc  chống lại quân Xiêm La với tốc độ thần sầu vào năm 1785 ở phía tây sông Cửu Long (Trận Rạch Gầm Xoài Mút, Mỹ Tho).  Vua Xiêm La đã gữi sang nước ta  một đạo quân nhầm để khôi phục lại ngai vàng cho Nguyễn Ánh.

Từ một đạo quân Xiêm gồm có lúc đầu 50.000 người chỉ còn lại 2.000 binh lính. Việc này chặn đứng ngay sự bành trướng của quân Xiêm về hướng Nam Kỳ.

Ông  được nổi tiếng phần lớn là do cách ông tiến hành cuộc đại chiến chống lại quân nhà Thanh vào năm 1788. Năm đó, được liên minh với vua bù nhìn Lê Chiêu Thống, quân Tàu kéo đến kinh đô Thăng Long mà không gặp  sự kháng cự nào. Tướng Ngô Văn Sỡ của Tây Sơn ở Thăng Long đành phải rút quân về Thanh Hóa. Nguyễn Huệ quyết định tấn công quân nhà Thanh vào ngày Tết khi kỷ cương có  phần lỏng  lẻo  ở quân xâm lược. Chỉ  trong 5 ngày, ông đã chiếm lại được kinh đô Thăng Long. Tựa như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Huệ tỏ vẻ ra khiêm tốn trước một Trung Quốc có sức mạnh vô song dù thất bại khiến ông khôi phục lại được hòa bình ở biên thùy.

Trong những năm trị vì, ông đã thành công áp đặt được chữ nôm làm chữ viết chính thức để thoát khỏi sự thống trị của nền văn hóa Trung Quốc. Mặc dù ông có ý chí cải cách đất nước, nhưng ông không có đủ thời gian để mà hoàn thành. Ông mất đi vào năm 1792, để lại một người thừa kế chỉ có 10 tuổi. Nhờ đó mà  Nguyễn Ánh, người cuối cùng còn sống sót lại của nhà Nguyễn, mới chinh phục dần dần lại đất nước và trở thành sau này là hoàng đế  Gia Long.

Đối với người dân Việt, Quang Trung không chỉ là một vị vua cải cách mà còn là một trong những nhà chiến lược nổi tiếng nhất của Việt Nam.

Người anh hùng Lê Lai

Lê Lai ông là một chiến sĩ nông dân ở vùng đất  Lam Sơn. Ông tham gia vào nhóm quân  của Lê-Lợi. Có biệt danh là người anh hùng áo vải  vì xuất thân từ gốc gác bình thường, Lê Lợi chọn Lam Sơn làm nơi tập hợp các nghĩa quân trong cuộc kháng chiến chống lại sự đô hộ của Trung Quốc vào thế kỷ 15. Chính ở trong giai đoạn chiến đấu quyết định, Lê Lợi bị quân nhà Minh bao vây ở núi Chí Linh quyết tâm bắt cho được ông để dẹp tắt cuộc  kháng chiến.

Ông ta mới  có ý tưởng tìm kiếm một người chấp nhận ngụy trang  thay thế ông và rút ​​lui theo hướng khác để đánh lừa quân nhà Minh và để  ông tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng. Trong số quân lính của  ông, có một tên lính tên là Nguyễn Thân đã đồng ý thực hiện mưu  kế này. Quả nhiên, quân nhà Minh truy đuổi Lê Lợi giả, bắt và giết hắn đi. Nhờ có Nguyễn Thân, Lê Lợi sau mười năm đấu tranh, mới  dành được  chiến thắng và thành lập lên nhà Lê trị vì được  gần một trăm năm.

Cảm phục sự hy sinh của Nguyễn Thân chết thay thế ông cho sự nghiệp cao cả của dân tộc, Lê Lợi sắc phong cho Nguyễn Thân  được mang họ Lê  và có  thụy hiệu là Lai và truyền  lệnh cho hậu thế lưu truyền lại ngày sinh nhật của Lê Lai tương ứng với tháng tám âm lịch mỗi năm. Điều này nhắc nhở giới trẻ Việt Nam phải ý thức  có được  tinh thần đoàn kết cao thượng cá nhân cho một đại chính nghĩa mà Lê Lai là một minh chứng tối cao nhất.

Version française

Sur le chemin de l’histoire du Vietnam, la liste des héros est tellement longue qu’il est difficile de les citer tous. Mais il est impensable pour un jeune vietnamien de ne pas connaître les héros tels que Lê Lai, Trần Hưng Ðạo et Quang Trung Nguyễn Huệ car ces personnages illustrent chacun un modèle exemplaire à suivre.

Lý Thường Kiệt: vainqueur des Song et des Chams

Trần Hưng Đạo: vainqueur des Mongols (ou des Yuan).

Nguyễn Trãi: vainqueur des Ming de Chou Di.

Nguyễn Huệ: vainqueur des Qing et des Siamois (Thaïs)

Des paroles inoubliables

Mieux vaut être un fantôme au Sud que devenir un prince du Nord.

Trần Bình Trọng (le général des Trần capturé et condamné à mort par les Yuan)

La vie est un jeu de hasard. La chance est contre nous. Mieux vaut mourir maintenant pour ce pays et laisser l’exemple du sacrifice.

Nguyễn Thái Học (le leader nationaliste guillotiné par les colonialistes français).


Trời đất nể nang người khí khái
Nước non tây vị kể tài tình

Le ciel et la Terre ont des égards pour les hommes de caractère
Les Monts et les Fleuves favorisent les gens de talent et de cœur.


Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn

(1228- 1300)

La grande destinée appartient à des gens de talent et de cœur
Nghiệp lớn thuộc về người tài đức.

Face à une armée mongole de 500.000 guerriers de Kubilai Khan, il est difficile pour un petit pays comme le Vietnam de résister à cette invasion barbare. Malgré cela, le Vietnam arriva à défaire les armées mongoles à deux reprises en 1257 et en 1287 par des victoires éclatantes sur le fleuve Bach Ðằng grâce au talent du général Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn. Au regard des historiens, le Vietnam est le seul pays d’Asie et d’Europe qui arriva à contrer l’invasion mongole à cette époque. Rien n’est étonnant si on jette un coup d’œil sur l’autobiographie de ce général. Étant un proche de la famille royale des Trần, il était un personnage hors du commun.

Kubilai Khan
Fondateur de la dynastie des Yuan
Petif-fils de Gengis Khan

Il sut canaliser à cette époque, toutes les forces politiques du pays, galvaniser l’esprit d’union et l’élan de tout un peuple avec l’armée vietnamienne à travers les assemblées populaires (Hôi Nghị Diên Hồng) et être entouré des hommes talentueux parmi lesquels figurait un personnage de valeur exceptionnelle de nom Phạm Ngũ Lão. Grâce au stratagème de celui-ci, l’armée populaire vietnamienne décima entièrement l’armée mongole en plantant dans le lit de la fleuve Rouge des pieux qui brisèrent toutes ses jonques. Malgré les victoires éclatantes, Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn sut qu’il était difficile de gagner la guerre face à un ennemi aussi puissant qu’était l’armée mongole.

Ðằng giang tự cổ huyết do hồng
Le fleuve Bạch Ðằng continue à être teinté avec du sang rouge.

Conscient des réalités géographiques et des nécessités politiques, il sut éviter de couper totalement les amarres avec son puissant voisin en proposant que le Vietnam continuait à verser des tributs en échange d’une paix durable. Grâce à la clairvoyance de ce général, le Vietnam retrouva une période de paix et d’indépendance. Ce général est très adulé par les Vietnamiens car on trouve en lui toutes les qualités d’un homme politique distingué. Sa mémoire est honorée tous les ans au temple de Kiếp Bắc.

Ses conseils qu’il a donnés au roi Trần Anh Tôn avant sa mort en 1300 servent maintes fois pour la plupart des Vietnamiens dans la lutte pour l’indépendance:

Quand l’ennemi s’avance à grand fracas comme le feu et le vent, il est facile de le vaincre. Quand l’ennemi s’avance à grand fracas comme le feu et le vent, il est facile de le vaincre. S’il use de la patience comme le ver de soie qui ronge la feuille du mûrier sans chercher une victoire rapide et sans dépouiller la population, il nous faut non seulement de bons généraux mais aussi une élaboration d’une tactique adéquate comme au jeu d’échecs.
De toute façon, il faut que l’armée soit unie, n’ayant qu’un cœur comme père et fils d’une même famille, que le peuple soit traité avec humanité pour pouvoir se garantir de profondes racines et d’une base durable.

Người anh hùng của dân tộc

Nguyễn Huệ

(1753-1792)

Quang Trung Nguyễn Huệ était originaire de Tây Sơn où étaient venus s’établir ses ancêtres pour fuir les guerres entre les Trịnh et les Nguyễn. Il diriga avec ses deux frères Nguyễn Nhạc et Nguyễn Lữ l’insurrection des Tây Sơn, une région se trouvant près de Quy Nhơn dans le sud du Vietnam d’aujourd’hui. Malgré son jeune âge, c’était lui qui joua le rôle de meneur dans cette révolte mais aussi dans la gestion des affaires du Ðại Viêt après avoir éliminé les Nguyễn et les Trịnh.

Son premier succès fut la victoire qu’il sut mener avec une rapidité effarante en 1785 dans l’ouest du Mékong contre les Siamois (Bataille Rạch Gầm Xoài Mút, Mỹ tho). Ceux-ci furent envoyés par le roi siamois pour rétablir Nguyễn Ánh sur le trône. De l’armée siamoise de 50.000 hommes au départ, il ne resta que 2000 hommes. Cela permit de couper net l’expansion siamoise en direction de la Cochinchine.

Sa renommée dut en grande partie à sa manière de mener la guerre éclair contre les Qing en 1788.

Cette année là, alliés avec le roi fantoche Lê Chiêu Thống, les Chinois arrivèrent devant la capitale Thăng Long sans aucune résistance, Ngô Văn Sỡ, le chef des Tây Sơn à Thăng Long ayant préféré de retirer ses troupes à Thanh Hoá. Nguyễn Huệ décida d’attaquer les Qing le jour du Tết où la discipline s’était relâchée chez les envahisseurs. En 5 jours, il arriva à reprendre la capitale Thăng Long. Comme Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Huệ fit preuve d’humilité face à la Chine dont la puissance était incomparable malgré sa défaite, ce qui lui restaura la paix sur la frontière. Durant ses années de règne, il imposa le nôm comme écriture officielle pour s’éloigner de la domination culturelle chinoise. Malgré sa volonté de réformer le pays, il n’eut pas assez de temps pour le faire. Il mourut en 1792, ne laissant qu’un héritier de 10 ans.

Ceci permit à Nguyễn Ánh, le dernier survivant de la dynastie des Nguyễn, de conquérir petit à petit tout le Vietnam et de devenir plus tard l’empereur Gia Long.

Quang Trung n’est pas non seulement pour la plupart des Vietnamiens un roi réformateur mais aussi l’un des stratèges vietnamiens les plus connu.

Le héros Lê Lai

Lê Lai était un soldat paysan originaire de la région de Lam Sơn. Il était engagé dans la troupe de Lê Lợi. En raison de ses modestes origines, Lê Lợi, surnommé le héros à « l’habit de cotonnade », a choisi Lam Sơn comme centre de ralliement de ses partisans dans la résistance contre la domination chinoise au XVème siècle. C’était dans une phase de lutte décisive que Lê Lợi était encerclé au mont de Chí Linh par les Chinois résolus de le capturer pour décapiter la résistance. Il eut l’idée de chercher quelqu’un qui accepterait de se déguiser sous son apparence et de battre en retraite dans une autre direction pour tromper les Ming dans leur poursuite et de lui permettre de s’échapper ainsi et de continuer la lutte de libération.

Parmi ses troupes, il y avait un soldat de nom Nguyễn Thân qui consentit à jouer ce stratagème. Comme prévu, les Chinois poursuivirent le faux Lê Lợi, le capturèrent et le tuèrent. Grâce à Nguyễn Thân, Lê Lợi, après dix années de lutte, triompha et fonda la dynastie des Lê qui allait régner près de cent ans.

Ayant admiré  le sacrifice de Nguyễn Thân de mourir à sa place pour la grande cause nationale, Lê Lợi accorda à ce dernier la faveur de porter le nom patronymique royal Lê et le nom individuel Lai et ordonna à la postérité de perpétuer l’anniversaire de Lê Lai qui correspond au huitième mois lunaire de chaque année. Cela permet de rappeler aux jeunes vietnamiens le sens sublime de solidarité de l’individu pour la grande cause dont Lê Lai est la suprême illustration.

 

Culture de Sa Huỳnh (Văn Hóa Sa Huỳnh)

 

sahuynh_titre

Version vietnamienne

English version

Réputée pour ses marais salants et sa belle plage, Sa Huỳnh (*) située dans la province de Quảng Ngãi ( Centre du Vietnam) est aussi la région où l’archéologue français M. Vinet découvrit en 1909 non loin du marais An Khê à Long Thạnh un étrange dépôt de 200 jarres funéraires provenant d’une brillante civilisation maritime à l’aide d’une inscription chame. Grâce à un heureux concours de circonstances, Mme Labarre, épouse d’un contrôleur du bureau local des douanes et passionnée d’archéologie, eut l’occasion de reprendre la fouille archéologique en 1923. Elle ne tarda pas à retrouver au sommet de dunes littorales un autre dépôt de 120 jarres en terre cuite jusque-là intact et proche du village de Phú Khương dans la même région. Un troisième site de 187 jarres rapporté plus tard par l’archéologue française Madeleine Colani en 1934 se trouvait à Tràng Long sur une dune de sable appelée localement sous le nom du « plateau des colliers » à cause d’une quantité énorme de colliers trouvés sur place.

C’était aussi la première archéologue à employer le terme scientifique Sa Huỳnh pour l’attribuer à cette culture. Puis c’était au tour de l’archéologue suédois O. Jansé de découvrir en 1939 à Phú Khương (Sa Huỳnh) une nécropole de 84 jarres. Cette découverte fut révélée tardivement dans un bref compte-rendu. Puis plus au Sud, près Xuân Lộc, à Hàng Gòn (Long Khánh, Đồng Nai), Dầu Giây et Phú Hoà, des champs de jarres analogues à ceux de Sa Huỳnh furent découverts malgré leur localisation dans l’aire appartenant à la civilisation de Đồng Nai (Văn hóa Nam Bộ) lors des travaux récents de E. Saurin (1973) et H. Fontaine (1972).

Des boucles d’oreilles

van-hoa-sa-huynh


(*) Au départ, c'est le nom Sa Hoàng donné à cette région.
 Comme le mot Hoàng était le prémom du seigneur Nguyễn Hoàng,
la dynastie des Nguyễn a changé dès lors Hoàng par le mot Huỳnh.

sahuynh

On constate que ceux-ci ont l’âge de la culture de Sa Huynh avec les datations au radiocarbone effectuées sur les débris de charbon de bois et des tessons contenus dans ces jarres. Il ne faut pas oublier de mentionner les champs de grandes jarres monolithiques et de pierres funéraires énigmatiques de Trần Ninh (ou Xieng Khouang) (Laos), attribués dubitativement au Ier siècle de notre ère par Madeleine Colani (1932) et continuant à garder jusqu’à aujourd’hui tous leurs secrets et à nous laisser une insatiable curiosité sur le lien et l’influence qu’ils pourraient avoir avec la culture de Sa Huỳnh. Celle-ci était supposée issue pourtant de la culture des jarres de pierre de Trần Ninh par Madeleine  Colani dans son ouvrage intitulé « Mégalithes du Haut Laos ».

Contemporaine de la civilisation de Dong Son  dans le delta du Fleuve Rouge, celle-ci était en plein épanouissement le long de la côte vietnamienne dans le centre du Vietnam (de Thừa Thiên Huế jusqu’à Ninh Thuận, Bình Thuận) entre 1000 ans avant J.C. et 200 après J.C. avant l’hindouisation de la région côtière. Ses sites furent découverts en grande partie à proximité des dunes, des étangs et des rivières. C’est pour cette raison qu’on lui donne aussi le nom de « civilisation des dunes et des étangs ( ou Văn hoá cồn bàu en vietnamien). Ses traces ont été trouvées non seulement dans les hauts plateaux du Centre ( Tây Nguyên) mais aussi dans l’archipel Cù Lao Chàm (Quảng Nam), l’île Cù Lao Ré (Quảng Ngãi) ou dans les ilôts de Nha Trang (Khánh Hoà), ce qui prouve bien que les gens de la culture de Sa Huynh étaient des excellents navigateurs.

Son étroit contact avec la civilisation de Đồng Nai n’était plus mis en doute lors des fouilles entamées dans les sites Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ (Cần Giờ, à une cinquantaine de kilomètres de Saigon ) car on trouve dans cette dernière certains éléments saillants de la culture de Sa Huynh au niveau de la poterie et d’ornement. Les méthodes de décoration trouvées dans la culture de Sa Huynh s’effectuent soit par l’incision soit par l’impression mais rarement par la peinture. Le décor pointillé est très fréquent. Il est incisé parfois de lignes croisées, dans le coquillage ou pointé de manière linéaire dans des zones triangulaires. Les couleurs fréquemment employées sont le rouge et le noir de plomb (đen ánh chì). On pense que dès le troisième millénaire avant J.C. était constitué en Asie du Sud Est un répertoire décoratif commun (fréquence de la double spirale, dents de scie, lignes pointillées, bandes sinueuses en crochets, triangles alternés ou inversés etc.) qui s’épanouit visiblement sur les jarres et les poteries de Sa Huynh.

Les sites rattachés ou en étroite relation avec la culture de Sa Huynh ne manquaient pas de s’en inspirer ou de s’en servir. C’est le cas de la grotte Kalanay de l’île Masbate (Philippines) où selon William Solheim II, des sépultures découvertes ont donné des poteries analogues à celles de Sa Huynh.(1). Mais l’archéologue vietnamien Hà Văn Tấn pense qu’il faut approfondir cette hypothèse avec des preuves supplémentaires bien qu’elle soit probable. (2). La culture Buni qui s’est développée de 400 avant J. C. à 100 après J.C. sur la côte nord de la partie occidentale de l’île de Java se caractérise par une poterie d’argile aux motifs décoratifs incisés et géométriques, ayant aussi des similitudes avec celle de la culture de Sa Huynh.

On trouve à l’intérieur de ces jarres une grande variété de poteries de forme et de dimensions différentes: marmites, écuelles, situles, vases, coupelles, assiettes, pots etc.. , des objets de parure: des perles en verre et en pierres dures ( cornaline, agate, grenat, zircon, titanomagnétite etc.) et des ornements d’oreilles. Ceux-ci sont en forme de disques fendus en pierre, verre, serpentine ou néphrite. Parfois, on trouve des colliers et des boucles d’oreille en or (Lai Nghi, Hội An 2004). Dans certains sites sahuynhiens, on découvre aussi des boucles d’oreilles à trois pointes (Khuyên tai ba mấu nhọn) ainsi que des pendants zoomorphes (Khuyên tai hai đầu thú) représentant deux protomes accolés d’animaux . Ces parures très originales constituent ainsi l’une des caractéristiques trouvées dans la culture de Sa Huynh.

1): W.G. Solheim, 1964, The archaeology of central Philippines. A study chiefly of the iron age and its relationships , 
Manila, National Institut of Sciences and Technology, monograph 10.
(2): Theo dấu văn hóa cổ. Hà Văn Tấn. Nhà Xuất Bản Khoa Học xã hội Hà Nội, Hà nội 1998

Lire la suite

Paysan (Nông dân)

paysan
English version

Version vietnamienne

Comme le Vietnam est un pays où le confucianisme influe considérablement sur la société, le paysan vietnamien est relayé toujours au second rang de l’échelle sociale par rapport à un lettré. Même dans la plupart des chansons populaires, on constate une préférence indéniable pour les lettrés. Le rêve d’avoir un mari lettré est toujours une obsession pour une jeune fille vietnamienne d’autrefois:

Chẳng tham ruộng cả ao liền
Tham vì cái bút cái ghiên anh đồ.

On n’a besoin ni des rizières immenses ni des mares entières
On aime seulement le pinceau et l’encre du lettré.

Pourtant, c’est grâce à son labeur et à sa sueur que le Vietnam devient actuellement le troisième exportateur du riz après les Etats-Unis et la Thaïlande. C’est aussi grâce à son sacrifice que le territoire du Vietnam s’agrandit de Lạng Sơn jusqu’à la pointe de Cà Mau.

C’est lui qui prit possession à partir du XVIème siècle, du territoire gorgé d’eau et de soleil qu’est notre Cochinchine lors de la longue marche vers le Sud. C’est encore lui qui devant une invasion doit courir prendre les armes pour défendre la patrie. C’est pourquoi on l’appelle souvent paysan soldat. C’est aussi lui qui s’est révolté le premier contre l’aristocratie et qui donne l’occasion aux frères Tây Sơn de conquérir le pouvoir en 1770 dans le centre du Vietnam. C’est aussi lui qui façonne le paysage des deux deltas, aucune parcelle cultivable ne restant inexploitée. On voit tous les jours dans les champs de ces deltas, des paysans et des paysannes penchées sous le chapeau conique, pieds et mains dans les glaises, continuant à arracher des plants de riz mis en pépinières ou à y les repiquer. Son existence est une lutte continuelle. Il aime davantage sa terre et sa précieuse céréale lui donne tant de soucis et d’ennuis. Il ne cesse pas de résister vaillamment aux intempéries de la nature: sécheresse, inondation, typhon etc.. Il a toujours pour hantise de dompter les eaux.

Travailler sur la terre, déjouer les calamités, prévenir les disettes. Cela suppose sa maîtrise parfaite en matière d’art hydraulique: construction des digues, creusement des canaux, colmatage des brèches, élévation des remparts etc.  C’est l’eau qui pétrit son épaisse identité. Il devient plus patient, plus têtu, plus laborieux et plus méthodique. Pour lui, le travail est une vertu suprême, une valeur en soi. Au Nord, le paysan est plus pauvre. Il s’habille de façon plus austère et se comporte avec plus de retenue. Même sur son visage, les pommettes sont plus saillantes, les traits sont plus marqués. Au Sud, le paysan est plus ouvert, moins réservé, plus roublard, plus frimeur et plus extraverti. Malgré cette différence, il y a un point commun entre le paysan du Nord et celui du Sud: le réalisme.

Le terre à terre l’emporte sur la sentimentalité. Son observation aigue de la réalité donne naissance à un humour souvent féroce envers d’autres classes, en particulier les bonzes, les sorciers, les charlatans, les aristocrates etc. Cet humour, on le trouve à travers les  » Ca Dao » (ou les poèmes populaires).

Thẩy địa, thầy bói, thầy đồng,
Nghe ba thầy ấy thì lông không còn.

Le géomancien, le voyant, le devin
En les écoutant, tu seras complètement dévalisé.

C’est aussi dans les chansons populaires qu’on trouve sa joie de vivre, sa simplicité, sa droiture, son économie. C’est dans ces damiers aquatiques et remplis de boue, jardinés avec minutie et économie que se révèle l’enracinement pluriséculaire du paysan lié à son labeur, ce qui fait de lui un combattant diligent et opiniâtre.

Pour le paysan vietnamien, son domaine, son terroir sont symbolisés par ce constant brassage de la terre (đất) et de l’eau (nước). C’est encore par ces mots đất nước qu’il désigne sa patrie.

Son attachement à cette terre est si profond qu’on peut dire en une seule phrase:

Son destin est celui du Viet Nam.

Galerie des photos

Version vietnamienne

Người nông dân

Vietnam là một quốc gia mà Khổng giáo có ảnh hưởng rất sâu đậm trong xã hội. Vì vậy người nông dân thường được đứng  hàng thứ hai  trong bậc thang xã hội so với sĩ phu. Bởi vậy trong các ca dao thường thấy sĩ phu được ưu đãi hiển nhiên. Bởi vậy thưở xưa chuyện mơ ước có một người chồng học thức là nổi ám ảnh đối với  nguời phụ nữ thời đó nên có câu ca dao như sau:

Chẳng tham ruộng cả ao liền
Tham vì cái bút cái nghiên anh đồ.

Tuy nhiên nhờ sự khó nhọc và mồ hôi của các người nông dân mà Vietnam trở thành quốc gia thứ ba xuất khẩu lúa gạo sau Mỹ Quốc và Thái Lan. Cũng nhờ sự hy sinh của họ mà đất nước Vietnam được mở rộng từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau. Chính nhờ họ mà mà mới chiếm hữu được từ thế kỷ 16 Nam bộ, nơi có nhiều sông nước và nắng nóng  trong cuộc Nam tiến đầy gian khổ.  Chính cũng nhờ họ bảo vệ non sông mỗi lần khi có sự xâm lăng của ngoại bang. Bởi vậy thường gọi họ là những người lính nông dân.  Cũng chính họ là những người phẫn uất đầu tiên chống lại các tầng lớp qúi tộc và tạo ra cho nhà Tây Sơn có cơ hội để cướp quyền lực vào năm 1770 ở miền trung Vietnam. Chính cũng họ là những người uốn nắng cảnh vật của hai vùng đồng bằng Vietnam. Không có vùng đất nào mà không được khai thác.  Mỗi ngày trên các cánh đồng của các đồng bằng nầy, cũng thấy lúc nào các nông dân nghiêng mình với chiếc nón lá, tay chân lắm bùn, đang trồng cấy lúa. Đời sống của họ là một cuộc đấu tranh liên tục. Họ yêu thương mảnh đất nầy. Hạt ngũ cốc qúi báu họ gieo đã bao lần mang lại cho họ biết bao nhiêu sự phiền muộn. Họ không ngần ngại hiên ngang chống lại thời tiết khắc nghiệt của thiên nhiên: hạn hán, lũ lụt, mưa bảo vân vân.

Lúc nào cũng có ở nơi họ nổi ám ảnh chinh phục được nước lũ. Sinh sống lam lũ với đất, chống lại các thiên tai, phòng bị các nạn đói kém, đó là  những chuyện họ cần biết nhất là họ cần thông thạo về ngành nghệ thuật thủy lực: xây dựng đê, đào kênh, đấp các nơi bị sạt lở đất, nâng lên thành lũy v.v… Chính nước tạo cho họ một bản sắc dày đặc. Họ trở nên kiên nhẫn, bướng bỉnh, siêng năng và tĩ mĩ hơn. Đối với họ, làm ruộng là một đức tính tối cao, một giá trị vốn có ở nơi họ. Ở miền bắc, người nông dân rất nghèo. Ăn mặc cũng có vẽ khắc khổ và cư xử có phần khiêm tốn hơn. Ngay ở trên khuôn mặt, thường thấy gò má nhô ra cùng các nét  đặc trưng có phần rõ rệt. Ở miền nam, người nông dân rất cởi mở, ít có dè dặt, ranh mãnh, khoác lác và dễ cảm xúc. Mặc dầu có sự khác biệt, họ cùng có một điểm chung đó là chủ nghĩa hiện thực.

Chính những khắc nghiệt trong cuộc sống hằng ngày chiếm phần ưu thế  hơn  tình cảm mà họ có. Sự quan sát sâu sắc của họ về hiện thực khiến nảy sinh sự hóm hỉnh không ít đối với các tầng lớp khác nhất là với các tu sĩ, pháp sư, lang băm, qúi tộc v.v… mà được nhận thấy  như trong câu ca dao nầy:

Thầy địa, thầy bói, thầy đồng
Nghe ba thầy đó thì long không còn

Chính qua các câu ca dao mộc mạc nầy mới thấy ở nơi họ có một niềm vui trong cuộc sống đơn giản cùng tính cương trực và tiết kiệm. Chính ở những các vùng đầm lầy ngập nước và bùn nầy mà được họ vun trồng một các tĩ mĩ và tiết kiệm mới thấy được từ bao nhiêu thế kỷ sự ăn sâu cội rễ của người nông dân với công việc khó nhọc khiến biến anh trở thành từ đó một người chiến binh siêng năng và kiên trì. Đối với người nông dân, đất đai sở hữu họ có thường được biểu trưng sự pha trộn liên tục đất và nước. Có thể vì thế họ thường gọi “Đất Nước” để ám chỉ xứ sở của họ. Sự gắn bó sâu sắc của họ với Đất Nước khiến chúng ta có thể khẳng định bằng một câu nói thôi:

 Định mệnh của họ là định mệnh của Việt Nam.

 

 

 

Histoire du Vietnam (Lịch Sử)

 

Vietnamese version

English version

Le mot Vietnam ne fut connu qu’au XIXème lorsque l’empereur Gia Long décida de rebaptiser le pays Nam Việt. Marco Polo l’a évoqué dans son récit de voyage intitulé Le livre des merveilles sous le nom Caugigui (Giao Chỉ Quán). Son histoire peut se résumer en quelques mots: combats pour l’indépendance, la conquête de nouvelles terres et l’unification du pays.

Les Vietnamiens apparurent pour la première fois à l’âge du Bronze (civilisation Ðồng Sơn). Au Xème siècle, ils réussirent à se libérer du joug des Han et ils commencèrent à entamer dès lors le mouvement Nam Tiến avec Lê Hoàn en tentant de progresser vers le Sud à partir du delta du Fleuve Rouge, le berceau de la nation vietnamienne. Celle- ci  poussa sans relâche de nouvelles cellules dans chaque parcelle de terre propice à son mode de culture. Elle s’appuya sur une multitude de petits foyers politiquement indépendants constitués par des soldats paysans et renforcés quelquefois par les troupes du pouvoir central, se comporta comme un gigantesque madrépore formant peu à peu son atoll, finissant par encercler et à assimiler le nouveau territoire  et agrandissant ainsi le Vietnam. Cela constitue un avantage indéniable pour une politique d’expansion mais cela suppose qu’il y ait  une autorité centrale toujours forte. Le sage Confucius avait déjà parlé de ces Vietnamiens dans son livre des Rites (ou Kinh Lễ). Grâce aux facultés préhensiles de leur gros orteil bien détaché de leurs autres doigts, ces Vietnamiens pouvaient traverser les rizières et escalader les montagnes sans jamais se lasser.

L’histoire du Vietnam ce n’est pas celle de dynasties ou de grands mouvements d’idées. Mais c’est l’histoire d’un peuple de paysans obstinés qui, de la frontière de Chine jusqu’à à la pointe de Cà-Mau, peine durement dans ses rizières et impose sa marque au paysage.

Au moindre relâchement de cette autorité, le pays s’émiette facilement. C’est l’une des raisons principales qui explique que l’histoire du Vietnam est une suite de troubles et de guerres éternelles. Le Vietnam  a l’avantage d’avoir une triple structure nationale cohérente: l’état bureaucratique construit sur le modèle confucéen autour de la fonction impériale, détentrice du mandat céleste, la famille et le village, conservatoires d’une civilisation paysanne vécue par chacun des Vietnamiens comme un attachement total aux forces du sol et aux ancêtres. Cette politique de grignotage de vers à soie a permis la lente absorption de l’espace occupé par les autres peuples indochinois khmer et Cham. Les vestiges de ces derniers trouvés actuellement dans le centre du Vietnam (Phan Thiết, Ðà-Nẳng etc.. ) et dans le delta du Mékong témoignent bien de cette conquête.  

L’attachement à l’indépendance a été maintes fois prouvé dans le passé et dans la guerre du Vietnam. Il lui faut de longs siècles de combats, de guerres, de douleurs et de secousses avant d’acquérir enfin aujourd’hui la taille d’un petit dragon en Asie. On trouve dans l’histoire du Vietnam  la grandeur d’un peuple vivant avec sa  dignité et trouvant sa noblesse dans sa pauvreté et ses souffrances. On y trouve deux mille ans de lutte constante contre l’eau et la nature, ce qui traduit non seulement un attachement profond à cette terre mais aussi un accord intime et profond de ces paysans avec cette nature. Paul Mus n’a pas hésité de le souligner dans son ouvrage intitulé « Vietnam, sociologie d’une guerre, Paris, le Seuil 1952« . Cet accord s’est révélé si intime que, partout où ces circonstances se sont réalisées aucun peuple n’a réussi à résister  à la poussée des Vietnamiens, pas plus qu’aucune force étrangère n’est ensuite venue à bout de leur accrochage sur le terrain.

Malgré l’occupation pendant un millénaire par les Chinois, les Vietnamiens, imprégnés de leur culture, ont conservé leur langue bien qu’elle soit  transcrite en chinois et romanisée plus tard après l’arrivée du jésuite Alexandre de Rhodes. Si les Vietnamiens n’ont refusé aucun apport de l’étranger, c’est qu’ils ont réussi à le « vietnamiser », à garder tout ce qui est cher à tout peuple du monde, les traditions. Ce sont celles qui sont transmises de génération en génération par des hommes frêles, les pieds enfouis dans la boue des rizières.

 

Comment ne pas s’attacher à ce Vietnam, ce pays perdu où le sacrifice n’est pas un vain mot. Ce sacrifice, on l’a trouvé maintes fois dans les annales de l’histoire du Vietnam. Mieux vaut être un fantôme au Sud que devenir un prince du Nord avait déclaré le général Trần Bình Trọng avant d’être exécuté par les Mongols en 1257. La vie est un jeu de hasard. La chance est contre nous. Mieux vaut mourir maintenant pour ce pays et laisser l’exemple du sacrifice, avait dit le leader nationaliste Nguyễn Thái Học avant d’être guillotiné le 17 juin 1930 à Yên Bái.

Comment effacer dans la mémoire collective le visage innocent du jeune empereur captif Hàm Nghi, exilé à 18 ans en Algérie, les larmes aux yeux?. Comment oublier la mort tragique de l’empereur exilé Duy Tân (un accident d’avion à OuBangui-Chari en Afrique) dont le retour annoncé aurait pu changer probablement en 1945 les événements regrettables de l’histoire du Vietnam durant les dernières décennies?

Comment ne pas regretter cette terre natale qui n’est pas pourtant tendre? C’est l’impression donnée par l’écrivain Huỳnh Quang Nhường dans son best-seller Mon pays perdu (The land I lost) édité par Castor Poche Flammarion.

 Un pays que j’aime arrive-t-il à exister encore au fil de son histoire?

                    –Citadelle en colimaçon et son mythe (Cổ Loa thành và huyền thoại)
                    –Arbalète magique (Huyền thoại Trọng Thủy et Mỵ Châu)