Gành Đá Đĩa (Phú Yên)

 

Gành Đá Đĩa (Phú Yên)

Version française

Gành Đá Đĩa  được  tọa lạc tại xã An Ninh Đông, thuộc huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Vào cuối năm 2020, gành nầy đã được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt về giá trị địa chất của nó ở Việt Nam. Tương tự như Giant’s Causeway ở Bắc  Ái Nhĩ Lan hoặc gành Jusangjeolli ở Hàn Quốc, gành  được đặc trưng bởi sự hình thành của 35.000 cột đá bazan với bề mặt gần như bằng phẳng và các hình dạng khác nhau: tròn, ngũ giác, lục giác, đa giác vân vân… xếp chồng lên nhau như các đĩa thức ăn  do sự nguội lạnh của dòng dung nham từ núi lửa phun trào ở cao nguyên Vân Hoà thuộc dãy núi  Trường Sơn, ở 30 cây số qua đường chim bay và do vết nứt tự nhiên đến  từ  các tác đồng co nhiệt khi tiếp xúc với nước lạnh đã có hàng triệu năm trước. Từ xa, người ta có ấn tượng như nhìn thấy một vách đá ven biển có hình dạng giống như một tổ ong kếch xù. Cao khoảng 50 mét và rộng hơn 200 thước, Gành Đá Đĩa đã trở thành điểm đến hàng đầu của tỉnh Phú Yên. Để phát triển du lịch, tỉnh Phú Yên gần đây  không ngần ngại đầu tư 11 tỷ đồng để phát triển khu địa chất này với bãi đậu xe rộng 4800 mét vuông, nhà hàng, cửa hàng lưu niệm vân vân… Thật đáng tiếc cho những ai yêu  thích vẻ đẹp hoang sơ và tự nhiên của địa danh nầy như mình. Đã đến lúc những người yêu thiên nhiên nên đến tham quan gành đá  đĩa vì nó sẽ không còn như vậy trong những năm tới đây.

 

 

Galerie des photos

La falaise des roches  prismatiques (Phú Yên).

Celle-ci est située  dans la commune d’An Ninh Đông, du district de Tuy An de la province Phú yên. Elle a été reconnue fin 2020 comme un site national unique pour ses valeurs géologiques au Viet Nam.  Analogue à la Chaussée des Géants en Irlande du Nord  ou à la falaise de Jusangjeolli de la Corée du Sud, elle se caractérise par la formation de 35.000  colonnes de  roches basaltiques avec des surfaces  à peu près plates et de différentes formes :  rondes, pentagones, hexagones, polygones etc… empilées comme des assiettes les unes sur les autres suite au refroidissement  d’une coulée de lave provenant de l’éruption volcanique du plateau de Vân Hoà de la chaîne anamitique Trường Sơn, à 30 km à vol d’oiseau  et à la fissure naturelle provoquée par des effets de contraction thermique en contact avec de  l’eau froide  il y a des millions d’années.  De loin, on a l’impression de voir un escarpement littoral en forme de nid géant d’abeille.  Haute d’environ 50 m et large de plus de 200 m, la falaise Đá Đĩa  devient depuis lors la destination phare de la province de Phú Yên. Pour développer le tourisme, celle-ci n’hésite pas à investir récemment 11 milliards de đồng pour aménager ce site géologique avec un parc de stationnement de 4800m2, des restaurants, des boutiques de souvenirs etc…C’est un grand dommage pour ceux qui aiment comme moi la beauté sauvage et naturelle de ce site. Il est temps pour les amoureux de la nature de le visiter car il ne sera plus le  même dans les années à venir.

Eglise Mằng Lăng (Tuy Hoà)

 

Nhà thờ Mằng Lăng (Tuy Hoà)
 
Đây là một công trình kiến trúc cổ theo phong cách gôtic được xây cất ở trong địa phận xã An Thạch, huyện Tuy An, cách thành phố Tuy Hòa (tỉnh Phú Yên) hơn 30 cây số về phía bắc dưới thời Pháp thuộc. Chính là một trong những nhà thờ lâu đời nhất ở Việt Nam mà cũng là một điểm tham quan mà người du khách không thể bỏ qua khi đã đến vùng đất xứ “Hoa Vàng Trên Cỏ Xanh”. Phong cách của nó đem lại không những sự sáng sủa nhờ có nhiều cửa sổ mà còn cao vút tạo ra sự tao nhã lạ thường nhất là ở truớc mặt tiền có hai lầu chuông và một hình hoa hồng trên cổng vào. Tại sao gọi gôtic ? Thuật ngữ gôtic dùng bởi người La Mã để ám chỉ dân Goth, dân mọi rợ đến từ phiá Bắc (đó là người Pháp thưở xưa). Tại sao nhà thờ nầy được gọi là Mằng Lăng ? Một cái tên nghe nói đến rất xa lạ nhưng theo các người địa phương ở nơi nầy thì vùng đất nầy một thời có một loại cây có hoa màu tím rất xinh đẹp cùng họ với cây bằng lăng nên vì thế cư dân ở đây gán cho nhà thờ nầy với cái tên bình dị và mộc mạc Mằng Lăng luôn thể. Chính cũng ở đây du khách có thể chiêm ngưỡng ở trong hang động giả tạo của nhà thờ một quyển sách đầu tiên của nước ta mà được giáo sĩ Alexandre de Rhodes soạn ra bằng quốc ngữ với tựa đề là “Phép giảng tám ngày”. Nhà thờ Mằng Lăng làm tụi nầy phải ngẩn ngơ và rạo rực trong lòng không ít khi đến tham quan trước vẽ đẹp duyên dáng được gia tăng thêm bởi ngày tháng với màu xanh xám cũ kĩ của nó.
 
Galerie des photos
mang_lang-2
L’église Mằng Lăng (Tuy hoà)
 
C’est un ancien ouvrage d’architecture gothique construit sur le territoire de la commune d’An Thach, district de Tùy An, à plus de 30 kilomètres au nord de la ville de Tuy Hoà (province de Phú Yên) à l’époque coloniale française. C’est aussi l’une des plus anciennes églises du Vietnam mais elle devient aussi aujourd’hui l’un des sites touristiques importants que les touristes ne peuvent pas ignorer lorsqu’ils ont l’occasion de venir au pays des « fleurs jaunes sur la prairie verte ». Le style gothique apporte non seulement la lumière grâce à un nombre élevé de fenêtres mais aussi l’élévation de la hauteur et la finesse extraordinaire, en particulier sur la façade d’entrée avec deux clocher-tours entourant une rosace au dessus du portail. Pourquoi gothique ? Ce mot est employé par les Romains pour faire allusion à des Goths, des peuplades barbares situées dans le Nord de l’Europe (les Français d’autrefois).
Pourquoi cette église s’appelle-t-elle Mằng Lăng ? Un nom semble très étrange, mais d’après les gens d’ici, cette région possédait autrefois un très bel arbre aux fleurs violettes de la même famille que le lilas des Indes. C’est pour cela qu’ils ont attribué à cette église le nom simple et familier Mằng Lăng. C’est aussi ici que les visiteurs peuvent admirer, dans la grotte artificielle de l’église, le premier livre de notre pays qui a été rédigé par le missionnaire jésuite Alexandre de Rhodes dans la langue nationale romanisée avec le titre « Prédication de huit jours ». L’église de Mằng Lăng nous a rendu hébétés et remplis d’admiration beaucoup devant sa beauté gracieuse renforcée au fil des années par sa vieille couleur gris-verdâtre au moment de notre visite.

Espace touristique Quảng Đức

Không gian du lịch Quảng Đức

Version française

Sáng nay sau khi ăn điểm tâm xong với chú tài xế, tụi nầy mới khởi đầu cuộc tham quan ở phía bắc Tuy Hoà. Trên đường đi có ghé tham quan không gian du lich Quảng Đức được nằm ngay đầu đường rẽ vào lối đi Gành Đá Đĩa. Ngoài nhà của quan Tổng Trấn thì có thêm nhà cổ Quảng Đức và nhà Ô Loan. Nhà ở nơi nầy là một loại nhà trệt truyền thống của cư dân bản địa. Ở đây tụi nầy được xem các di vật, cổ vật và đồ gốm được lưu giữ và minh chứng một vùng đất phồn thịnh. Giá vào cửa là 60.000 đồng nhưng ngược lại có được một tách trà và một bánh đặc sản của vùng Phú Yên trong vườn. Đây là một không gian xưa đầy hoài niệm của một thời xa xôi, một nơi quá thơ mộng và bình yên khiến cũng để lại cho tụi nầy ít nhiều một ấn tượng tuyệt vời.

 

L’espace touristique Quảng Đức.

Ce matin, après notre petit déjeuner avec le chauffeur dans le centre-ville, nous avons commencé notre tour par le nord de la ville de Tuy Hòa. Sur le chemin, nous avons visité l’espace touristique Quảng Đức situé au début de la route qui nous permet de faire la déviation vers le récif de Đá Đĩa. Outre la résidence du gouverneur, cet espace comporte les vieilles maisons Quảng Đức et Ô Loan. C’est un type de maison traditionnelle bâtie au raz du sol par les gens d’ici. C’est ici que nous trouvons des reliques, des antiquités et des poteries bien conservées témoignant de la prospérité de la région. Le billet d’entrée coûte 60.000 piastres. Par contre on a le droit d’avoir une tasse de thé et un petit gâteau, une spécialité de la la région Phú Yên dans le jardin. C’est un espace ancien plein de nostalgie d’une époque lointaine, un lieu si poétique et paisible qu’il nous a également laissé plus ou moins une impression remarquable.

 

Tuy Hoà (Phú Yên)

Du lịch bụi ở miền trung (Tuy Hoà, Phú Yên) 

Galerie des photos

Version française

Tụi nầy chọn phương tiện thích nghi và tự do  cho tụi nầy để đến tham quan miền trung nhưng chưa biết trước là đến như thể nào, ngủ ở đâu, ăn uống  và tham quan như sao nhưng theo sư suy nghĩ của mình thì còn tùy duyên của mình có được hay không mà thôi. Đi theo tour là không thích cho mấy, sáng phải thức sớm ăn điểm tâm rồi sau đó cứ chạy theo cờ của người hướng dẫn chỉ xem qua loa những địa danh, ăn trưa ở những nhà hàng mà người hướng dẫn chĩ định rồi còn đến sau đó những nơi mà công ty du lịch có hợp đồng để xem mua những đặc sản, những gì họ muốn  thuyết phục bán cho du khách rồi 4, 5 giờ chiều mới được về khách sạn chờ đợi ăn cơm tối, đừ cả người, cứ vậy cho đến ngày trở về. Đôi khi còn ăn những món mà mình không ngờ như nem, súp, khoai tây chiên khi có các du khách phương tây đi theo tour chung mà tiền tour cũng không rẽ, tính ra còn mắc hơn đi du lịch bụi của tụi nầy. Tụi nầy có đi  một lần về VN như vậy. Bởi vậy tụi nầy tự mua vé máy bay đi Tuy Hoà tự kiếm khách sạn ở, tự ăn lấy,  học hỏi được nhiều và thoả mái chụp hình. ACE có đi như tụi nầy thì nên chọn hàng không Vietnam Airlines dù vé đắt hơn các hàng không khác nhưng ít khi trễ giờ so với Viet Jet vã lại khỏi lo  chuyện kilô hành lí, mỗi người 23 kí chớ Việt Jet là phải trả kí thêm. Nghe nói hàng không low cost Bamboo cũng tuân thủ  nghiêm túc giờ giấc  trong các chuyến bay quốc nội.

Tại sao  tụi nầy chọn đi Tuy Hoà?  Đây là một thành phố ven biển  vẫn còn giữ được nét đẹp hoang sơ  mà chưa  được du khách nước ngoài biết nhiều như Nha Trang, Hội An, Đà Nẵng  nhưng cũng chẳng  không còn bao lâu đâu vì có nhiều dự  án kiến  trúc và thiết  kế ở trung tâm thành phố đang tiến hành một cách nhanh chóng. Người dân ở đây cũng hiền hoà. Cuộc sống không có náo nhiệt, các đường xá không có rộn rịp như ở Hànội hay Saigon.  Vì lý do bỏ ý đinh đi miền tây một tuần nên tụi nầy không giữ sớm phòng ở khách sạn Coconut ở đường Hùng Vương mà được các du khách ngoại quốc đánh giá là tốt nên tụi nầy chọn một khách sạn khác  ở gần trung tâm thương mại Vincom tên là Triệu Dâng tiện bề cho việc ăn uống và di chuyển chiều tối, giá cả cũng phải chẵng, có đều không có thang máy, khiên vali hơi mệt hên là mình có cháu Jérémy khuân vác rất giỏi. Có nhiều khách sạn ở sông cầu sát bên bãi biển rất đẹp rất yên tĩnh và hữu tình nhưng m ình cảm nhận di chuyển là cả một vấn đề cho tụi nầy mà luôn cả vấn đề  an ninh ban đêm. Ở Việt Nam đi đâu cũng trả tiền mặt mà trả bằng thẻ Visa thì có nơi không lấy khi ở khách sạn  vì số tiền thu ê  không nhiều mà còn đôi khi phải  trả thêm 3% cho chi phí ngân hàng VN nữa đấy. Mình dùng thẻ Visa khi mua vé máy bay vì  được có bảo hiểm của Visa còn không thì  trả tiền mặt chớ trả không đáng về Pháp mặc sức ngân hàng nó tính tiền lời. Số tiền mặt mang theo tụi nầy cũng dễ mất, dễ lẫn lộn (tờ 500.000 đồng với tờ 20.000 đồng mình đã bị lầm rồi) mà còn c ó  nguy hiểm cho tính mạng nhất là tụi nầy  có 45 ngày phải tiêu thụ  thanh to án tất cả bằng tiền mặt trong việc ăn uống,  khách sạn, xe cộ di chuyển vân vân.. tính ra cũng có cả chục triệu bạc mang theo người nhất là không thể đổi tiền trong lúc đi t ỉnh nầy qua tỉnh kia vì quá mất thì giờ. Đây cũng là một vấn đề mình cần phải để ý và tự giải quyết trong suốt hành trình. Chớ đi tour thì quá dễ chỉ trả tiền cho công ty tổ chức tour  bằng thẻ  visa là xong. Muốn đi tới Phú Yên thì có hai cách một là đi máy bay hay là đi tàu hỏa khởi đầu   từ thành phố Hồ Chí Minh. Tụi nầy chọn đi máy bay vì ít có mất thời gian trong cuộc hành trình của tụi nầy nhất là vé máy bay đã mua từ Huế ra Hà Nôi là trưa ngày 23/7, không thể để mất ngày trong cuộc hành trình khởi đầu từ 7/7 để đến Phú Yên. Thành phố  nầy  cách Bình Định chỉ có 80 cây số nhưng muốn đến đây chỉ có cách đi tàu hỏa hay là mướn xe, không có  phương tiện nào khác. Đi bụi như tụi nầy cũng không có đơn giản nhưng mình rất thích vì có thì giờ khảo sát tỉ mỉ nơi tham quan, ăn chi mình thích và chụp hình thỏa mái. Không thích ở thì có thể đi, không bị gò bó chi cả. Từ 2018 mình thường dùng phương tiện mướn xe có tài xế mà đi tham quan đất nước.  Trưa ngày 7/7 tụi nầy đến phi trường Đông Tác và lấy hành lý cũng mau. Ra khỏi phi trường thì tụi nầy được về thành phố Tuy Hoà với một chú tài xế cỡ độ 55 tuổi. Chú nầy  rất lanh lẹ và hiểu biết về thành phố Tuy Hoà nhiều lắm. Đây cũng là cái duyên của tụi nầy trong lúc nói chuyện, được biết chú hay thường chở Việt kiều ở Mỹ đi tham quan thành phố lắm. Chú chịu làm bản hợp đồng đi tour với tụi nầy 2 ngày liên tục, ngày đầu ở phía bắc Tuy Hoà và ngày kế ở phiá nam nhưng ở phía bắc nhiều điểm tham quan nên gíá tiền đắt hơn là 850.000 đồng (35 euros) còn phía nam ít điểm tham quan thi 750.000 đồng. Trong tờ giấy hợp đồng thì thời gian xuất phát là 7 giờ sáng và kết thúc 17 giờ chiều cùng ngày. Mình mới nghe thì đồng ý  liền vì có đến 10 tiếng để đi tham quan ăn uống nhưng thật sự cỡ 2 giờ trưa tụi nầy đuối sức  đòi về  ngay vì quá nóng vã lại đã tham quan xong  tất cả các nơi cần đến rồi. Chú tài xế nói vậy để làm vừa lòng mình chớ chú cũng biết nóng như vầy làm gì mình có thích cũng không đi nổi mà chú cũng không có tiền đâu mà đổ xăng cho 10 tiếng. Ngày đầu, 7 giờ sáng, chú đến khách sạn, chú đưa tụi nầy đi ăn điểm tâm. Mình thấy để chú chờ tụi nầy cũng kỳ lắm nên mời chú ngồi  ăn luôn nên từ đó có sự thông cảm và thân mật giữa chú và tụi nầy. Chính chú  trợ giúp mình không ít khi đi đến gành đá đĩa, những nơi cheo leo có thể xảy ra khó khăn cho mình dễ bị té lắm tuy rằng mình có chuẫn bị sẵn có các bao đầu gối (genouillères), đôi giày không trợt Timberland để đi bộ. Phải nói tùy cách cư xử của mình mà có được sự giúp đỡ như vậy. Chính chú chở tụi nầy lên Bình Định, quê quán của  nhà Tây Sơn  đấy, một kỷ niệm khó quên ở nơi mình.

     –Ở phiá bắc Tuy Hoà.

     – Ở phiá nam Tuy Hoà

Galerie des photos (Tuy Hoà 2022)

 Voyager autrement dans le centre du Viet Nam.  (Tuy Hoà, Phú Yên)                                   

Nous choisissons le moyen de transport  approprié  et autonome pour nous permettre  de visiter le centre du Vietnam mais nous ne savons pas à l’avance comment ça va se passer, où nous allons dormir, manger et visiter, mais à mon avis, cela dépend encore de notre chance. En prenant l’excursion organisée par les agences de voyage au Viet Nam,  on est obligé de se  réveiller tôt le matin pour prendre le petit-déjeuner, poursuivre ensuite le guide avec son drapeau pour visiter rapidement  les sites touristiques,  déjeuner vers midi dans les restaurants désignés par le guide, aller dans des endroits où les boutiques ont des contrats avec les agences de voyage  pour voir et acheter leurs  produits qu’elles veulent vendre aux touristes  et rentrer à l’hôtel  vers 16 ou 17 heures dans l’attente du dîner, et ainsi de suite jusqu’au jour du retour. Parfois on prend même des plats inattendus comme des nems, de la   soupe aux légumes, des frites quand il y a des touristes occidentaux  dans le voyage organisé  mais le prix n’est pas donné, c’est plus cher que celui de notre voyage autonome.  Nous prenons la décision d’acheter tous seuls  nos billets d’avion pour Tuy Hòa, réserver nous-mêmes  l’hôtel, manger  ce qui nous plaît, apprendre un tas de choses et prendre  des photos librement. Si tout le monde veut  faire un jour comme nous,  il vaut mieux choisir Vietnam Airlines même si les billets d’avion sont plus chers que ceux des  autres compagnies aériennes car leur vol est rarement en retard par rapport à celui des compagnies vietnamiennes  à bas prix (Viet Jet par exemple). De plus on ne se soucie pas des bagages car chaque voyageur a le droit d’avoir 23 kg inclus dans le prix du billet. Ce n’est pas le cas des compagnies à bas prix où on doit payer toujours  un supplément. On a entendu dire que la compagnie aérienne Bamboo  respecte strictement l’heure sur les vols intérieurs.

Pourquoi avons-nous choisi d’aller à Tuy Hoà (Phú Yên)? Cette ville côtière  conserve encore la beauté sauvage qui est méconnue jusque-là par la plupart des  touristes étrangers. Ce n’est le cas  de Nha Trang, Hội An (Faifo) et Đà Nẵng, mais cela ne continue  pas à durer longtemps car il y a de nombreux projets  d’architecture et d’urbanisme dans le centre-ville qui sont en train de se réaliser rapidement. Les gens d’ici sont aussi gentils. La vie n’est pas trépidante, les rues ne sont pas aussi animées qu’à Hanoï ou Saigon. À cause de notre changement d’avis  à la dernière minute pour ne pas aller dans le  delta du Mékong pour une semaine, nous n’avons pas eu le temps de réserver  tôt une  chambre à l’hôtel Coconut situé sur le boulevard Hùng Vương et apprécié par les touristes étrangers. Nous devons donc choisir un hôtel proche du centre commercial Vincom appelé Triệu Dâng pour une question de pratique courante (pouvoir manger et nous  déplacer facilement le soir).  Le prix de la chambre est aussi abordable mais il n’y a pas d’ascenseur dans cet hôtel, ce qui nous oblige de porter les valises jusqu’au deuxième étage. Je n’ai pas de souci  car j’ai toujours un très bon porteur Jérémy. Il y a de nombreux hôtels charmants et  calmes  au bord de la mer à la ville Sông Cầu située dans le nord de Tuy Hoà mais le déplacement y reste  un gros problème pour nous ainsi que  la sécurité  durant la nuit. Au Vietnam, on  est habitué à régler partout en espèces mais le paiement par carte Visa n’est pas accepté partout dans les hôtels car le montant n’est pas très élevé, mais il faut payer parfois 3% de plus pour les frais bancaires vietnamiens. J’utilise seulement la  carte Visa lors de l’achat des  billets d’avion car nous sommes couverts dans ce cas par l’assurance Visa sinon  je paie cash en espèces car cela ne vaut pas le coup avec les petites sommes. La banque française facture quand même des intérêts. La somme  d’argent que nous avons  emmenée est énorme et facile à perdre et  à provoquer parfois la confusion (le billet de 500 000 VND est confondu facilement avec le billet de 20 000 VND). Elle met également notre vie en danger lorsque nous avons  surtout 45 jours  pour payer tout en espèces pour les restaurants, les hôtels, les taxis etc.. Nous devons emmener cette somme d’argent avec nous durant le voyage et éviter  les transactions monétaires (euro en đồng)  d’une ville à une autre durant le trajet de notre voyage car cela nous fait perdre du temps  dans la recherche d’une agence de change.

C’est aussi un problème épineux  auquel je dois faire attention et que je dois résoudre moi-même pendant le voyage. Partir en excursion avec une agence de voyage, c’est trop facile. Il suffit de payer en une fois par carte bancaire  la somme réclamée par l’agence de voyage.

Si vous souhaitez vous rendre à Phú Yên, il existe deux moyens soit  en avion soit en train au départ de Hồ Chí  Minh Ville. Nous avons choisi de prendre l’avion car il y a moins de temps à perdre dans notre plan de voyage, d’autant plus que le billet d’avion acheté  pour aller de Hué à Hanoï a été fixé à midi le 23 Juillet 2022. Il nous est  impossible de perdre une journée entière le  7 Juillet 2022   à Phú Yên. Celle-ci  n’est qu’à 80 kilomètres de la ville Binh Định, la terre natale du héros Nguyễn Huệ mais si vous voulez venir ici, vous ne pouvez que prendre le train ou louer une voiture. Notre manière de voyager autrement n’est pas assez simple mais je l’aime beaucoup car j’ai le temps d’explorer l’endroit visité, manger quelque chose qui me plait ou une spécialité du coin et faire les photos avec satisfaction. On peut partir si on n’aime pas l’endroit visité. Depuis 2018, je suis habitué à louer une voiture avec chauffeur pour visiter le pays. Lors de notre arrivée à l’aéroport Đông Tác de la ville Phú Yên le 7 Juillet à midi, nous avons récupéré rapidement nos deux valises. Nous avons réussi à prendre un taxi à l’aéroport pour nous rendre dans le centre ville avec un chauffeur âgé d’à peu près de 55 ans.  Celui-ci est très vif et connait parfaitement la ville Phú Yên de A jusqu’à Z car il a eu l’occasion de faire visiter aux touristes américains d’origine vietnamienne des sites connus  en tant que guide local. C’est ce que j’ai appris durant la conversation. Il a accepté de faire un contrat d’engagement avec nous dans le but de nous faire visiter tous les sites touristiques de Phú Yên dans les deux jours consécutifs: le premier jour dans le nord de Phú Yên et le deuxième jour dans le sud. Comme dans le nord il y a plus de sites à visiter, le prix est un peu plus élevé: 850.000 piastres tandis que dans le sud il ne prend que 750.000 piastres car il y a moins de sites à explorer. Dans son contrat, il s’engage à venir nous chercher à l’hôtel à 7 heures  du matin et à terminer l’excursion  à 17h  de l’après midi. En lisant son contrat, je n’hésite pas à accepter sa proposition. Avec dix heures d’excursion, j’ai tout le temps disponible pour explorer les sites et faire des photos à ma guise. C’est superbe mais vers 14 h de l’après-midi nous voulons rentrer à l’hôtel car il fait tellement chaud sous un soleil accablant et surtout nous sommes épuisés complètement après avoir visité tous les sites que nous aimons à connaître. Si le chauffeur fait dans le contrat l’engagement de faire durer l’excursion jusqu’à 17 heures, il sait très bien que nous ne tenons pas le coup  sous la chaleur intense de Tuy Hoà. C’est une manière de nous plaire au moment de la négociation, un coup de marketing…Il sait aussi qu’il n’a pas assez d’argent pour payer l’essence en sachant que le prix d’essence s’élève à plus 30.000 piastres par litre au Viet Nam. Le premier jour, 7 heures du matin, il s’est pointé  à l’hôtel, puis  il nous  a emmenés à prendre le petit déjeuner dans un cafeteria du centre-ville. Je trouvais bizarre de le laisser tout seul dans l’attente. C’est pourquoi je l’invitais à s’asseoir et à prendre en même temps  que nous le petit déjeuner, ce qui provoquait qu’à partir de ce moment là la compréhension et l’amitié entre lui et nous. C’est lui qui m’a beaucoup aidé à grimper quand j’allais visiter le récif « Gành đá đĩa», un endroit escarpé où les plaques de rocher sont empilées les unes sur les autres comme des assiettes. C’est facile   pour moi de tomber facilement même si j’ai déjà eu sur moi des genouillères pour la protection de mes genoux et des chaussures antidérapantes. Il faut reconnaître qu’en fonction de mon comportement,  je peux obtenir une telle aide. C’est lui  qui nous a emmenés à Binh Định, la terre natale des Tây Sơn en voiture  et  m’a laissé un souvenir inoubliable.  

 
     –Au nord de Tuy Hoà.

     – Au sud de Tuy Hoà.

 

Bleus de Huế (Đồ sứ men lam Huế).

Đồ sứ men lam Huế

Version française

English version

Được chế tạo từ đất sét và được trải qua một quá trình biến đổi vĩnh viễn với các vật liệu khác  như cát (silice), thạch anh (quartz), đá bồ tạt  (feldspath), cao lãnh (kaolin), petuntse (đất bồ tạt)   vân vân …bằng cách trộn và nung qua lửa có nhiệt độ thấp cao khác nhau khiến đồ gốm chia ra được thành ba nhóm (đồ đất nung, đồ sành và đồ sứ) dùng phục vụ cho các mục đích khác nhau. Một loại sản phẩm đồ gốm Việt Nam mà được các nhà sưu tầm cổ vật ngoại quốc vẫn còn ưa thích đó là đồ  sứ men lam Huế. Bởi vậy một chén bát sứ trang trí rồng và kỳ lân ở giữa lừng mây, có tráng men màu xanh lam với  rìa miệng  viền bằng kim loại ở phòng trưng bày Drouot tại Paris, ngày 16 tháng 10 năm 2019 được bán đấu giá  với giá là 110 500€. Tại sao gọi là đồ sứ men lam Huế ? Thành ngữ « Đồ sứ men lam Huế (Les bleus de Huế)» nầy được một nhà giáo sư ngôn ngữ  phương đông  ở Hànội, Louis Chochod (1877-1957) dùng dưới thời kỳ Pháp thuộc để ám chỉ Huế là nơi mà ông khám phá ra  có nhiều các đồ sứ men lam. Ông tưởng rằng các đồ sứ nầy đều xuất phát từ  lò gốm Long Thọ ở ngoại ô Huế. Nhưng thật sự có đến hai dòng đồ sứ khác nhau, hai chủng loại khác nhau. Một dòng đồ sứ làm tại Huế dưới thời vua Minh Mạng có nước men trắng đục còn một dòng mà được người Trung Hoa sản xuất cho triều đình Việt Nam suốt hai thế kỷ 18 và 19 cho đến mãi sau cuộc cách mạng lãnh đạo bởi Tôn Dật Tiên với những yêu cầu riêng tư về hình dáng, màu sắc  hoa văn trang trí, thơ văn minh họa và hiệu đề. Chính đây là đồ sứ «ký kiểu» mà được học giả Vương Hồng Sển dùng trong công trình  «Khảo cứu  về đồ sứ men lam Huế » được nhà xuất bản Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh in vào năm 1993.

Đồ sứ nầy không hẳn ở Huế mà thôi   còn thấy có ở Hà Nội (Đàng Ngoài) thời Lê-Trịnh nên cần có thêm niên đại để biết rõ thời nào đặt hàng từ Trung Quốc. Nhà khảo cứu Trần Đức Anh Sơn sử dụng các định ngữ chỉ thời gian đi kèm: đồ sứ ký kiểu thời Lê-Trịnh, đồ sứ ký kiểu thời chúa Nguyễn, đồ sứ ký kiểu thời Tây Sơn hay đồ sứ ký kiểu thời nhà Nguyễn. Các đồ sứ ký kiểu thời Lê-Trịnh dùng ở trong triều đình đều có mang trên các cổ vật hiệu đề viết bằng chữ Hán Nội Phủ (Neifu) và Khánh Xuân thị  tả được sản xuất sau đó dưới thời chúa Trịnh Sâm. Tác giả  Loan de Fontbrune dịch Khánh Xuân là mừng xuân hay là cung điện của mùa xuân vĩnh cửu (Palais du printemp éternel). Nhưng đâu có cung điện hay phủ chúa nào mang thời đó tên nầy ở Thăng Long. Có nhiều ý kiến còn trong vòng tranh luận về đồ sứ Khánh Xuân  thị tả. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn dựa trên hai chữ Khánh-Thọ viết trên đồ sứ mà cho rằng đây là đồ sứ đặt làm nhân dịp lễ Khánh Thọ của vua Lê, tổ chức tại điện Cần Chính để đón mừng mùa xuân. Còn có một ý kiến khác cho rằng  đây là đồ sứ  tế tự  được làm vào thời Trịnh Sâm để mừng sinh nhật các chúa Trịnh. Còn nhà chuyên gia về đồ sứ Philippe Trương thì xem đồ sứ Khánh Xuân  thị tả là đồ tế tự trong chính cung miếu. Từ tả dùng ở trong hiệu đề cố ý để nhấn mạnh sự quan trọng của dòng đồ này so với dòng đồ sứ có các hiệu đề Nội phủ thị. Các sản phẩm nầy là  những đồ dùng có chất lượng cao nhầm cung ứng cho nhu cầu của phủ chúa Trịnh. Những đồ “ngự dụng” luôn luôn phải tuân theo những quy tắc rất nghiêm ngặt. Chẳng hạn từ thời Lê-Trịnh đến thời Nguyễn, vua và thái tử mới được sử dụng hình rồng 5 móng còn các thái tử khác chỉ có quyền dùng hình rồng 4 móng mà thôi. Chữ Nội phủ (Neifu) dùng để chỉ tất cả cung điện nằm ở trong hoàng thành.

Các đồ sứ dành cho cung điện hoàng gia đều có mang dưới  đáy hiệu đề Nội Phủ  bằng tiếng Hán kèm theo chỉ dẫn chính xác về vị trí của cung điện nào mà các đồ sứ nầy được sử dụng. Đây là các đồ sứ  có hiệu đề:

  • Nội phủ thị Trung (chính điện), chỉ dành cho vua sử dụng. Trang trí trên những đồ sứ này chủ yếu là rồng.
  • Nội phủ thị Hữu (hữu cung), dành cho hoàng hậu. Hoa văn trang trí thường thấy là rồng và phượng.
  • Nội phủ thị Đông (đông cung), dành cho các hoàng tử. Hoa văn trang trí thường thấy là kỳ lân, các loại chim và hoa.
  • Nội phủ thị Nam (nam cung) thì một số người nói dành cho sinh hoạt của cung phi và cung tần hay dành cho ngự trù (bếp). Hoa văn trang trí thường là hoa sen, tôm cua và vịt.
  • Nội phủ thị Bắc (bắc cung), thì dành cho các công chúa.
  • Nội phủ thị Đoài (tây cung), dường như dành cho cung phi. Hoa văn trang trí thường là phong cảnh. Hơn nửa hiệu đề được viết chữ nổi trên nền trắng trong khi hiệu đề của các đồ sứ khác đều được viết màu xanh lam dưới men.

Đây là những đồ sứ men lam Huế mà được kỳ tài Đường Anh  làm dưới thời vua Càn Long. Hình như Trịnh Sâm là người đầu tiên đặt đồ ngự dùng ở lò sứ Cảnh Đức trấn theo ý riêng của mình.  Trịnh Sâm là con người rất có nhiều tham vọng, có ý soán ngôi vua nhà Lê nên cử sứ thần Vũ Thân Triệu sang Tàu để nhà Thanh phong mình làm vua. Khi việc không thành nên  Vũ Thân Triệu tự  vận còn  Trịnh Sâm mang hết  cả đồ sứ Nội Phủ dâng cho vua Lê Hiến Tông. Việc nầy cho thấy Trịnh Sâm coi thường vua, có thể bị chém đầu vì tội dám lấy đồ cũ cho vua và đặt đồ Khánh Xuân sau đ ó cho mình. Khi chế độ của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài cáo chung vào năm 1787 sau 245 năm với 11 đời chúa  Trịnh trị vì thì  vua Lê Chiêu Thống ra lệnh đốt toàn phủ chúa chấm dứt từ  đó quyền lực của chúa Trịnh.  Sau đó có có cuộc nổi loạn của anh em nhà Tây Sơn gốc Bình Định ở miền trung Viêt Nam chống lại chúa Nguyễn ở Đàng Ngoài.  Lúc đầu chịu hợp tác với chúa Trịnh dẫn đến sự ra đời của một triều đại mới  nhà  Tây Sơn, vua Quang Trung Nguyễn Huệ  đống đô ở Phú Xuân (1788). Sau đó ngài diệt  luôn nhà Lê ở Đàng Trong sau khi dành được chiến thắng với quân nhà Thanh ở Đống Đa (Hà-Nội). Chính trong thời gian ngài  trị vì,  ngài  thâu tóm đồ  sứ  của vua Lê chúa Trịnh  đem một phần lớn về  Phú  Xuân (Huế)  các dòng đồ  sứ  Nội  Phủ  thị  và Khánh Xuân thị tả nhưng cũng có còn lại rải rác ở Bắc Hà  (di thần triều Lê) hay là ở Bình Định (quê hương cùa nhà Tây Sơn). Tuy nhiên cũng  có  xuất hiện dòng đồ sứ men lam có hiệu đề Trần Ngoạn từ lò gốm hạng hai của Trung Quốc  nhưng không  có chất lượng cao về chất liệu và màu sắc theo sự nhận xét của các nhà khảo cứu  Trần Đức Anh Sơn và Philippe Trương.

Thời gian nhà Tây Sơn rất ngắn ngủi chỉ tồn tại chỉ có 24 năm nhất là với cái chết đột ngột của vua Quang Trung nên không có gì xuất sắc đáng kể trên nghệ thuật đồ sứ. Ngược lại ngài thành công trong việc thể hiện khát vọng của dân tộc bằng cách hình thành và phát triển chữ nôm thoát khỏi ảnh hưởng Trung hoa. Sau đó đến triều đại Nhà Nguyễn. Theo nhà nghiên cứu Trần Đức Anh Sơn, dù có được 13 vua tri nhưng chỉ có 5 vua như Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức Khải Định còn  có gửi sứ bộ sang Trung Quốc với nhiều mục đích khác nhau như cầu phong, tạ ân, chúc mừng, mua đồ sứ ký kiểu cho triều đình vân vân…  Mỗi vua  một gu khác nhau. Chính dưới triều đại vua Gia Long  mới thấy có một xưởng chế tác đồ gốm tại LongThọ do nhà nước quản lý trực tiếp. Nhưng đổ sứ nầy chỉ đạt đến trình độ gốm tráng men cao cấp và được dùng ở bản địa mà thôi. Chính đồ sứ nầy mà nhà giáo sư ngôn ngữ  phương đông ở Hànội, Louis Chochod lầm tưởng gọi là « Đồ sứ men lam Huế ». Ngược lại  dưới thời vua Gia Long,  khi Nguyễn Du được vua cử đi làm sứ thần sang Tàu đời vua Gia Khánh (Jiaqing) năm 1813, ông có tìm đến lò Ngoạn Ngọc đặt làm một bộ chén trà Mai Hạc. Đây là một tác phẩm Việt tuyệt vời với bàn tay uyển chuyển của nghệ nhân tài ba Trung Hoa và được sản xuất lại nhiều lần. Bộ chén trà nầy gồm một đĩa đựng,  ba chén quân và một chén tống. Đây là cách uống trà của người dân Việt  chớ không phải cách uống trà của người Tàu vì khi uống trà, trà được rót từ bình trà vào chén tống, sau đó từ chén tống lại rót vào các chén quân nhỏ hơn  chén tống. Lại có thêm hai câu thơ lục bát tiếng nôm bất hủ của Nguyễn Du viết bên trái trong đĩa đựng:

Nghêu ngao vui thú yên hà  
Mai là bạn cũ, hạc là người  quen

để nói lên  tâm trạng của mình. Ông không còn bị công danh trói buộc mà chỉ muốn tiếp xúc với hạng người sống hiên ngang chịu nhiều  thử thách trong cuộc sống như  mai  nở bông đầu tiên trong mùa đông gió lạnh và hạng người quân tử mang niềm ước ao được sống thọ như hạc mà thôi.

Tại sao các đồ sứ nầy làm ở Trung Hoa mà không ở Việt Nam? Theo tác giả Loan de Fontbrune thì trong thời kỳ còn là chư hầu của Trung Quốc thì  nước Việt ta có tục lệ hay thường gửi sứ bộ sang Tàu để triều cống cho các hoàng đế Trung Hoa. Ngược lại các vua Việt cùng các quan có quyền đặt các đồ sứ ở ngự xưởng  Jindezhen (Cảnh Đức trấn) tại tỉnh Giang Tây theo kiểu mẫu và sở thích riêng tư  mà sứ bộ mang sang lúc đến  Bắc Kinh. Thường thấy vào cuối thế kỷ 19, các đồ sứ nầy được có thêm viền kim loại  ở rià miệng để tránh sự phá vỡ. Chính ở thế kỷ nầy, khi giới trung lưu ở Trung Quốc có khả năng tài chính dồi dào thì không những có các lò gốm ở  Cảnh Đức trấn sản xuất mà có luôn cả các lò khác tại Giang Tây cũng tham gia vào việc phổ biến  đồ sứ men lam Huế một cách độc lập để người Trung Hoa có thể mua  dùng  cũng như người dân Việt. Bởi vậy đồ sứ nầy được xem là giả, ai cũng có thể mua được. Theo học giả Vương Hồng Sển thì hai chữ « ký kiểu » chưa hẳn là đồ thiệt có thể đồ sứ nhái các đồ sứ qúi hiếm của thời trước. Bởi vậy cần dùng thêm hai chữ « đặc chế » nghĩa là được chế tạo một cách đặc biệt. Để phân biệt các đồ sứ thật với đồ giả thì cần phải biết so sánh bột đất sét /thạch cao, chất lượng của men và nét vẽ, lớp men phủ,  cách thức trang trí hoa tiết vân vân …Tại sao các đồ sứ nầy đều được chế tạo  với màu hoa lam? Theo học giả Vương Hồng Sển  thì dưới thời nhà Nguyên của Hốt Tất Liệt, nhờ sự du nhập của các thương nhân người Hồi (Á Rập)  nên mà người Trung Hoa  mới biết  màu lam nguyên chất lấy từ trong bạch kim (cobalt) mà họ gọi từ đây là Hồi thanh (bleu mahometan) hay bleu de cobalt nhập từ xứ  Ba Tư (Perse). Bột màu coban người Hồi đã biết dùng từ  lâu. Cụ thể được tìm thấy cái bát đồ nung trang trí  xanh lam trắng với hai dòng chữ thư pháp « Hạnh Phúc » dưới thời kỳ caliph Abbas  (Iraq) ở  thế kỷ thứ 9. Người Hoa dùng từ đây  bột  màu xanh lam để vẽ hình dưới men (décor sous couverte)  trên các đồ  sành  nền trắng.  Bột màu ô-xít coban  có thể chịu được nhiệt độ nung cao theo yêu cầu. Hơn nửa nét bút vẽ tinh vi của nghệ  nhân nó linh động hơn so với các bột màu khác bởi vì màu xanh Hồi có sức phát màu rất mạnh khiến làm họa tiết có chổ đậm nhạt sáng tối khác nhau  tùy theo bàn tay khéo léo và óc sáng kiến của nghệ nhân. Nghệ nhân phải điêu luyện  vì vẽ trực tiếp trên xương gốm nên phải rành vẽ về bố cuộc, một nét vẽ sai là không bao giờ thu lại được. Nhờ đó đồ sứ men lam Huế nhìn vào thấy lung linh huyền ảo sau khi nung.

Số lượng các đồ  sứ men lam Huế  rất còn ít ỏi hiện nay. Tuy nhiên các cổ vật qúi giá nầy vẫn còn rải rác không ít ở trong dân chúng và các nhà sưu tập ở trong và ngoài nước và được lẫn lộn với các đồ giả trên thị trường nghệ thuật. Cũng chính là đồ sứ nầy mà các nhà sưu tầm cổ vật  ngoại quốc yêu thích và tranh đua kiếm mua hiện nay  với giá cả không thể tưởng tượng được.  Ngoài nét yêu kiều thanh nhã  và sự hài hoà màu sắc (màu xanh lam vẽ trên sành trắng), các cổ vật nầy còn thể hiện được tính độc đáo và bản sắc văn hóa của người dân Việt dù biết rằng được đặt làm cho ngự dùng  ở Trung Hoa. Một số người dân Việt nhận thấy  qua các đồ sứ men lam Huế,  một tâm hồn Việt trong thể xác Tàu.

Version française

Bleus de Huế

Étant fabriqués à partir d’argile et soumis à un long processus de transformation physico-chimique irréversible  avec d’autres matériaux (silice, feldspath, quartz, kaolin etc …)  au cours d’un mixage et  d’une cuisson à température plus ou moins élevée, les objets en céramique  se divisent  en trois groupes (poterie, grès et porcelaine) destinés chacun à des fins différentes. Parmi ceux-ci, il y a un type d’objets en céramique continuant à avoir la faveur des collectionneurs étrangers. Ce sont les Bleus de Huế. Ainsi un bol en porcelaine à décor «bleu de Huế» de dragons et qilins parmi les nuages, marque en bleu sous couverte, cerclage en métal au col, diam. 16 cm. Drouot, 16 octobre 2019 a été adjugé au prix de 110 500 euros.

Pourquoi on désigne cette porcelaine à décor peint en bleu de cobalt  sous le nom « Bleu de Huế ? Cette expression a été utilisée par un professeur de langues orientales à Hanoï, Louis Chochod (1877-1957) durant la période coloniale française pour désigner la ville de Huế comme le lieu où il a découvert beaucoup d’objets en porcelaine à décor peint en  bleu. Il croyait que ceux-ci provenaient tous de la manufacture de poterie de Long Thọ située dans la banlieue de Huế.

Mais il existe en fait deux types  de porcelaine différents, deux catégories distinctes. Un type de porcelaine réalisé à Huế sous le règne du roi Minh Mang avait une glaçure de couleur blanc-laiteux, tandis que l’autre a été fabriqué par les Chinois pour la cour vietnamienne tout au long des 18e et 19e siècles jusqu’après la révolution menée par Sun Yat-Sen (Tôn Dật Tiên) avec des exigences particulières sur les formes, les couleurs, les motifs de décoration, les poèmes illustrés et les titres.

Il s’agit bien de la porcelaine « signée » que l’érudit Vương Hồng Sển a évoquée dans son œuvre intitulée « L’étude  sur la porcelaine à décor bleu de Huế » imprimée par l’éditeur «Imprimerie Générale de la ville Hồ Chí Minh » en 1993. Ce type de porcelaine n’existe pas  seulement à Huế mais aussi à Hanoï (Principauté du Nord) sous les dynasties Lê-Trịnh. Il faut donc connaître la chronologie des dates clés pour savoir la période de commande effectuée depuis la Chine. Le chercheur Trần Đức Anh Sơn utilise des termes pour indiquer l’époque du pouvoir dynastique: porcelaine sous le règne de la dynastie des Lê-Trịnh, porcelaine sous celui des seigneurs Nguyễn, porcelaine sous celui des Tây Sơn (Paysans de l’Ouest)  ou porcelaine sous celui  de la dynastie des  Nguyễn. Les objets en porcelaine « signés » datant de l’époque de la dynastie des Lê-Trịnh et  utilisés à la cour impériale avaient tous  sur eux les inscriptions écrites en caractères chinois « Nội Phủ (Neifu) » et « Khánh Xuân thị  tả » de fabrication légèrement postérieure à l’époque du seigneur Trinh Sâm.

L’auteur  Loan de Fontbrune traduit Khánh Xuân comme la célébration du printemps ou le palais du printemps éternel. Mais il n’y avait aucun palais ou résidence  portant  à cette époque ce nom à Thăng Long. Il existe encore de nombreuses opinions  différentes exprimées dans le débat sur la porcelaine de la collection « Khánh Xuân thị  tả ». En se basant sur les deux mots  écrits sur la porcelaine, le chercheur Trần Đình Sơn pense qu’il s’agit de la porcelaine commandée en Chine à l’occasion du festival « Khánh-Thọ (célébration de la longévité) »  du roi Lê ayant eu lieu au palais  Cần Chính pour célébrer le printemps. Il y a une autre interprétation affirmant que cette  porcelaine faisait partie des offrandes sacrificielles et était fabriquée à l’époque de Trinh Sâm pour célébrer les anniversaires des seigneurs Trịnh. Enfin l’expert vietnamien en porcelaine Philippe Trương considère la porcelaine de la collection « Khánh Xuân thị  tả » comme des objets sacrificiels  dans le palais principal.

Le mot Tả utilisé dans l’inscription vise à souligner l’importance de cette collection d’objets en porcelaine comparée à celle portant les inscriptions «Nội phủ thị (Neifu) ». Ces objets en porcelaine  sont considérés comme  les ustensiles de haute qualité destinés à répondre aux besoins de la résidence du seigneur Trịnh.

Ils doivent toujours suivre des règles très strictes. Par exemple, de la période  de la dynastie des Lê-Trịnh jusqu’à celle des Nguyễn, le roi et le prince héritier étaient les seuls à pouvoir utiliser  l’image d’un dragon à 5 griffes, tandis que les autres princes n’avaient que l’image d’un dragon à 4 griffes. Le mot Neifu (Nội phủ) était utilisé pour désigner l’ensemble des palais situés à l’intérieur de la citadelle royale.

 

Un bol de décor  tortue peint en bleu de Hue
portant sur la base la marque Nội phủ (19ème siècle)

 

Les pièces destinées au palais impérial portaient sur leur base  la marque Nội phủ (Neifu en chinois) accompagnée de l’indication exacte  de l’emplacement  du palais auquel elles étaient destinées. C’est le cas des porcelaines

-destinées au  palais du Centre  (Nội phủ thị Trung) et réservées uniquement au roi. Le décor peint sur ces porcelaines est composé essentiellement de dragons.
-destinées au palais de Droite (Nội phủ thị Hữu) et réservées à la reine. Il n’y a que le dragon et le phénix dans le décor.
-destinées au palais de l’Est  (Nội phủ thị Đông) et réservées aux princes. Le décor se compose essentiellement  de licornes, d’oiseaux et de fleurs.
-destinées au palais du Sud (Nội phủ thị Nam) et réservées soit aux concubines soit aux activités de la cuisine. Les motifs décoratifs sont généralement des fleurs de lotus, des crabes et des canards.
-destinées au palais du Nord (Nội phủ thị Bắc) et réservées aux princesses.
-destinées au palais de l’ouest  (Nội phủ thị Đoài). Il semble qu’elles soient  réservées aux concubines car on ne trouve que le paysage dans le décor. De plus, leur marque était  inscrite en relief sur fond blanc tandis que  les autres porcelaines avaient leur marque tracée en bleu sous couverte.

Ce sont des porcelaines décorées en bleu sous couverte  qui ont été fabriquées par le talentueux Đường Anh sous le règne de l’empereur Qian Long (Càn Long). Il semble que Trinh Sâm ait été le premier à commander ces porcelaines dans la manufacture impériale de la ville de Jindezhen (Cảnh Đức trấn) (Jiangxi (Giang Tây) ) selon sa propre volonté. Trinh Sâm était un homme très ambitieux et avait l’intention d’usurper le trône de la dynastie des Lê. C’était pour cette raison qu’il ne tarda pas à envoyer l’émissaire Vũ Thân Triệu en Chine pour demander l’approbation de la dynastie des Qing. Face au refus de cette dernière, Vũ Thân Triệu  dut se suicider pour ne pas être taxé de trahison vis-à-vis des Lê et Trinh Sâm décida d’offrir alors  toute la porcelaine du palais intérieur au roi Lê Hiến Tông. Ce fait  montre que Trinh Sâm méprisait complètement le roi. Il pourrait être décapité pour avoir osé prendre sa collection de porcelaines Nội phủ thị  pour l’offrir au  roi et commander ainsi les porcelaines « Khánh Xuân» plus tard pour lui-même. Dès le régime des Trịnh prenant fin en 1787 après 245 ans de gouvernance avec onze seigneurs, le roi Lê Chiêu Thống ordonna d’incendier tout le palais du seigneur Trịnh et mit fin ainsi aux abus du pouvoir politique des Trịnh. Puis il y a eu la rébellion des frères Tây Sơn, originaires de Bình Định dans le centre du Vietnam contre le seigneur Nguyễn dans la principauté du Sud (Đàng Trong). Au début, grâce à la coopération militaire  avec le seigneur Trinh favorisant la naissance d’une nouvelle dynastie Tây Sơn , le roi Quang Trung Nguyễn Huệ installa  la capitale à Phú Xuân  en l’an 1788. Puis il élimina plus tard la dynastie des  Lê dans la Principauté du Nord (Đàng Ngoài) après avoir remporté la victoire éclair  contre  l’armée des  Qing à Đống Đa (Hà-Nội).

C’est durant son règne qu’il confisqua toute la collection de porcelaines du roi Lê et celle du seigneur Trịnh et la ramena en grande partie à Phú  Xuân (Huế), en particulier les porcelaines de marque Nội Phủ thị  và Khánh Xuân thị tả, mais il y avait encore des pièces éparpillées  à Bắc Hà (détenues par les partisans des Lê) ou à  Bình Định (la patrie de la dynastie des Tây Sơn). Cependant, au cours de cette période,  il apparut un nouveau type de porcelaine à décor peint en bleu portant la marque  Trần Ngoạn provenant du four chinois de deuxième classe, mais elle n’était pas  de haute qualité en termes de matériau et de couleur d’après les remarques formulées par les chercheurs Trần Đức Anh SơnPhilippe Trương.

La dynastie des Tây Sơn  a été de courte durée. Elle existait il y a  seulement 24 ans et précipitait  surtout  sa chute avec la mort soudaine du roi Quang Trung.  Il n’y avait donc rien de remarquable dans l’art de la porcelaine. Au contraire, il a réussi à traduire l’aspiration de la nation en proposant et en développant l’écriture Nôm à l’abri de l’influence chinoise. Puis venait la dynastie des Nguyễn. Selon le chercheur Trần Đức Anh Sơn, malgré qu’il y ait eu treize rois, seuls cinq  rois tels que Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị,  Tự Đức et Khải Định ont envoyé des délégations en Chine à diverses occasions et à des buts différents: demande d’investiture, remerciement, félicitation, achat de la porcelaine signée pour la cour etc…Chaque roi avait un goût différent. C’est sous le règne du roi Gia Long qu’il y avait un atelier de poterie à Long Thọ géré directement  par l’état. Mais cette porcelaine n’atteint que le niveau haut de gamme de la porcelaine à décor peint en bleu sous couverte et est utilisée localement. C’est cette porcelaine que le professeur de langues orientales à Hanoï, Louis Chochod  a appelé à tort « Porcelaine à décor peint en bleu de Huế ».

En revanche, sous le roi Gia Long, lorsque le lettré Nguyễn Du  (1765-1820) fut envoyé par le roi pour être  l’émissaire en Chine sous le règne de l’empereur Jiaqing (Gia Khánh)  en 1813, il se rendit au four Ngoạn Ngọc pour commander un service de  thé  « Mai Hạc ». Il s’agit d’un chef d’œuvre merveilleux vietnamien réalisé avec les mains adroites d’un artiste chinois talentueux et reproduit en plusieurs exemplaires. Ce  service de thé comprend une soucoupe, trois petites tasses et une  grosse tasse de service. C’est la méthode  de boire du thé à la manière vietnamienne mais en aucun cas celle employée par les Chinois car lorsque vous buvez du thé, celui-ci  doit être versé de la théière dans la grosse tasse, puis à partir de cette dernière on le reverse dans les plus petites tasses. Il y a deux vers immortels en Six-Huit et en langue Nôm écrits par Nguyễn Du sur le côté gauche de la soucoupe:

Nghêu ngao vui thú yên hà  
Mai là bạn cũ, hạc là người quen.

En chantonnant, je me divertis  dans un lieu retiré du monde
L’abricotier est mon ancien ami et la grue ma connaissance familière.

pour exprimer ses sentiments. Il n’était plus embourbé dans les honneurs de sa fonction mais il voulait juste fréquenter  des gens fiers d’affronter de nombreux défis dans la vie courante  comme  la première floraison des fleurs d’abricotier dans l’hiver froid et venteux et le gentilhomme  rêvant  de devenir un homme vivant  aussi longtemps qu’une grue.

Pourquoi ces porcelaines sont-elles fabriquées en Chine et non au Vietnam ? Selon l’auteur Loan de Fontbrune, à l’époque où le Vietnam était encore un pays vassal de la Chine, il était d’usage pour le Vietnam d’envoyer des délégations en Chine pour rendre hommage aux empereurs chinois. En revanche, les rois et mandarins vietnamiens avaient le droit de commander   la porcelaine dans la manufacture impériale de Jingdezhen (Cảnh Đức trấn) dans la province du Jiangxi selon les modèles et les préférences personnelles que la délégation avait  emportés lors de sa visite à Pékin.

Étant fréquemment visibles à la fin du 19ème siècle, ces porcelaines  avaient un rebord métallique  sur le col pour éviter la cassure. C’est au cours de ce siècle, lorsque la classe moyenne en Chine avait une capacité financière importante, non seulement les fours de la ville de Jingdezhen  mais aussi  ceux de la province Jiangxi participaient  également  à la diffusion de la porcelaine à décor peint en  bleu de Huế de manière indépendante afin de permettre aux Chinois de pouvoir les acheter et les utiliser de bon gré comme les Vietnamiens. C’est pourquoi cette porcelaine est considérée comme une imitation ou une reproduction, n’importe qui peut l’acquérir facilement. Selon l’érudit Vương Hồng Sển, les deux mots  » ký kiểu (ou signés) »  trouvés sur les porcelaines ne prouvent en aucun cas qu’elles sont authentiques. Ce sont peut-être les imitations des porcelaines rares et précieuses datant de l’époque antérieure. Pour cette raison, il est nécessaire d’utiliser les deux mots supplémentaires « đặc chế« , ce qui signifie les porcelaines fabriquées d’une manière toute particulière. Pour distinguer la vraie porcelaine de  son imitation, il faut savoir comparer la pâte d’argile/kaolin, la qualité des émaux et du trait,  la glaçure (ou la couverte), la façon de décorer les fleurs etc.

Pourquoi ces porcelaines sont-elles fabriquées en bleu ? Selon l’érudit  Vương Hồng Sển, sous la dynastie Yuan de Kublai Khan, grâce à la fréquentation  des commerçants musulmans (Arabes), les Chinois savaient que la couleur bleue pure était obtenue à partir du cobalt.  Ils l’appelaient  dès lors  «bleu mahometan (Hồi Thanh)» ou bleu de cobalt importé de la Perse. Les pigments de cobalt étaient connus  depuis longtemps par les Arabes. Plus précisément, un bol en terre cuite décoré en bleu et blanc avec deux mots calligraphiés signifiant « Bonheur » a été trouvé sous le calife Abbas (Irak) au 9ème siècle. Les Chinois utilisaient la poudre bleue de cobalt  pour peindre le décor sous couverte sur la porcelaine à fond blanc.

Les pigments d’oxyde de cobalt peuvent supporter les hautes températures de cuisson requises. De plus la  finesse des traits du pinceau de l’artiste est plus vivante  que celle employée avec les autres pigments car le bleu de cobalt a le  pouvoir de rendre plus ou moins  forte la teinte permettant de réaliser des textures plus ou moins foncées en fonction de l’esprit créatif de l’artiste et de l’habileté de ses mains.  Ce dernier doit être d’une  grande virtuosité car il doit peindre directement le décor sur la pâte de la porcelaine. Il doit être familiarisé donc  avec le plan du décor car un trait erroné ne peut jamais être récupéré. Grâce à cela, on trouve dans la porcelaine à  décor peint en bleu de Huế la magie du scintillement après le cuisson.

Les objets en  porcelaine à décor peint en bleu de Huế  sont en quantité très faible à l’heure actuelle. Cependant, ils sont encore détenus en quantité non négligeable par  le grand public vietnamien et les collectionneurs nationaux et étrangers et ils se mêlent aux objets de reproduction ou d’imitation  sur le marché de l’art. C’est aussi ces bleus de Huế que les collectionneurs d’antiquités étrangers aiment raffoler et se disputent aujourd’hui  pour les avoir avec des prix très élevés. Outre leur charme élégant et l’harmonie des couleurs (bleu peint sur le fond blanc), les bleus de Huế  témoignent incontestablement de  la singularité et l’identité culturelle du peuple vietnamien malgré  qu’ils soient fabriqués en Chine pour la cour vietnamienne. Certains Vietnamiens trouvent  à travers ces « bleus de Huế » l’âme vietnamienne dans un corps tout à fait chinois.

English version

Blues of Huế

Being made from clay and subjected to a long process of irreversible physicochemical transformation with other materials (silica, feldspar, quartz, kaolin etc.) during mixing and firing at more or less high temperatures, ceramic objects are divided into three groups (pottery, stoneware and porcelain) each intended for different purposes. Among these, there is a type of ceramic object that continues to be favored by foreign collectors. These are the Huế Blues. Thus, a porcelain bowl with “Huế Blue” decoration of dragons and qilins among the clouds, underglaze blue mark, metal rim at the neck, diam. 16 cm. Drouot, October 16, 2019 was sold for 110,500 euros.

Why is this porcelain with cobalt blue painted decoration called « Huế Blue »? This expression was used by a professor of oriental languages ​​in Hanoi, Louis Chochod (1877-1957) during the French colonial period to refer to the city of Huế as the place where he discovered many porcelain objects with blue painted decoration. He believed that these all came from the Long Thọ pottery factory located in the suburbs of Huế.

But there are actually two different types of porcelain, two distinct categories. One type of porcelain made in Huế during the reign of King Minh Mang had a milky-white glaze, while the other was made by the Chinese for the Vietnamese court throughout the 18th and 19th centuries until after the revolution led by Sun Yat-Sen (Tôn Dật Tiên) with specific requirements on shapes, colors, decorative patterns, illustrated poems, and titles. This is indeed the « signed » porcelain that the scholar Vương Hồng Sển mentioned in his work entitled « The study on blue-decorated porcelain from Huế » printed by the publisher « General Printing House of Ho Chi Minh City » in 1993. This type of porcelain does not only exist in Huế but also in Hanoi (Northern Principality) under the Lê-Trịnh dynasties. It is therefore necessary to know the chronology of key dates to know the period of ordering from China. Researcher Trần Đức Anh Sơn uses terms to indicate the period of dynastic power: porcelain under the reign of the Le Trịnh dynasty, porcelain under that of the Nguyễn lords, porcelain under that of the Tây Sơn (Western Peasants) or porcelain under that of the Nguyễn dynasty. The “signed” porcelain objects dating from the time of the Le Trịnh dynasty and used at the imperial court all had on them the inscriptions written in Chinese characters “Nội Phủ (Neifu)” and “Khánh Xuân thị tả” made slightly later than the time of Lord Trinh Sâm.

Author Loan de Fontbrune translates Khánh Xuân as the celebration of spring or the palace of eternal spring. But there was no palace or residence bearing this name in Thăng Long at that time. There are still many different opinions expressed in the debate about the porcelain in the “Khánh Xuân thị tả” collection. Based on the two words written on the porcelain, researcher Trần Đình Sơn believes that it is the porcelain ordered from China on the occasion of King Lê’s “Khánh-Thọ (celebration of longevity)” festival held at Cần Chính Palace to celebrate spring. There is another interpretation stating that this porcelain was part of the sacrificial offerings and was made in the Trinh Sâm era to celebrate the birthdays of the Trịnh lords. Finally, Vietnamese porcelain expert Philippe Trương considers the porcelain in the “Khánh Xuân thị tả” collection as sacrificial objects in the main palace. The word « Tả » used in the inscription is intended to emphasize the importance of this collection of porcelain objects compared to those bearing the inscriptions « Nội phủ thị (Neifu). » These porcelain objects are considered high-quality utensils intended to meet the needs of the Trịnh lord’s residence. They must always follow very strict rules. For example, from the Lê Trịnh Dynasty to the Nguyễn Dynasty, only the king and the crown prince were allowed to use the image of a five-clawed dragon, while other princes were only allowed the image of a four-clawed dragon. The word « Neifu » (Nội phủ) was used to refer to all the palaces located within the royal citadel.  

Pieces intended for the imperial palace bore the Nội phủ mark (Neifu in Chinese) on their base, along with the exact location of the palace for which they were intended. This is the case for porcelains – intended for the Central Palace (Nội phủ thị Trung) and reserved solely for the king. The painted decoration on these porcelains consists mainly of dragons.

– intended for the Right Palace (Nội phủ thị Hữu) and reserved for the queen. Only the dragon and the phoenix are featured in the decoration.

– intended for the Eastern Palace (Nội phủ thị Đông) and reserved for princes. The decoration consists mainly of unicorns, birds, and flowers.

-intended for the Southern Palace (Nội phủ thị Nam) and reserved either for concubines or for kitchen activities. The decorative motifs are generally lotus flowers, crabs, and ducks.

-intended for the Northern Palace (Nội phủ thị Bắc) and reserved for princesses.

-intended for the Western Palace (Nội phủ thị Đoài). It seems that they were reserved for concubines because only the landscape is found in the decoration. In addition, their mark was inscribed in relief on a white background while the other porcelains had their mark traced in blue underglaze. These are porcelains decorated in underglaze blue that were made by the talented Đường Anh during the reign of Emperor Qian Long (Càn Long).

It seems that Trinh Sâm was the first to order these porcelains in the imperial factory in the city of Jindezhen (Cảnh Đức trấn) (Jiangxi (Giang Tây)) according to his own will. Trinh Sâm was a very ambitious man and intended to usurp the throne of the Le Dynasty. It was for this reason that he soon sent the emissary Vũ Thân Triệu to China to seek approval from the Qing Dynasty. Faced with the latter’s refusal, Vũ Thân Triệu had to commit suicide to avoid being accused of treason against the Lê and Trinh Sâm then decided to offer all the porcelain in the inner palace to King Lê Hiến Tông. This fact shows that Trinh Sâm completely despised the king. He could be beheaded for daring to take his collection of Nội phủ thị porcelain to offer it to the king and thus order the « Khánh Xuân » porcelain later for himself. As soon as the Trịnh regime ended in 1787 after 245 years of rule by eleven lords, King Lê Chiêu Thống ordered the burning of the entire Trịnh lord’s palace, thus putting an end to the abuse of Trịnh political power. Then there was the rebellion of the Tây Sơn brothers, originally from Bình Định in central Vietnam, against the Nguyễn lord in the Southern Principality (Đàng Trong). At first, thanks to the military cooperation with Lord Trinh favoring the birth of a new Tây Sơn dynasty, King Quang Trung Nguyễn Huệ established the capital in Phú Xuân in the year 1788. Then he later eliminated the Lê dynasty in the Northern Principality (Đàng Ngoài) after winning the lightning victory against the Qing army in Đống Đa (Hà-Nội).

It was during his reign that he confiscated the entire porcelain collection of King Lê and that of Lord Trịnh and brought most of it back to Phú Xuân (Huế), especially the Nội Phủ thị và Khánh Xuân thị tả brand porcelain, but there were still pieces scattered in Bắc Hà (held by Lê supporters) or in Bình Định (the homeland of the Tây Sơn dynasty). However, during this period, a new type of porcelain with blue painted decoration bearing the mark Trần Ngoạn originated from the second-class Chinese kiln, but it was not of high quality in terms of material and color according to the remarks made by researchers Trần Đức Anh SơnPhilippe Trương. The Tay Son Dynasty was short-lived. It existed for only 24 years and was mainly precipitating its fall with the sudden death of King Quang Trung. Therefore, there was nothing remarkable in the art of porcelain. On the contrary, it succeeded in translating the nation’s aspiration by proposing and developing the Nom script free from Chinese influence. Then came the Nguyen Dynasty. According to researcher Trần Đức Anh Sơn, although there were thirteen kings, only five kings such as Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức and Khải Định sent delegations to China on various occasions and for different purposes: request for investiture, thanks, congratulation, purchase of signed porcelain for the court etc.

Each king had a different taste. It was during the reign of King Gia Long that there was a pottery workshop in Long Thọ run directly by the state. But this porcelain only reaches the high-end level of porcelain with underglaze blue decoration and is used locally. It is this porcelain that the professor of oriental languages ​​in Hanoi, Louis Chochod, wrongly called « Porcelain with Huế blue decoration ». On the other hand, under King Gia Long, when the scholar Nguyễn Du (1765-1820) was sent by the king to be the emissary to China during the reign of Emperor Jiaqing (Gia Khánh) in 1813, he went to the Ngoạn Ngọc kiln to order a “Mai Hạc” tea set. This is a wonderful Vietnamese masterpiece made with the skillful hands of a talented Chinese artist and reproduced in several copies. This tea set includes a saucer, three small cups and a large serving cup. This is the method of drinking tea in the Vietnamese way but in no way the Chinese way because when you drink tea, it must be poured from the teapot into the large cup, and then from the latter it is poured into the smaller cups. There are two immortal verses in Six-Eight and Nom language written by Nguyễn Du on the left side of the saucer: 

Nghêu ngao vui thú yên hà  
Mai là bạn cũ, hạc là người quen. 

Singing, I entertain myself in a place secluded from the world.
The apricot tree is my old friend and the crane my familiar acquaintance.

to express his feelings. He was no longer mired in the honors of his office, but simply wanted to be with people proud to face many challenges in everyday life, such as the first bloom of apricot blossoms in the cold and windy winter and the gentleman dreaming of becoming a man who lives as long as a crane. Why are these porcelains made in China and not in Vietnam? According to author Loan de Fontbrune, when Vietnam was still a vassal country of China, it was customary for Vietnam to send delegations to China to pay homage to the Chinese emperors. On the other hand, Vietnamese kings and mandarins had the right to order porcelain from the imperial factory of Jingdezhen (Cảnh Đức trấn) in Jiangxi province according to the models and personal preferences that the delegation had taken with them during their visit to Beijing. Being frequently seen at the end of the 19th century, these porcelains had a metal rim on the neck to prevent breakage. It was during this century, when the middle class in China had significant financial capacity, not only the kilns of Jingdezhen city but also those of Jiangxi province also participated in the diffusion of Huế blue painted porcelain independently in order to allow the Chinese to be able to buy and use them willingly like the Vietnamese.

Therefore, this porcelain is considered an imitation or reproduction, anyone can acquire it easily. According to scholar Vương Hồng Sển, the two words « ký kiểu (or signed) » found on the porcelains do not prove in any way that they are authentic. They may be the imitations of the rare and precious porcelains dating from the earlier period. For this reason, it is necessary to use the two additional words « đặc chế », which means porcelain made in a very special way. To distinguish real porcelain from its imitation, one must know how to compare the clay/kaolin paste, the quality of the enamels and the line, the glaze (or covering), the way of decorating the flowers, etc.

Why are these porcelains made in blue? According to scholar Vương Hồng Sển, during Kublai Khan‘s Yuan Dynasty, through contact with Muslim (Arab) traders, the Chinese knew that pure blue was obtained from cobalt. They therefore called it « Muhammad blue (Hồi Thanh) » or cobalt blue imported from Persia. Cobalt pigments had long been known to the Arabs. Specifically, a blue and white decorated earthenware bowl with two calligraphic words meaning « Happiness » was found under Caliph Abbas (Iraq) in the 9th century. The Chinese used cobalt blue powder to paint the underglaze decoration on white-ground porcelain. Cobalt oxide pigments can withstand the high firing temperatures required. In addition, the artist’s brushstrokes are more vivid than those used with other pigments because cobalt blue has the power to make the shade stronger or weaker, allowing for textures of varying degrees of darkness depending on the artist’s creative spirit and the skill of his hands. The artist must be highly skilled because he must paint the decoration directly onto the porcelain paste. He must therefore be familiar with the design plan because an erroneous stroke can never be corrected. Thanks to this, we find in porcelain with Hue blue painted decoration the magic of shimmering after firing. 

Porcelain objects with Huế blue painted decoration are in very small quantities at present. However, they are still held in significant quantities by the general Vietnamese public and domestic and foreign collectors and they are mixed with reproduction or imitation objects on the art market. It is also these Huế blues that foreign antique collectors love to adore and today compete to have them with very high prices. In addition to their elegant charm and the harmony of colors (blue painted on the white background), Huế blues undeniably testify to the singularity and cultural identity of the Vietnamese people despite being made in China for the Vietnamese court. Some Vietnamese find through these « Huế blues » the Vietnamese soul in a completely Chinese body.

 


[Return Huế]

[Return]

 

 

Les maisons funéraires des Jaraï ( Các nhà mộ của người Gia Lai)

Nhà mộ của người Gia Lai (hay Gia Rai)

Version française

Version anglaise

Nhà mộ của người Gia Lai

Ai  đã có dịp đến tham quan viện bảo tàng Hà Nội thì thấy  ngôi nhà mộ của người Gia Lai được dựng theo  nguyên mẫu của ngôi nhà mộ của làng Kép Pinh huyện Chư Pả, tỉnh Gia Lai. Dân làng ở đây không dám làm nhà mồ  nầy cho bảo tàng vì không có lễ bỏ mả (hay lễ Pơ Thi), một lễ được xem là quan trọng theo tập tục của người Gia Lai. Nếu làm thì họ sẽ bị hồn ma hại. Vì vậy phải nhờ đến năm người Gia Lai của một làng khác để mà xây dựng. Theo nhà khảo cổ học Việt Ngô Văn Doanh,  nghi thức mai táng của người Gia Lai không những có sự tương tự  với các dân tộc  Tây Nguyên như dân tộc Bà Na chẳng hạn  mà luôn cả  với các dân tộc thiểu số ở Đông Nam Á và Thái Bình Dương.

Nhìn thoáng qua nhà mồ của người Gia Lai thì cảm thấy rợn người vì nó có vẻ huyền  bí nhất là ở xung quanh mộ có một hàng rào (krep) được dựng với các cột trụ tạc bằng rìu  không có trau chuốt tĩ mĩ. Đây là cách gợi và tạc các bức tượng bằng gỗ rất sinh động và có mang tín ngưỡng phồn thực: cảnh sinh hoạt tình dục của vợ chồng với các bộ phận sinh dục không cân xứng, nam nữ giao hợp, phụ nữ có thai, nhân vật ngồi xổm, người ôm mặt với hai tay vân vân … Chính các bức tượng  ôm mặt nầy được phổ biến và đựợc thấy ở 4 góc bờ  hàng rào. Theo các dân làng thì các tượng gỗ nầy là những kẻ phục vụ và hầu hạ ma người chết khi chưa có làm lễ bỏ mả. Thưở xưa người hậu hạ bị chôn sống theo người  địa chủ giàu  chết. Ngày nay hình tượng nầy gợi lại cái cảnh thân nhân đến viếng thăm mộ, mang thức ăn để « nuôi dưởng người chết » hằng ngày qua chiếc ống cấm sâu xuống lòng  ngôi mộ và buồn rầu than thở trong tư thế ngồi xổm trên mộ hai tay chống lên đầu gối hay ôm má. Các bức tượng bằng gỗ nầy chỉ được dựng và trông thấy cùng các mái nhà trang trí trước thời gian ngày lễ bỏ mả.

Đối với người Gia Lai, chết không phải là kết thúc cuộc sống này mà là sự khởi đầu của một cuộc sống khác ở thế giới bên kia. Linh hồn mà người Gia Lai gọi là « m’gàt » sẽ trở thành một vong linh hay hồn ma (hoặc atâu theo tiếng Gia Lai). Từ  đó người chết trở về  sống với tổ tiên ở  trong thế giới thần linh (poloi atâu).  Nhưng  trước khi lễ  bỏ  mả,  hồn ma cũng cần có thức ăn, quần áo và một cái nhà nhỏ tạm thời  để ở cũng như bao nhiêu người  thân thuộc còn sống  với các dụng cụ cần thiết để ma người chết sẽ đem theo sang sống ở thế giới bên kia nhưng tất cả được thu nhỏ lại bằng gỗ (rìu, dao, cuốc, gùi, vỏ bầu đựng nước vân vân…) Bởi vậy thường thấy dựng tạm trên mộ một ngôi nhà nhỏ. Đấy là nhà của ma người chết (hay bang atâu). Nhà mộ dài  8,25 thước và rộng 2,25 thước. Tính luôn  cả hàng rào bao chung quanh thì ngôi nhà mộ có một diện tích khoảng 45 mét vuông. Bởi vậy  người Gia Lai có tục chôn chung  có nghĩa là trong một mộ lớn như vậy có thể chứa  được nhiều quan tài thuộc những người thân thuộc với nhau. Nhà mộ có gắn liền với lễ bỏ mả. Thời gian tang chế  có  thể  mấy tháng mà cũng có thể cả năm trời, gia đình của người chết cố  kéo giữ hồn ma ở  lại trong gia đình. Thời gian nầy thường gọi là thời gian  bảo trì  ngôi mộ (dja m’xàt) thì người  thân thuộc phải đến dọn dẹp nhà mồ  thường xuyên, phải đem thức ăn cho  người chết và phải cúng kiến heo gà mỗi tháng. Theo tập tục  thì  hồn ma vẫn hiện diện ở chung quanh nhà mồ tạm. Mỗi năm, sau mùa mưa và sau khi kết thúc mùa thu hoạch thì  thấy người Gia Lai hay thường tổ chức lễ bỏ mả trong những ngày trông sáng ba ngày liên tục nhưng trước đó họ phải dành cả mấy tháng trời để dựng  một ngôi nhà mới  lại  thay thế  ngôi nhà tạm nhỏ  bé nhưng ngôi nhà nầy  nó chỉ là một cái xác vật chất không có linh hồn vì ma người chết đã  đi về với tổ tiên trong thế giới thần linh. Trong ba ngày lễ nầy, mọi người tổ chức ăn cỗ linh đình, uống rượu cần, tấu cồng chiêng, cùng nắm tay nhau múa vũ điệu truyền thống. Từ đây  các người thân thuộc của người chết mới cắt đứt vĩnh viễn mối quan hệ  với người chết. Người goá vợ hay góa chồng có  quyền lập lại cuộc đời. Còn nhà mộ nó tự  phân hủy một cách tự nhiên theo ngày tháng dù nó có hoành tráng hay trang trí thật đẹp vì theo tập tục, người thân thuộc mong rằng người chết có được một cuộc sống tốt đẹp ở thế giới bên kia. Tuy nhiên, nhà tang lễ  nầy  rất đáng được chú ý về mặt nghệ thuật và văn hóa qua  một số  tượng hình trang trí, các hoa văn được thấy trên các mái nhà của nhà mộ  để nói lên sự luân hồi của kiếp người cũng như sinh sôi nảy nở theo quan niệm của dân tộc Tây Nguyên.

Version française

Maison funéraire des Jaraï

Quiconque a eu l’occasion de visiter le musée d’ethnographie de  Hanoï voit probablement la maison funéraire des Jaraï construite suivant  le modèle du village Kep Pinh du district de Chu Pa de la province de Gia Lai. Les gens  de ce village n’osent pas la bâtir  pour le musée car il n’y a pas la cérémonie d’abandon de la tombe (ou cérémonie Pơ Thi), qui est considérée comme importante selon les coutumes des Jaraï.  En cas de construction de cette maison funéraire, ils seront punis par les esprits. C’est pour cela que le musée doit compter sur cinq personnes issues d’un autre village pour la construire. Selon l’archéologue vietnamien Ngô Văn Doanh, les rites funéraires des Jaraï ont non seulement des similitudes à celles des ethnies des Hauts Plateaux du Centre Vietnam (comme les Bahnar) mais aussi à  celles d’autres minorités ethniques de l’Asie du Sud- Est et de l’océan Pacifique.  En jetant un coup d’œil sur la tombe des Jaraï,  il  est possible d’être effrayé  car elle paraît être mystérieuse du fait qu’il y a autour de cette tombe, une palissade (krep) faite  de piliers massifs (ameh) sculptés sans aucune  finition avec des haches. C’est une façon d’évoquer  des sculptures très expressives en bois liées au culte de fertilité: des scènes d’activités sexuelles  entre mari et femme avec des organes génitaux démesurés,  des copulations entre hommes  et femmes,  des femmes enceintes,  des figures  accroupies, des personnages  se serrant le visage  avec leurs mains etc… Ce sont ces derniers qui sont de loin les plus populaires et qu’on retrouve aux quatre coins de la clôture.  Selon les villageois, ils représentent les gens destinés à servir les morts lorsque la cérémonie d’abandon de leur tombe n’a pas encore lieu.

Autrefois, les serviteurs  devaient  être enterrés vivants avec leurs riches propriétaires qui venaient  d’être décédés. Aujourd’hui, ces sculptures rappellent bien la scène où les  proches du défunt doivent rendre visite à sa maison funéraire  et alimenter quotidiennement  son « esprit » par l’intermédiaire d’un tuyau enfoncé au fond de sa tombe et se lamenter en position accroupie sur sa tombe avec les deux mains sur les genoux ou sur la joue. La mise en place de ces figures en bois en même temps que la décoration réalisée sur les toitures doit avoir lieu  juste avant  la période précédant la cérémonie d’abandon de la tombe.

Pour les Jaraï, la mort n’est pas la fin de cette vie mais le début d’une autre vie dans l’au-delà. L’âme que les Jaraï appellent  « m’gat »  se transforme en un un fantôme ou un esprit  (ou atau en Gia Lai). Désormais il rejoindra ses  ancêtres vivant dans le monde des esprits (poloi atau). Mais avant la cérémonie d’abandon de la tombe, le fantôme a besoin de nourriture, de vêtements et d’une petite maison temporaire pour y vivre comme ses proches encore en vie  avec les outils nécessaires au quotidien et emmenés avec lui dans la vie d’au-delà. Ceux-ci  sont réduits en miniature  (hache, couteau, pioche, hotte, calebasse d’eau etc…). C’est pourquoi on est habitué à voir l’installation temporaire  d’une hutte  sur la tombe. C’est la maison de l’esprit du défunt (ou bang atau). La tombe mesure 8,25 mètres de long et 2,25 mètres de large.

Y compris la clôture environnante, la maison funéraire a une superficie d’environ 45 mètres carrés. Les Jaraï ont la coutume d’enterrer ensemble les morts, ce qui signifie qu’une tombe aussi grande peut contenir de nombreux cercueils appartenant à des personnes proches les unes des autres.

La maison funéraire est associée souvent  à la cérémonie d’abandon de la tombe. La période de deuil peut durer des mois voire des années. La famille du défunt tente de garder le plus longtemps possible  le fantôme dans la famille. Cette  période est souvent appelée période d’entretien de la tombe (dja m’xàt): les proches doivent nettoyer régulièrement la tombe, apporter de la nourriture pour les morts et faire des offrandes alimentaires (poulets, porcs) tous les mois.

Selon la coutume, le fantôme ou l’esprit du trépassé est  toujours présent autour de la hutte provisoire. Chaque année, après la saison des pluies et après la fin de la saison des récoltes, les Jaraï organisent souvent la cérémonie d’abandon de la tombe  durant les trois jours lumineux consécutifs  mais avant cela, ils doivent passer plusieurs mois à construire la maison funéraire. Celle-ci va remplacer  la hutte provisoire  mais elle n’est qu’une  carcasse physique sans âme car l’esprit du défunt  est déjà parti pour rejoindre ses ancêtres dans le monde des esprits. Durant ces trois jours, les gens s’organisent pour faire le festin, boire de l’alcool de riz, jouer des gongs, se tenir la main  dans les danses traditionnelles.

Désormais, les proches du défunt  couperont définitivement les liens avec le mort. Les veuves ou les veufs ont le droit de refaire leur vie. Quant à la maison funéraire, elle se décompose naturellement au fil des années malgré qu’elle soit grandiose ou magnifiquement décorée. Selon la coutume, les proches espèrent que le trépassé  aura  une belle vie dans l’au-delà.

Cependant, cette maison funéraire mérite de retenir une plus grande  attention artistique et culturelle à travers un certain nombre de figurines décoratives et de motifs retrouvés  sur les deux toits principaux et sur les deux petits toits à pignons triangulaires car cela représente la réincarnation de la vie humaine ainsi que la fécondité selon le concept du peuple des Hauts Plateaux.

English version

Jaraï Funeral Home

Anyone who has had the opportunity to visit the Ethnography Museum of Hanoi has probably seen the Jaraï funeral house built following the model of the Kep Pinh village in the Chu Pa district of Gia Lai province. The people of this village do not dare to build it for the museum because there is no tomb abandonment ceremony (or Pơ Thi ceremony), which is considered important according to Jaraï customs. If this funeral house is built, they will be punished by the spirits. That is why the museum has to rely on five people from another village to construct it. According to Vietnamese archaeologist Ngô Văn Doanh, the funeral rites of the Jaraï not only have similarities with those of the ethnic groups of the Central Highlands of Vietnam (such as the Bahnar) but also with those of other ethnic minorities in Southeast Asia and the Pacific Ocean. A glance at the Jaraï tomb can be frightening because it appears mysterious due to the fact that around this tomb there is a palisade (krep) made of massive pillars (ameh) carved without any finishing with axes.

It is a way to evoke very expressive wooden sculptures linked to fertility worship: scenes of sexual activities between husband and wife with oversized genitals, copulations between men and women, pregnant women, squatting figures, characters holding their faces with their hands, etc. The latter are by far the most popular and can be found at the four corners of the fence. According to the villagers, they represent people destined to serve the dead when the ceremony of abandoning their tomb has not yet taken place. In the past, servants had to be buried alive with their wealthy owners who had just died. Today, these sculptures vividly recall the scene where the deceased’s relatives must visit his funeral home and daily feed his « spirit » through a pipe inserted deep into his tomb and lament in a squatting position on his grave with both hands on their knees or on their cheek. The installation of these wooden figures, along with the decoration made on the roofs, must take place just before the period preceding the ceremony of abandoning the tomb.

For the Jaraï, death is not the end of this life but the beginning of another life in the afterlife. The soul, which the Jaraï call « m’gat, » transforms into a ghost or a spirit (or atau in Gia Lai). From now on, it will join its ancestors living in the spirit world (poloi atau). But before the ceremony of abandoning the grave, the ghost needs food, clothes, and a small temporary house to live in like its still-living relatives, along with the necessary daily tools taken with it into the afterlife. These are reduced to miniature size (axe, knife, pickaxe, basket, water gourd, etc.). That is why it is customary to see the temporary installation of a hut on the grave. It is the house of the spirit of the deceased (or bang atau). The grave measures 8.25 meters long and 2.25 meters wide. Including the surrounding fence, the funeral house has an area of about 45 square meters. The Jaraï have the custom of burying the dead together, which means that such a large grave can contain many coffins belonging to people close to each other.

The funeral home is often associated with the ceremony of abandoning the tomb. The mourning period can last months or even years. The family of the deceased tries to keep the ghost within the family for as long as possible. This period is often called the tomb maintenance period (dja m’xàt): relatives must regularly clean the tomb, bring food for the dead, and make food offerings (chickens, pigs) every month. According to custom, the ghost or spirit of the deceased is always present around the temporary hut. Every year, after the rainy season and after the end of the harvest season, the Jaraï often organize the ceremony of abandoning the tomb during three consecutive bright days, but before that, they must spend several months building the funeral house. This will replace the temporary hut but it is only a physical shell without a soul because the spirit of the deceased has already left to join their ancestors in the spirit world. During these three days, people organize a feast, drink rice wine, play gongs, and hold hands in traditional dances.

From now on, the deceased’s relatives will permanently sever ties with the dead. Widows or widowers have the right to start a new life. As for the funerary house, it naturally deteriorates over the years despite being grand or beautifully decorated. According to custom, the relatives hope that the deceased will have a good life in the afterlife. However, this funerary house deserves greater artistic and cultural attention through a number of decorative figurines and patterns found on the two main roofs and on the two small triangular gabled roofs, as this represents the reincarnation of human life as well as fertility according to the concept of the Highland people.

[Back to page « Vietnam, land of 54 ethnies »]

 

Tàn tích chế độ mẫu hệ (Les traces du régime matriarcal vietnamien)

 


Les traces du régime matriarcal vietnamien

Version française
Version anglaise

Cũng có một thời, dân tộc ta  cũng như mọi dân tộc khác ở trên thế giới  trải qua chế độ mẫu hệ cả.  Có bao giờ chúng ta c ó dịp nghĩ đến vấn đề nầy không? Chắc chắn là không bởi vì  khi mới sinh ra, chúng ta đều lấy họ cha cả chỉ có ở Pháp bây giờ mới có quyền thêm họ mẹ vào tên mình.  Trong ngôn ngữ tiếng Việt chúng ta thường ngày có dùng những từ ngữ còn giữ  tàn tích mẫu hệ mà không bao giờ  chúng ta nghĩ đến nhất là từ khi nước ta bước  sang qua chế độ phụ hệ từ lâu rồi. Ta thường nói VỢ CHỒNG chớ bao giờ nói CHỒNG VỢ đâu. Lúc nào ta cũng ám chỉ dòng họ bằng hai chữ BÀ CON. Đôi khi còn có sự khinh bỉ trong lời nói của ta khi dùng từ ngữ như  « gái nạ dòng » nhất là nạ chỉ dòng mẹ.  Theo sự nhận xét của nhà văn Bình Nguyên Lộc thì người  ta có hàm ý nói gái đã có nhiều chồng (hay đa phu) tức là gái không tốt đẹp. Tới ngày hôm nay, nước ta vẫn còn chế độ mẫu hệ ở nhiều nơi như ở Tây Nguyên với  các tộc người Chăm, Jarai, Êđê, Raglai, Churu thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Austronesian) hay là  các tộc M’nong, K’ho thuộc ngữ hệ Nam Á. Có người  nói nước ta theo chế độ phụ hệ từ khi  nước Giao Chỉ bị thôn tính  bởi Trung Hoa. Có lẽ là không đúng. Như vậy nước ta từ bỏ chế độ mẫu hệ mà sang chế độ phụ hệ từ lúc nào. Muốn biết  vấn đề nầy, các nhà khảo cổ hay thường dựa trên  hình thức chôn cất người  ở trong các mộ táng của các di chỉ có liên quan đến nền văn hoá trồng lúa nước. Chắc chắn là không phải thời kỳ các  Hùng Vương của nước Văn Lang cai trị  với nền văn hóa Phùng Nguyên vì viêc nối ngôi (cha truyền con nối)  được thấy rõ  qua  chế  độ  phụ  quyền trong truyền thuyết nhất là quyền lực chủ yếu thuộc về người con trai trưởng  với tổ chức xã hội thời bấy giờ.

Chúng ta cũng thừa biết   tổ tiên của tộc Việt  có nguồn gốc trực tiếp từ vùng sông Dương Tử dựa trên các dữ liệu của các cuộc  khảo cứu di truyền ngày nay. Như vậy ta cần phải đi ngược lại thời  gian và cần  khảo sát ở các nơi có nền văn hóa trồng lúa nước ở trung hay hạ lưu sông Dương Tử. Theo nhà khảo cứu Nhật Shin’ichi Nakamura của đại học Kanazawa thì  cái nôi của nền văn hóa trồng lúa nước nó phải nằm ở nơi nầy nhưng với tình trạng hiểu biết hiện nay, chúng ta không thể định vị nó một cách chính xác trên bản đồ. Tuy nhiên có sự tiến hóa xã hội đáng kể ở các vùng hạ lưu sông Dương Tử như  ở Hà Mỗ ĐộLương Chữ trong thời kỳ đồ đá mới bằng cách chuyển sang:

-từ một  nền kinh tế đa  dạng  qua một nền kinh tế độc quyền trồng lúa nước
-từ một môi trường sống nông nghiệp qua sống ở  một thành phố
-từ một nghĩa trang tập thể chuyển sang một nghĩa trang của các nhóm người riêng biệt.

Tại sao Hà Mỗ Đồ? Theo sự nhận xét của nhà khảo cổ Pháp Corinne Debaine-Francfort thì ở di chỉ Hà Mỗ Độ người ta khám phá ra không những  các tàng tích của một nhà sàn bằng gỗ  khác lối nhà bằng đất ở miền bắc Trung Hoa mà có cả luôn các hột lúa được trồng trên những cánh đồng ngập nước bằng cách sử dụng cuốc làm từ vảy động vật vào năm 1973 ở Chiết Giang (Zheijiang). Có thể nói lúa đã được thuần hóa ở nơi nầy có niên đại khoảng chừng từ 4770 năm  đến 5000 năm trước Công Nguyên (TCN). Dân cư ở đây có nét đặc trưng của người Mongoloïde và Australo-Négroïde (hay tộc Việt). Khi chết, họ  được chôn cất quay đầu về phía đông hoặc đông bắc và hầu hết không có vật lễ táng. Họ cũng không có  một nghĩa trang  xã xác định rõ ràng mà ngược lại họ  có một nghĩa trang thị tộc chung với tài sản tang lễ rất nhiều. Có thể xem ở  nơi đây còn chế độ mẫu hệ vì với  các di vật động vật như khỉ, tê giác, nai, voi, hổ, qui vân vân…  cho ta thấy các  cư  dân ở đây còn sống với nghề săn bắt và chài lưới. Vai trò của người đàn ông cũng chưa được xem quan trọng bởi vì cũng chưa cần có một  tổ  chức xã hội cần nhiều nhân lực cho việc sản xuất như chế tạo công cụ,  tích trữ gạo ở  các vựa lúa,  đúc đồng vân vân… cũng như  việc phân phối  các công việc  nặng nhọc để có kết quả mong muốn trong mùa  thu gặt. Người đàn ông hầu như rất ít quyền lực và không có quyền sở hữu tài sản.

Ngược  lại ở các  di chỉ của nền văn hóa Lương Chử thì được thấy sư thay đổi  rõ rệt trong sự cân bằng quyền lực giữa chồng và vợ. Thí dụ, trong số các đồ mai táng ở các mộ cá nhân thì các nông cụ như cái xẻng  làm bằng đá đẽo thì dành cho nam giới còn bánh xe dệt thì vẫn còn đồ vật chính cho nữ giới.

Như vậy chứng tỏ ở thời đó người đàn ông trở thành  công nhân chính ở ngoài ruộng đồng và người đàn bà chỉ còn làm các công việc ở trong nhà. Hơn nữa, còn cho thấy các thợ đá chuyển đổi nghề và trở thành  những người thợ đẽo ngọc khiến dẫn đến  một giai đoạn quan trọng trong sự phát triển công nghiệp và sự phân chia công việc ở  trong xã  hội và tạo ra sự phân chia giai cấp giữa người nghèo và người giàu mà luôn cả thành phần qúi tộc và tôn giáo.  Từ đó mới có  sự  góp phần vào sự phân chia trong đơn vị gia đình. Cũng từ đó bắt đầu xuất hiện hình thức một vợ, một chồng, người vợ theo chồng về gia đình nhà chồng, con cái cũng sống chung cùng cha mẹ và gia đình và lấy họ cha lúc mới sinh ra. Khi chết chồng vợ được chôn chung  luôn cả người  trong  gia tộc phụ hệ.

Nói tóm lại chúng ta có thể  khẳng định  rằng người Việt  theo chế độ  phụ hệ rất sớm từ khi tổ tiên ta  còn ở lưu vực sông Dương Tử.  Bởi vậy khi di cư trở về lại đồng bằng sông Hồng, họ vẫn giữ chế độ phụ hệ dưới thời kỳ Hồng Bàng với văn hóa Phùng Nguyên.

Version française

Les traces du régime matriarcal vietnamien

Il y  a un temps où notre peuple comme les autres peuples du monde adopte le régime matriarcal.  Avons-nous l’occasion de penser à cela par nous-mêmes ? Certainement pas car à la naissance, nous avons tous pris le nom de notre père, sauf en France où nous avons le droit d’ajouter maintenant le nom de notre mère à notre nom. Dans la langue vietnamienne, on se sert souvent des mots qui gardent encore les traces du système matriarcal auquel on ne pense jamais d’autant plus que notre pays a adopté le système patriarcal depuis si longtemps. On dit souvent femme/mari (VỢ CHỒNG) mais jamais mari/femme (CHỒNG VỢ). On est habitué à  désigner la lignée familiale avec le terme « BÀ CON » où le mot BÀ (madame)  précède toujours le mot  CON  (ou enfant). Parfois, il y a du mépris dans les propos lorsqu’on emploie le terme suivant  « gái nạ dòng ou femme divorcée » où le mot nạ se réfère à la lignée de la mère. Selon la remarque  de l’écrivain Binh Nguyên Lộc, on veut insinuer  une  fille polyandre. Cela veut dire implicitement une mauvaise fille. Jusqu’à ce jour, notre pays continue à avoir encore le régime matriarcal dans de nombreux endroits comme sur les Hauts Plateaux du Vietnam avec les ethnies Cham, Jarai, Ede, Raglai, Churu appartenant à la famille linguistique austronésienne ou les M’nong, les K’ho  de  la famille des langues austro-asiatiques. Certains prétendent que notre pays a adopté le système patriarcal depuis l’annexion de Jiaozhi (Giao Chỉ)  par la Chine.

C’est certainement faux. Alors, depuis quand notre pays a-t-il abandonné le système matriarcal au profit du  système patriarcal ? Pour approfondir cette question, les archéologues ont l’habitude de s’appuyer souvent sur la méthode d’inhumation des morts  dans les tombes des sites liés à la civilisation de la riziculture inondée. Ce n’est certainement pas l’époque où les rois Hùng du royaume de Văn Lang régnaient avec la culture de Phùng Nguyên car la succession au trône s’opère clairement à travers la patriarchie dans la légende, notamment le pouvoir majeur revenant toujours à l’aîné de  la famille dans  l’organisation sociale de l’époque. Nous savons également que les ancêtres du peuple vietnamien étaient issus directement de la région du fleuve Bleu (Yang Tsé) en nous basant sur les données des travaux de recherche génétique d’aujourd’hui. Nous devons remonter ainsi le temps et analyser les lieux de culture du riz inondé dans les  régions du cours moyen et inférieur du fleuve Yang Tsé car selon le chercheur japonais  Shin’ichi Nakamura  de l’université Kanazawa,  le berceau de la riziculture doit s’y trouver mais en l’état actuel des connaissances, il est difficile de le localiser très précisément sur une carte géographique.

Cependant, il y a l’évolution sociale dans les  régions du cours inférieur du  fleuve Yang Tsé (sites archéologiques  de Hemudu et Liangzhu)  au cours de la période néolithique en passant:

-d’une économie diversifiée à une économie  exclusivement rizicole
– d’un habitat agricole à  un habitat citadin
– d’un cimetière collectif au cimetière des groupes particuliers.

Pourquoi le site de Hemudu? Selon l’archéologue française Corinne Debaine-Francfort, on a trouvé  non seulement les restes d’un habitat lacustre en bois monté sur pilotis bien différent des maisons en terre  du nord de la Chine mais aussi les grains de riz cultivés  dans des champs inondés à l’aide des houes fabriquées à partir d’omoplates d’animaux en 1973 dans le site néolithique le plus ancien de la région de  Hemudu  (Zheijiang). On peut dire que le riz a été domestiqué dans ce lieu datant d’environ 4770 ans à 5000 ans avant J.C. La population vivant ici possédait des traits à la fois mongoloïde et australo-négroïde. Lors du décès, les gens d’ici  étaient  enterrés la tête tournée vers l’est ou le nord-est, et n’avaient pour la plupart aucune offrande. Ils n’avaient pas non plus de cimetière communal clairement défini. Par contre ils avaient un cimetière clanique commun avec de nombreux biens  funéraires. On peut voir qu’il y a encore  ici un système matriarcal car on y trouve les restes d’animaux comme les singes, les rhinocéros, les cerfs, les éléphants, les tigres, les tortues etc. Cela montre que les habitants d’ici vivaient encore de la chasse et de la pêche à cette époque.

Le rôle de l’homme  n’est pas  considéré important car il n’est pas encore nécessaire d’avoir une organisation sociale réclamant beaucoup de ressources humaines pour la production comme la fabrication d’outils, l’emmagasinage du riz dans les greniers, la fonte du bronze etc…  comme la répartition des tâches ardues pour obtenir le résultat souhaité durant la saison des récoltes. L’homme semble avoir peu de pouvoir et n’a pas le droit de posséder ou d’hériter de terres.

En revanche, sur les sites néolithiques de la culture de Liangzhu, il y a un changement manifeste  dans l’équilibre des pouvoirs entre mari et femme. Par exemple, parmi les objets funéraires dans les tombes individuelles, les outils agricoles tels que les pelles en pierre polie sont destinées aux hommes et les roues à tisser restent les principaux objets des femmes. Cela prouve qu’à cette époque les hommes constituaient la main d’œuvre principale  dans les rizières et les femmes n’assumaient que  les travaux ménagers.

De plus, les tailleurs de pierre étaient obligés de changer de métier et  ils étaient devenus des tailleurs de jade. Cela a conduit à une période importante du développement industriel et de la division du travail dans la société et a favorisé l’apparition et la distinction  de classe entre les pauvres et les riches mais aussi  entre l’aristocratie et la religion. Depuis lors, il y a eu aussi  une contribution à la division dans la cellule familiale.

C’est aussi à partir de ce moment-là  que la monogamie a commencé à apparaître.  La femme a suivi son mari pour vivre dans la famille de son mari. Les enfants ont pu vivre également avec leurs parents et leur famille et ont pris désormais le nom de famille du père à leur naissance.  Lors du décès, le mari et sa femme pouvaient être enterrés ensemble avec les membres de leur famille patriarcale.

Bref, on peut affirmer que les Vietnamiens ont suivi très tôt le système patriarcal au moment où nos ancêtres  vivaient encore dans le bassin du Yang Tsé. Par conséquent, lors de leur retour dans le delta du fleuve Rouge, ils ont continué à conserver le patriarcat sous la dynastie des Hồng Bàng avec la culture de  Phùng Nguyên.

Version anglaise

Traces of the Vietnamese matriarchal regime.

There was a time when our people, like other peoples of the world, adopted the matriarchal system. Do we have the opportunity to think about this for ourselves? Certainly not, because at birth, we all took our father’s name, except in France where we now have the right to add our mother’s name to our own. In the Vietnamese language, we often use words that still retain traces of the matriarchal system, which we never think about, especially since our country has adopted the patriarchal system for so long. People often say wife/husband (VỢ CHỒNG) but never husband/wife (CHỒNG VỢ). We are accustomed to designating the family lineage with the term « BÀ CON » where the word (madam) always precedes the word CON (or child). Sometimes, there is contempt in the words when using the following term « gái nạ dòng » or divorced woman, where the word nạ refers to the mother’s lineage. According to the writer Binh Nguyên Lộc’s remark, it implies a polyandrous girl. This implicitly means a bad girl.

To this day, our country still has the matriarchal system in many places, such as in the Central Highlands of Vietnam with the Cham, Jarai, Ede, Raglai, Churu ethnic groups belonging to the Austronesian language family, or the M’nong, the K’ho of the Austroasiatic language family. Some claim that our country adopted the patriarchal system since the annexation of Jiaozhi (Giao Chỉ) by China.

That is certainly false. So, since when did our country abandon the matriarchal system in favor of the patriarchal system? To delve deeper into this question, archaeologists often rely on the method of burial of the dead in the tombs of sites linked to the civilization of wet-rice cultivation. It is certainly not the era when the Hùng kings of the Văn Lang kingdom ruled with the Phùng Nguyên culture because succession to the throne clearly operated through patriarchy in the legend, notably with major power always going to the eldest in the family within the social organization of the time. We also know that the ancestors of the Vietnamese people came directly from the Blue River (Yangtze) region based on data from current genetic research. We must thus go back in time and analyze the wet-rice cultivation sites in the middle and lower reaches of the Yangtze River because, according to the Japanese researcher Shin’ichi Nakamura from Kanazawa University, the cradle of rice cultivation should be there, but with current knowledge, it is difficult to pinpoint it very precisely on a geographical map.

However, there is social evolution in the lower reaches of the Yangtze River regions (archaeological sites of Hemudu and Liangzhu) during the Neolithic period passing through:

– From a diversified economy to an exclusively rice-based economy
– From an agricultural habitat to an urban habitat
– From a collective cemetery to a cemetery for specific groups.

Why the Hemudu site? According to the French archaeologist Corinne Debaine-Francfort, not only were the remains of a stilted wooden lakeside habitat found, quite different from the earthen houses of northern China, but also rice grains cultivated in flooded fields using hoes made from animal shoulder blades in 1973 at the oldest Neolithic site in the Hemudu region (Zhejiang). It can be said that rice was domesticated at this site dating back approximately 4770 to 5000 years BC. The population living here had both Mongoloid and Australo-Negroid features. Upon death, the people here were buried with their heads turned towards the east or northeast, and most had no offerings. They also did not have a clearly defined communal cemetery. However, they had a common clan cemetery with many funerary goods. It can be seen that there was still a matriarchal system here because remains of animals such as monkeys, rhinoceroses, deer, elephants, tigers, turtles, etc. were found. This shows that the inhabitants still lived by hunting and fishing at that time.

The role of men is not considered important because there is not yet a need for a social organization requiring many human resources for production, such as tool making, storing rice in granaries, bronze smelting, etc., or the distribution of arduous tasks to achieve the desired result during the harvest season. Men seem to have little power and do not have the right to own or inherit land.

On the other hand, at the Neolithic sites of the Liangzhu culture, there is a clear change in the balance of power between husband and wife. For example, among the funerary objects in individual graves, agricultural tools such as polished stone shovels are intended for men, while looms remain the main objects for women. This proves that at that time men constituted the main workforce in the rice fields and women only took on household chores.

Furthermore, stone cutters were forced to change their profession and became jade cutters. This led to an important period of industrial development and division of labor in society and favored the emergence and distinction of classes between the poor and the rich, as well as between the aristocracy and religion. Since then, there has also been a contribution to division within the family unit.

It is also from that moment that monogamy began to appear. The woman followed her husband to live in her husband’s family. The children were also able to live with their parents and family and from then on took their father’s family name at birth. Upon death, the husband and wife could be buried together with the members of their patriarchal family.

In short, it can be affirmed that the Vietnamese followed the patriarchal system very early on when our ancestors were still living in the Yangtze River basin. Consequently, upon their return to the Red River delta, they continued to maintain patriarchy under the Hồng Bàng dynasty with the Phùng Nguyên culture.

Bibliographie:

Annick Levy-Ward : Les centres de diffusion du riz cultivé. De l’Asie du Sud-Est à la Chine. Études rurales, n°151-152, 1999
Shin’ichi Nakamura: LE RIZ, LE JADE ET LA VILLE. Évolution des sociétés néolithiques du Yangzi. Éditions de l’EHESS 2005/5 60e année, pp 1009-1034
Corinne Debaine-Francfort : La redécouverte de la Chine ancienne.  Editions Gallimard  1998.
Bình Nguyên Lộc: Lột trần Việt ngữ. Talawas

[Return TRADITIONS]

Culture_Phung_nguyên

Version française

English version

Văn hóa Phùng Nguyên
Tìm về cội nguồn của dân tộc Việt.

Phùng Nguyên là tên một làng ở xã Phùng Nguyên, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, nơi mà tìm ra các di chỉ  của nền văn hóa nầy.  Được biết ngày nay văn hoá Đồng Sơn là văn hóa của người Lạc Việt tức là tổ tiên của người Việt hiện đại  qua các cuộc khai quật những địa điểm quan trọng có nhiều tầng văn hóa dày thì các nhà khảo cổ phát hiện không có lớp trống nào ngăn cách chẳng hạn như ở địa điểm Đình Chàng thuộc xã Đồng Anh (Hànội). Nơi nầy  ở trong  di chỉ Gò Mun thì thấy  có các ngôi nhà mộ của văn hóa Đồng Sơn mà dưới lớp văn hóa Gò Mun thì lại có văn hóa Đồng Đậu và Phùng Nguyên. Như vậy cho thấy không có sự phá vỡ tính liên tục giữa các văn hoá và cũng nhờ đó mà chúng ta được thấy phổ hệ Phùng Nguyên-Đồng Đậu-Gò Mun-Đồng sơn mà các nhà khảo cổ học dựng lên rất là chính xác nhất là  thêm vào đó còn có sự xác nhận bằng các niên đại carbon phóng xạ. Các nền văn hoá nầy được  nối tiếp nhau  trong thời gian có nghĩa là từ mỗi nền văn hóa nầy được phát triển thành văn hoá tiếp theo và  được phân bố ở trong vùng trung du và lưu vực sông Hồng như các tỉnh Phú Thọ, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Ninh Bình vân vân …  mà có thể nói là vùng đất thiêng liêng cội nguồn của dân tộc Việt.

Theo giáo sư khảo cổ học Hà Văn Tấn thì các văn hóa nầy có thể phân biệt dễ dàng qua đồ gốm. Muốn biết nguồn gốc người dân Việt hiện đại chúng ta cần phải đi ngược lên đến văn hóa Phùng Nguyên cách đây chừng 4.000 năm. Đấy là thời kỳ nước ta tên là Văn Lang được cai trị bởi các vua Hùng trong truyền thuyết. Theo sự nhận xét của giáo sư Hà văn Tấn, các bộ lạc của văn hoá Phùng Nguyên là cái lõi đầu tiên trong quá trình hình thành dân tộc Việt-Mường và xây dựng  nền quốc gia. Lúc đầu, các di vật Phùng Nguyên  tìm thấy ở trong các cuộc khai quật  đã đạt  được đến mức độ rất tinh xão  như ngọc, đá, gốm, xương, sừng khiến ai cũng xác định thuộc về thời kỳ giai đoạn hậu kỳ đá mới nhất là trong kỹ thuật chế tác đá và chế tác gốm  nhưng  về sau với sự hiện diện của một số cổ vật đồng  thau được tìm thấy thì các nhà nghiên cứu như Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng cũng thống nhất quan điểm cho rằng văn hóa Phùng Nguyên là  khởi nguồn của thời kỳ đồ đồng tại miền Bắc Việt Nam và có ảnh hưởng về sau đến nhiều vùng Đông Nam Á qua văn hóa Đồng Sơn.

Cư dân văn hoá Phùng Nguyên có phải là người Lạc Việt, tổ tiên của người Việt (Kinh) hiện đại hay là họ chỉ là tộc Việt hay là những người từ đâu đến định cư ở vùng sông Hồng? Họ đến từ Mã Lai hay sông Dương Tử chăng? Nguồn gốc của người Việt rất mơ hồ trong lịch sử bởi vì chỉ dựa trên truyền thuyết đôi khi còn làm ta khó tin và phi lý như truyền thuyết « Lạc Long Quân-Âu Cơ » với cái bọc nở ra một trăm trứng. Đối với nhà nghiên cứu Paul Pozner [1], thuật chép sử Việt Nam đều dựa trên truyền thống lịch sử lâu dài và vĩnh cửu và được thể hiện bởi một truyền thống truyền miệng kéo dài từ thế kỷ thứ 3 đến nửa thế kỷ thứ nhất của thiên niên kỷ đâu tiên dưới hình thức các truyền thuyết lịch sử ở trong các đền thờ cúng tổ tiên.

Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.

Hai câu trong ca dao trên đây cũng biểu lộ được một phần nào sự khôn khéo của người dân Việt trong việc bảo vệ nền văn hóa mà họ có từ thời đại Hồng Bàng trước sự đàn áp không ngừng của Trung Hoa khi thôn tính đựơc đất nước chúng ta. 

Từ việc tướng Mã Viện của nhà Đông Hán gom nhiều trống đồng và  nấu chảy chúng để đúc ngựa và dâng cho Hán đế đến việc phá chùa, đốt sách, bắt bớ và lưu đày hơn 10 000 người Việt tài năng trong đó có Nguyễn An, người thiết kế Tử Cấm Thành Bắc Kinh dưới thời Vĩnh Lạc Chu Đệ (nhà Minh) thì cho ta thấy chính sách bài bản và thâm độc của người Hoa Hạ (Trung Hoa) nhầm để đồng hóa tộc Lạc Việt, một tộc duy nhất trong đại tộc Bách Việt còn có nền độc lập vững chắc cho đến ngày nay.  May thay  chỉ có hơn 20 năm  gần đây từ 1998  nhờ  các công trình nghiên cứu về phát sinh chủng loại phân tử của các nhóm khảo cứu ở Mỹ và Âu Châu nhất là có sự tiến bộ  của kỹ thuật phân tích DNA trong ngành nhân học mà chúng ta có được dữ liệu trên toàn bộ gen cùng với dữ liệu về các bộ DNA một cách chính xác hơn khiến chúng ta không còn những khúc mắc lịch sử  và được thấy rõ ràng hơn nguồn gốc dân Việt hiện đại.

Khi tách rời Châu Phi, cư  dân cổ  di cư  ở  khắp mọi nơi với hai làn sóng, một làn sóng di cư đi đến vùng Đông Nam Á  gồm có  Vietnam qua ven biển  Ấn Độ  vào khoảng 60.000-30.000 năm trước Công Nguyên (TCN) trước khi đến Úc Châu  và đi ngược  lên Bắc Mỹ qua eo Bering.  Còn một làn khác đi lên đến Trung Cận Đông và Trung Á, men theo dãy  núi  Himalaya tới Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam vào khoảng 30.000 năm TCN nhờ các dữ liệu di truyền được biết. Dựa trên các tài liệu nghiên cứu di truyền, một số các tác giả Việt như Cung Đình Thanh, Hà Văn Thùy, Lang Linh hay Hoàng Nguyễn đưa ra một giã thuyết vô cùng tương hợp với truyền thuyết, lịch sử cùng các cuộc khai quật trong thời gian qua ở Việt Nam.

Chính lúc thời gian ở Đông Nam Á mà  người cổ (chủng cổ Mã Lai)(Indonésien) từ sự hoà hợp của hai đại chủng Mongolid và Australoid để lại dấu ấn ở  lưu vực sông Hồng với nền văn hóa nổi tiếng đó là văn hóa Hòa Bình (18000-10000 TCN) mà nhà nữ khảo cổ Pháp Madeleine Colani khám phá  được  vào năm 1922. Đây cũng là một nền văn hoá khởi nguồn cho văn minh của người Việt cổ. Nó được  lan truyền và ảnh hưởng  đến các nền văn hóa đồ  đá  mới của Trung Hoa như văn hóa Ngưỡng Thiều (Sơn Tây) và Hồng Sơn. Nhà vật lý người Anh Stephen Oppenheimer đã có tầm nhìn xa hơn những gì người ta chưa nghĩ đến  ở thời điểm đó bằng cách chứng minh bằng phương pháp khoa học và hợp lý rằng cái nôi của nền văn minh nhân loại nằm ở Đông Nam Á trong tác phẩm  » Địa đàng ở phương Đông ».

Theo tài liệu  nghiên cứu di truyền của  McColl cùng nhóm đồng nghiệp [2] thì người Hoà Bình lúc đó có gen gần nhất với gen của người  Onge sống ở trên đảo Andama và chưa có hoà huyết với các sắc  dân tộc khác.  Đây là loại người da đen tóc  quắn,  tầm vóc thấp mà ta nhận diện được với người Hoà Bình. Họ là những người đầu tiên biết rõ về kỹ thuật  trồng lúa  nước và nông nghiệp khác như ngũ cốc vân vân…(Hang Ma chẳng hạn) thế mà qua sự  mô tả của các nhà khảo cổ phương Tây  thì  họ chỉ là những người sống bằng nghề đánh cá, săn bắn và hái lượm.  Còn tệ hơn nửa là trong Hậu Hán Thư  còn cho rằng các quan thái thú Trung Hoa  Tích  Quang (Si Kouang) và Nhâm Diên (Ren Yan)  dạy tổ tiên ta mới biết  trồng lúa. Thật là phi lý  và hoang đường.

Sau đó có một trận lụt lớn đã xảy ở  thời điểm 12000 năm trước  khiến làm một phần lớn đất đai mà các nhóm cư dân tiền sử sinh sống như lưu vực sông Hồng đã chìm xuống dưới biển khiến buộc l òng họ phải mạo hiểm di tản khắp mọi nơi phía nam ở Châu Đại Dương, phía đông ở Thái Bình Dương hoặc phía tây ở Ấn Độ hay  phía bắc ở vùng sông Dương Tử mang theo đặc trưng văn hóa Hòa Bình với di chỉ Tiên Nhân động (Xian Ren Dong) chẳng hạn ở Giang Tây (Jiangxi). Theo các công việc  nghiên cứu di truyền thì họ là cư dân Đông Nam Á cổ (hay người Hoà Bình) có dừng chân ở lưu vực  sông Dương Tử vì nơi nầy thuận lợi ở thời điểm đó cho việc phát triển triển  trồng lúa nước. Còn có một nhóm người vẫn tiếp tục hành trình đi lên vùng Đông Á, đem theo lúa đã được họ  thuần hóa (di chỉ Thượng Sơn, Shangshan) qua ngã Chiết Giang (Zhe Jiang) và kê để rồi  định cư  không những ở  đồng bằng sông Hoàng Hà mà còn lên đến tận vùng sông Liêu (Nội Mông).

Chính họ hợp nhất  ở nơi nầy vớí cư dân cổ Bắc Á, những người du mục có dấu tích ở hang Devil’s Gate  thuộc  vùng lãnh thổ Nga giáp ranh giới  với Triều Tiên (Tây Bá Lợi Á) mà tạo ra người Mongoloid phương Bắc điển hình và văn hoá  Hồng Sơn được tìm thấy từ khu Nội  Mông đến Liêu Ninh. Những  người Mông Cổ phương Bắc còn  tiến xuống vùng sông Hoàng Hà, nơi có  người Miêu tộc cư trú và gỉỏi về làm ruộng. Họ được gọi là  bộ tộc « Yi ».  Bởi vậy chữ tượng hình Yi 夷 được có nguồn gốc từ hình chữ  người 人  có mang một cây cung 弓  Họ được nổi bật trong việc cởi ngựa bắn cung và họ rất thiện chiến.  Bởi vậy họ dành thắng lợi với Hoàng Đế (Yandi)  trong cuộc chiến tranh với người Miêu tộc do Xi Vưu (Chiyou) cầm đầu tại Trác Lộc (Zhuolu) ở Hà Bắc (Hebei)  vào năm 2704 TCN và với Viêm Đế (Thần Nông) 3 lần khiến dẫn đến sự thành hình nền văn minh Hoa Hạ (Ngưỡng Thiều (Yangshao)  và Đại Vấn Khẩu (Dawenkou)) và tạo ra chủng Mongoloïd phương Nam với cư dân cổ  Đông Nam Á. Người Mongoloïd phương Nam càng ngày càng tăng số lượng và trở thành chủ thể của lưu vực Hoàng Hà từ  đó mà cũng là tổ tiên của người Hán hiện đại.

Ngược lại  cũng có  cư dân tiền Nam Đảo và Tai-Kadai có nguồn gốc cũng từ vùng Đông Nam Á di cư lên sau và định cư sau đó ở  trong vùng Sơn Đông. Rồi lại từ  đó họ lại  xuống định cư về  sau ở vùng sông Dương Tử vào khoảng 6000 năm trước mang cả kê được tìm thấy sớm nhất ở di chỉ Tanshishan có niên đại 3500 TCN trong vùng Phúc Kiến [3] theo các dữ  liệu nghiên cứu di truyền [4][5].  Người Nam Đảo thì họ tiếp tục di cư sang đảo Đài Loan và phân tán ra sau đó ở vùng Đông Nam Á hải đảo.

Ở lưu vực sông Dương Tử có sự thành hình cộng đồng tộc Việt Tai-Kadai từ sự gần gũi của các cư dân bản địa thuộc hệ ngữ Nam Á và cư dân tiền Nam Đảo, Tai-Kadai đến sau. Từ  các yếu tố di truyền do sự hoà huyết  giữa các cư dân bản địa và di cư mới đến với các làn sóng di cư từ Bắc Á xuống Nam Á và ngược lại qua cả nghìn năm khiến có sự thay đổi ở trong cấu trúc của gen nhất là có sự ảnh hưởng của môi trường sinh sống khiến  có  sự  thay đổi dĩ nhiên về dáng vóc cũng như màu da và dẫn đến sự thành hình người Hoa Bắc, Hoa Nam cùng người Việt thuộc chủng Nam Á. Chủng nầy là chủng tộc hợp nhiều sắc tộc ở Đông Á. Cả tiếng nói cũng vay mượn từ  việc sinh sống chung của các tộc Việt với nhau ở khu vực sông Dương Tử nên có sự xuất hiện ngữ hệ Nam Á. Các nhà ngôn ngữ học người Mỹ Mei Tsulin Norman Jerry [6] đã xác định có 15 từ mượn từ  ngữ hệ Nam Á trong các văn bản tiếng Trung Hoa dưới  thời nhà Hán. Đây là trường hợp  điển hình của  các chữ Hán tự như từ jiang(là sông, giang trong tiếng Việt) hay từ nu (là ná trong tiếng Việt). Họ kết luận rằng có sự tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ Trung Quốc và Nam Á  ở vùng phía nam của Trung Quốc ngày nay. Chính cũng ở nơi  nầy mà tộc Việt  nhận thức họ khác biệt rõ ràng với các tộc du mục ở khu vực sông Hoàng Hà. Họ tự xưng họ là Yue.

Chữ  « Việt (Yue (rìu)) » mà họ dùng để tự xưng họ là cư dân sống  ở khu vực  sông Dương Tử hay có  thói quen dùng chiếc rìu để canh tác trồng trọt và tự vệ  khi có sự xâm lựợc của người Hoa Hạ chớ những người nầy lúc nào vẫn xem  họ là Man Di. Chính họ đã dẫn đến sự thành hình các nền văn hóa lớn như Lương Chử và Thạch Gia Hà. Chính nhờ những cuộc khai quật khảo cổ ở phía hạ lưu sông Dương Tử vào thập kỷ 1970 mà chúng ta được biết đến văn hóa Lương Chử. Văn hoá nầy  còn tiến bộ hơn nhiều lần so với văn hoá Ngưỡng Thiều vì nó có đến 3.300 năm TCN với sự khám phá  chữ tượng hình được  khắc trên đá, yếm rùa, xương thú trong bói toán và cúng tế. Chữ nầy có sớm hơn Giáp cốt văn Ân Khư 2.000 năm. Được  biết người cư dân Lương Chử có một lối sống định cư ổn định cùng một hệ thống tưới tiêu bằng nguồn nước lưu giữ qua  kênh mương và một tổ  chức xã hội cần nhiều nhân lực cho việc sản xuất và phân phối.

Có Man Di hay không nhưng ý thức dân tộc của tộc Việt được thấy rõ và  được  tìm thấy sớm  ở trên một hiện vật của văn hóa Lương Chử vào khoảng 3300 năm TCN có ghi khắc 4 biểu tượng  bằng  chữ  viết mà nhà nghiên cứu Trung Quốc, Đổng Sở Bình đã giải mã ý nghĩa là  “Phương Việt hội thi” có thể hiểu là “Liên minh quốc gia Việt ».

Vì vậy người Hoa Hạ đã tiếp nhận cách tự nhận của người Việt để chép vào Giáp Cốt văn nhà Thương và còn dùng rìu trong việc tế lễ theo lời nhận xét của nhà khảo cổ Pháp Corinne Debaine-Francfort.  Được xem là văn hóa ngọc thạch, văn hóa Lương Chử gồm có rất nhiều các đồ tạo tác từ ngọc thạch như rìu ngọc, cong, đĩa bích tế trời, ngọc tông vân vân…  được phát hiện trong các ngôi mộ của tầng lớp cai trị và quý  tộc còn các người nghèo thì được chôn cất với đồ gốm. Rìu ngọc vừa là lễ khí mà còn là vật biểu dương quyền lực mới chỉ bắt đầu được trông thấy ở văn hóa Lương Chử ở vùng Thái Hồ (Giang Tô, Jiangsu) trong địa bàn của nước Xích Quỷ của  vua Kinh Dương Vương, thủy tỗ của tộc Việt và  cha của Lạc Long Quân  trong truyền thuyết. Theo nhà văn người Việt Nguyên Nguyên [7] thì Kinh Dương Vương 涇陽王 có thể dịch là vua Việt trịnh trọng. Việc truyền thuyết ghi Kinh Dương Vương lên ngôi, lập nhà nước Xích Quỷ năm 2879 TCN sau khi nhà nước Lương Chử hình thành từ 3300 năm TCN, cho thấy nước Xích Quỷ ra đời đúng vào thời kỳ sung mãn của Lương Chử. Chủ nhân của nền văn hóa  nầy ghép cho vật tổ là chim và thú. Như vậy có liên hệ mật thiết đến Hồng Bàng là Chim và Rắn tức là Tiên và Rồng.

Do nước biển dâng lên cao nên tộc Việt phải dời  đến  vùng trung lưu của sông Dương Tử xung quanh Động Đình Hồ, nơi mà được tiếp nối bởi  văn hóa Thạch Gia Hà (Shijahe) 2600-2000 năm  TCN. Đây là một nền văn hóa ở cuối thời đại đồ đá  ở Hồ Bắc với  1000 hiện vật được tìm thấy. Tương tự thành phố Lương Chử, thành phố  Thạch Gia Hà có  một hệ thống kênh mương được đào xung quanh các khu đô thị và kết nối với các con sông gần đó.  Trong số các hiện vật được tìm thấy, có một hiện vật cần có sự chú ý của mọi người đó là chiếc bình gốm lại có hình một thủ lỉnh mà trên đầu có cái gù trang sức  với lông chim rất phù hợp với hình người  nhảy múa mặc bộ đồ bằng lông chim trên các trống đồng (Ngọc Lũ chẳng hạn) của văn hoá Đồng Sơn. Đây chính là biểu tượng của tộc Việt. Thạch  Gia Hà  nằm ở trong địa bàn của nước Văn Lang tộc Việt. Qua sự mô tả địa lý trong truyền thuy ết thì được bi ết nước Văn Lang thời đó có đất đai rộng lớn  giáp ranh bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục (Tứ Xuyên) và có nhiều bộ tộc Việt sống rải rác từ trung lưu đến hạ lưu sông Dương Tử.

Tên Văn Lang có nguồn gốc từ tiếng Việt cổ là Blang hay Klang mà các dân tộc miền núi thường dùng để ám chỉ vật tổ, có thể  đây là một loài chim nước thuộc họ chim Diệc. Có thể xem thời đó nước  Văn Lang như một liên bang của các cộng đồng tộc Việt. Đây cũng là nhà nước đầu tiên của tộc Việt  theo truyền thuyết trong lịch sử Việt Nam. Có một điều đáng làm ta chú ý đến là ở văn hoá Thạch Gia Hà nầy có  một hiện vật được gọi là nha chương mà nó có ý nghĩa là cái răng bằng ngọc dùng để  tế núi và tế sông và  được phát hiện sớm nhất ở di chỉ Nhị Lý Đầu (Erlitou) thuộc văn hóa nhà Thương mà được các nhà khảo cổ công nhận hiện nay. Mà trong truyền thuyết thì có nói đến  giặc Ân qua chuyện Thánh Gióng. Như vậy có sự tiếp xúc giữa nước Văn Lang với văn hóa Ân Thương phải chăng đã nói lên cái lõi sự thật của truyền thuyết nhất là tìm được một số nhà chương không ít ở hai làng cổ Phùng Nguyên và Xóm Rền, hai nơi  nầy là di chỉ của văn hóa Phùng Nguyên.

Đến  thời điểm 2000 TCN  thì  có hạn hán ở vùng trung lưu của sông Dương Tử  qua các cuộc nghiên cứu khảo cổ và khí tượng khiến làm cư dân  ở Thạch  Gia Hà cũng như ở Lương Chử buộc lòng phải  di tản vì không còn tiếp tục hoạt động trồng lúa được nửa. Dựa trên các  nghiên cứu gen của Hugh McColl và các đồng nghiệp thì cư dân nông nghiệp ngữ hệ Nam Á lại di cư  trở về lại Đông Nam Á cách đây 2000 năm TCN và hoà hợp một số ít  với dân cư bản xứ sống hái lượm săn bắn.  Liên bang của các tộc Việt  ở sông Dương Tử cũng bị tan rã. Sự việc nầy làm biến mất đi hai nền văn hóa Lương Chữ và Thạch Gia Hà. Có thể xem sự tan rã nầy nó rất phù hợp  với truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ lúc chia tay: 50 đứa con theo cha đi xuống đồng bằng (Lạc Việt), 50 đứa con theo mẹ  Âu Cơ  lên núi (Âu Việt). Được cai trị bởi các Hùng Vương, nước Văn Lang cũng bị thu hẹp lại với 15 bộ lạc từ 1879 TCN.

Còn ở  châu thổ  của sông Hoàng Hà thì có ba triều  đại ra đời được kế tiếp nhau: Hạ  (2000-1600 TCN), Ân Thương (1600-1050 TCN) và Châu (1050-221 TCN) và đánh dấu sự kết thúc của thời tiền sử và sự khởi đầu cho nền văn minh ở Trung Quốc. Còn ở lưu vực sông Dương Từ có sự thành hình nhiều tiểu quốc tộc Việt lúc đầu, rồi từ từ thôn tính lẫn nhau để thành hình các nước lớn mà chúng ta được biết qua sử Trung Hoa như nước Ngô Việt của Ngũ Tử Tư (Wu Zixu) hay nước Việt của Câu Tiễn (Goujian) ở thời Xuân Thu và Chiến Quốc (770–221 TCN) rồi sau đó bị nước Sở thuộc đại tộc Bách Việt  thôn tính nhờ Ngô Khởi (Wu Qi) trước khi Tần Thủy Hoàng diệt Sở thống nhất Trung Hoa.

Tóm lại, những cư dân nông nghiệp tộc Việt lại trở về lại Đông Nam Á và châu thổ sông Hồng là những người hậu duệ của những người tiền sử  từ Đông Nam Á di cư lên khu vực sông Dương Tử  cách đây 12000 năm trước.

Họ là tổ tiên của người Việt hiện đại. Chính nhờ các đặc điểm nhân chủng và di truyền, phong tục tập quán và ngôn ngữ, chúng ta có quyền khẳng định giờ đây chúng ta là người Việt phương nam thuộc ngữ hệ Nam Á mặc dù chỉ còn lại ở nơi ta truyền thuyết để xác minh nguồn gốc sau 1000 năm đô hộ của người Hoa Hạ.

Version française

Culture Phùng Nguyên
À la recherche de l’origine du peuple vietnamien.

Phùng Nguyên est le nom d’un village portant le même nom dans le district de Lâm Thao de la province de Phú Thọ où se trouvent les vestiges de cette culture.  On sait aujourd’hui que la culture de Đồng Sơn est la culture des Lo Yue qui sont les ancêtres des Vietnamiens d’aujourd’hui. Grâce aux fouilles archéologiques entamées dans les endroits importants ayant plusieurs couches culturelles, les archéologues vietnamiens ont découvert qu’il n’y a aucun creux les séparant  comme c’est le cas du site Đình Chàng dans la commune de  Đồng Anh (Hanoi). C’est à l’intérieur du site Gò Mun qu’on trouve les  tombes funéraires de la culture Đồng Sơn mais sous la couche de la  culture Gò Mun, il y a les cultures Đồng Đậu et Phùng Nguyên. Cela montre qu’il n’y a pas de rupture dans la continuité entre ces cultures. Grâce à cela on peut voir la généalogie Phùng Nguyên-Đồng Đậu-Gò Mun-Đồng sơn  que les archéologues ont établie de manière très précise avec la confirmation de plus  des datations au radiocarbone. Ces cultures se succèdent  dans le temps. Cela signifie qu’à partir de chacune d’elles, on retrouve son développement dans la suivante et sa répartition dans la Moyenne région  du Fleuve Rouge où se trouvent les provinces de Phú Thọ, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Ninh Bình etc…On peut dire que  c’est le territoire originel sacré  du peuple vietnamien.

Selon le professeur d’archéologie Hà Văn Tấn, ces cultures peuvent se distinguer facilement grâce à leur céramique. Pour connaître l’origine du peuple vietnamien, il faut remonter à la culture Phùng Nguyên il y a environ 4000 ans. C’est à l’époque où notre pays Văn Lang était gouverné par les rois Hùng  dans les légendes. Selon l’observation du professeur d’archéologie Hà văn Tấn,  les tribus de la culture Phùng Nguyên constituent le premier noyau dans le processus de formation du groupe ethnique Việt-Mường et celui de construction de la nation. Au début, les artefacts de Phùng Nguyên trouvés dans les fouilles ont atteint un niveau très sophistiqué: le jade, la pierre, la céramique, l’os, la corne  que tout le monde a identifiés  comme appartenant à la fin du Néolithique, notamment dans les techniques de fabrication de la pierre et de la céramique. Mais en présence d’un certain nombre d’objets  en bronze trouvés plus tard, les chercheurs tels que Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng étaient d’accord de reconnaître que la culture de Phùng Nguyên était à l’origine de l’âge du bronze au nord du Vietnam et qu’elle avait une influence notable plus tard dans  de nombreuses régions de l’Asie du Sud-Est par l’intermédiaire de la culture Đồng Sơn.

Les habitants de la culture Phùng Nguyên sont-ils les  Luo Yue, les ancêtres des Vietnamiens d’aujourd’hui (les Kinh), ou sont-ils simplement un groupe ethnique Yue ou bien les gens venus de quelque part pour s’installer dans la région du Fleuve Rouge? Sont-ils venus de la Malaisie ou du fleuve Yangtsé ? L’origine du peuple vietnamien est très confuse dans l’histoire car en se fiant uniquement à des légendes,  il nous est difficile de croire et d’accepter le caractère irrationnel dans la légende du « Lạc Long Quân-Âu Cơ » avec une poche faisant éclore une centaine d’œufs. Pour le chercheur Paul Pozner [1] l’historiographie vietnamienne se base sur une très longue et permanente tradition historique, laquelle est représentée par une tradition historique orale durant le 3ème – 1ère moitié du premier  millénaire avant notre ère sous forme de légendes historiques dans les temples des cultes des ancêtres.

Les deux vers suivants:

Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.

Avec cent ans, la stèle de pierre continue à se détériorer
Avec mille ans, les paroles des gens continuent à rester en vigueur

témoignent  de la pratique menée sciemment par les Vietnamiens dans la préservation de la culture dont ils ont hérité  durant la période de Hồng Bàng face à la répression incessante de la Chine au moment de l’annexion de leur pays.  

De  la confiscation de nombreux tambours en bronze  par le généralissime Ma Yuan de la dynastie des Han de l’Est pour les faire fondre en chevaux offerts à son empereur jusqu’à la destruction systématique des pagodes, l’autodafé des livres, l’arrêt et la condamnation à l’exil plus de 10 000 vietnamiens talentueux dont Nguyễn An (ou Ruan An), l’architecte en chef de la Cité Interdite à Pékin sous le règne de  Yongle (dynastie des Ming), cela nous a montré que  les Chinois tentaient d’assimiler d’une manière méthodique  et malveillante les Luo Yue, la seule ethnie dans les « Cent Yue » gardant encore l’indépendance jusqu’à ce jour. Heureusement, c’est seulement au cours des vingt dernières années depuis 1998 que les recherches sur la phylogénétique moléculaire effectuées par les groupes de recherche aux États-Unis et en Europe, avec notamment  l’avancement des techniques d’analyse de l’ADN en anthropologie, nous facilitent d’obtenir les données sur l’ensemble des gènes et sur les molécules ADN de manière plus précise. Cela permet de n’avoir plus des accrocs historiques et de  connaître plus clairement  l’origine des Vietnamiens.

En quittant l’Afrique, les hommes préhistoriques  avaient effectué la migration en deux vagues. La première vague s’orientait vers l’Asie du Sud-Est, y compris  le Vietnam à travers la côte orientale de l’Inde vers 60 000-30 000 ans avant J.C. avant d’atteindre l’Australie et de remonter vers l’Amérique du Nord via le détroit de Béring et la deuxième vague tentait  de remonter vers le Moyen-Orient et l’Asie centrale et de longer l’Himalaya jusqu’en Asie du Sud-Est, y compris  le Vietnam,  vers 30 000 ans avant J.C. grâce à des données génétiques connues. En se basant sur les documents des travaux de recherche génétique, un certain nombre d’auteurs vietnamiens (Cung Đình Thanh, Hà Văn Thùy, Lang Linh ou Hoàng Nguyễn) ont suggéré une théorie tout à fait compatible avec les légendes, l’histoire  et les fouilles archéologiques entamées  dans le passé au Vietnam.

C’est à l’époque en Asie du Sud-Est que les hommes préhistoriques  (groupe Indonésien) issus de la fusion des deux  races importantes mongoloïde et Australoïde,  avaient  laissé leur  empreinte dans le bassin du Fleuve Rouge avec la célèbre culture  Hoà Bình (18000-10000 B.C.) que l’archéologue française Madeleine Colani  découvrit en 1922. C’est aussi la culture qui était à l’origine de la civilisation des Proto-Vietnamiens. Elle s’était répandue et avait influencé les cultures néolithiques  de la Chine telles que les cultures Yangshao (Shanxi) et Hongshan. Le physicien britannique Stephen Oppenheimer est allé au-delà de ce que l’on pensa à cette  l’époque en démontrant par des méthodes scientifiques et logiques que le berceau de la civilisation humaine se trouvait  en Asie du Sud-Est dans « Paradis à l’Est ».

Selon les documents des travaux de la recherche génétique de McColl et de ses collègues [2], les habitants de Hoà Bình avaient à cette époque des gènes les plus proches de ceux du peuple Onge vivant sur l’île Andaman et n’étant pas encore fusionné avec d’autres groupes ethniques.  C’est le type d’homme noir aux cheveux courts et bouclés que nous pouvons identifier  avec les  habitants  de Hoà Bình. Ils étaient les premiers à bien connaître la culture du riz irrigué et d’autres techniques agricoles comme la culture des céréales etc… (La cave des esprits par exemple). Pourtant ils étaient décrits par les archéologues occidentaux comme des gens vivant de pêche, de chasse et de cueillette. Pire encore, dans les « Écrits des Han postérieurs (Hậu Hán Thư) », il est également dit que  les gouverneurs chinois Si Kouang (Tich Quang) et Ren Yan (Nham Dien) aviaent appris à nos ancêtres à cultiver le riz. C’est absurde et parano.

Puis il y a  une grande inondation (un déluge)  qui a eu lieu il y a 12.000 ans. Cela a fait s’enfoncer dans la mer une grande partie des terres habitées par des populations préhistoriques comme le bassin du Fleuve Rouge.  Ces dernières  étaient obligées  de le quitter et de s’enfuir en se réfugiant  partout dans le monde:  à l’est dans l’océan Pacifique, à l’ouest en Inde ou au nord dans la région du fleuve Yangtsé en emmenant avec  elles les objets caractéristiques de la culture Hoa Binh trouvés dans le site  Xian Ren Dong (Tiên Nhân động) de la province  Jiangxi (Giang Tây) par exemple. D’après les travaux de recherche génétique, il s’agit bien  d’anciens habitants de l’Asie du Sud-Est (ou les gens de Hoà Bình) faisant leur arrêt  dans le bassin du fleuve Yangtze car cet endroit était propice à l’époque au développement de la riziculture irriguée. Mais  il y a  encore un autre  groupe de personnes qui aimaient à continuer leur migration vers l’Asie de l’Est en emmenant  leur riz domestiqué (site de Shangshan, Thượng Sơn) et leur millet  et en  empruntant le passage à Zhejiang (Chiết Giang) pour s’installer non seulement dans le delta du Fleuve Jaune mais aussi  jusqu’à la région du Fleuve  Liao dans la Mongolie intérieure de la Chine d’aujourd’hui (Liêu Hà, Nội Mông Trung Hoa).

C’est dans cette dernière qu’ils  s’étaient unis aux autochtones  nomades de l’Asie du Nord dont les vestiges étaient trouvés dans la grotte de la Porte du Diable sur le territoire russe limitrophe de la Corée (Sibérie occidentale) pour donner naissance à une  race mongoloïde du Nord typique et une culture nommée « Hong Shan ( Hồng Sơn) » découverte de la régon de la Mongolie intérieure  jusqu’à Liaoning. Ces Mongoloïdes du Nord étaient descendus dans la région du fleuve Jaune où vivaient les Hmongs  qui étaient très doués en agriculture. Ils faisaient partie de la tribu Yi. Étant à l’origine le dessin d’un homme   portant un arc , ce caractère « Yi »  nous donne une idée précise sur la particularité de ces  gens du Nord. Ils se distinguaient par le tir à l’arc et ils étaient très habiles au combat. C’est pourquoi ils réussirent à gagner les victoires contre les Hmong dirigés par leur leader Chiyou (Xi Vưu) à Zhuolu (Trác Lộc) en l’an 2704 B.C. dans la province Hebei (Hà Bắc) et Shennong (Thần Nông) trois fois de suite, ce qui donna naissance ensuite à la civilisation chinoise (Yangshao (Ngưỡng Thiều) et Dawenkou (Đại Vấn Khẩu) et à la nouvelle race mongoloïde du Sud avec les anciens habitants de l’Asie du Sud Est. Étant de plus en plus nombreux, ces  nouveaux mongoloïdes du Sud  devenaient ainsi les sujets du bassin du fleuve Jaune et les ancêtres des Chinois d’aujourd’hui.

En revanche, il y a aussi les Pré-Austronésiens -Tai-Kadai d’origine de l’Asie du Sud-Est qui avaient migré et s’étaient  installés plus tard dans la région de Shandong. Puis à partir de celle-ci, ils étaient descendus dans le bassin du fleuve Yangtsé (ou fleuve Bleu, Dương Tử) il y a environ 6000 ans  en emmenant avec eux le millet. Cette céréale a été trouvée  sur le site de Tanshishan datant de 3500 ans avant J.C. environ   dans la région du Fujian [3] selon les données des travaux de la recherche génétique [4][5].Les Austronésiens  continuaient à migrer vers l’île de Taïwan et s’étaient dispersés ensuite dans les îles de l’Asie du Sud-Est.

Dans le bassin du fleuve Yangtsé, la formation de la communauté ethnique Yue-Tai-Kadai avait lieu du fait de la proximité des habitants autochtones de la famille linguistique austroasiatique et des Pré-Austronésiens -Tai-Kadai venus plus tard. Compte-tenu des facteurs génétiques dus à la fusion des autochtones et des nouveaux venus issus des vagues de migration de l’Asie du Nord vers l’Asie du Sud et vice versa sur des milliers d’années, il y a eu des modifications dans la structure des gènes, notamment sous l’influence de l’environnement, cela a provoqué une changement naturel de la taille et de la couleur de la peau et a conduit à la formation des Mongoloïdes du Nord et du Sud et des Yue de la famille austro-asiatique. Celle-ci est constituée de plusieurs ethnies dans l’Asie de l’Est. Même dans leur langue on constate qu’il y a l’emprunt  provenant de la coexistence des groupes ethniques Yue dans la région du fleuve Yangtsé.  C’est pour cela qu’il y a l’apparition de la famille linguistique austroasiatique. Les linguistes américains Mei Tsulin et Norman Jerry [6] ont identifié 15 mots empruntés de la langue  austroasiatique dans les textes chinois sous la dynastie des Han. C’est le cas typique des  caractères chinois comme le mot jiang (ou la  rivière en vietnamien) ou le mot nu (ou ná en vietnamien). Ils sont amenés à conclure qu’il y a un contact entre les deux langues chinoise et austroasiatique dans la partie sud de la Chine actuelle. C’est ici que les Yue  se rendaient compte qu’ils sont clairement différents des tribus nomades de la région du fleuve Jaune. Ils se disaient Yue.

Le mot « Yue (hache) » qu’ils utilisaient pour se désigner eux-mêmes en tant que les gens vivant dans la région du fleuve Yangtsé ou ayant l’habitude d’utiliser la hache pour cultiver les céréales  et se défendre lorsqu’il y avait  l’invasion des gens du Nord (les Chinois).  Ceux-ci les considéraient  toujours comme des Man Di (des Sauvages). Pourtant ce sont eux qui ont conduit à la formation des grandes civilisations comme  Liangzhu et Shijahe. C’est grâce aux fouilles archéologiques  entamées dans le cours inférieur du fleuve Yangtsé dans les années 1970 que l’on connaît la culture de Liangzhu. Celle-ci était bien plus avancée que la culture de Yang Shao puisqu’elle remonta à 3300 ans  avant J.C. avec la découverte des pictogrammes  sculptés sur  la pierre,  les plastrons de tortue,  les os des animaux dans les séances de divination et des offices religieux. Ces dessins figuratifs étaient antérieurs  de plus de 2 000 ans aux inscriptions oraculaires des Shang. On sait que les habitants de Liangzhu avaient un mode de vie sédentaire stable avec un système d’irrigation avec de l’eau emmagasinée par des canaux et une organisation sociale  nécessitant beaucoup de main-d’œuvre pour la production et la distribution.

Sont-ils les Man Di (sauvages) ou non ?  Mais la prise de conscience nationale du peuple Yue est évidente et se retrouve très tôt sur un artefact de la culture de Liangzhu vers 3300 av. J.C., portant l’inscription suivante composée de 4 symboles  que le chercheur chinois Đổng Sở Bình a réussi à décoder pour donner la signification suivante: la fédération des communautés Yue (Phương Việt hội thi).

C’est pour cela que les Chinois  ont  accepté  la  manière de s’identifier chez les Yue pour en  parler  dans les inscriptions oraculaires de la dynastie Shang et ont  utilisé également des haches cérémonielles yue dans les sacrifices d’humains ou d’animaux selon la remarque de l’archéologue française Corinne Debaine-Fracfort. Étant considérée comme la culture de jade, la culture  de Liangzhu avait de nombreux artefacts en jade tels que les haches en jade, les cylindres rituels cong, les disques bi rituels de jade en l’honneur du Ciel, les jades etc. Le tout a été découvert dans les tombes de la classe dirigeante et aristocratique tandis que la céramique a été réservée pour la classe inférieure. La hache cérémonielle en jade  était à la fois une arme de cérémonie et un objet de pouvoir qui commença à être découvert à peine dans la culture de  Liangzhu à  Taihu (Jiangsu)  dans l’aire du pays Xích Quỷ du roi Kinh Dương Vương, le premier ancêtre du clan Yue et père de Lạc Long Quân dans la légende. Selon l’écrivain vietnamien  Nguyên Nguyên [7], le nom Kinh Dương Vương  涇陽王 peut se traduire en vietnamien: le roi Yue est solennel.

La légende selon laquelle  Kinh Dương Vương monta  sur le trône et  fonda le royaume de  Xích Quỷ en 2879 av. J.-C. après la formation de l’État de Liangzhu en 3300 av. J.C., montre  que la naissance du royaume de Xích Quỷ correspond bien à la période foisonnante de la culture de Liangzhu. Le propriétaire de cette culture choisit pour son totem l’union d’un oiseau et d’un animal. Il y a ainsi une liaison étroite avec la dynastie des Hồng Bàng évoquant implicitement l’oiseau et le serpent càd la Fée et le Dragon.

En raison de l’élévation du niveau de la mer, les Yue ont dû se déplacer vers  le cours moyen du fleuve YangTsé  dans la région autour du lac Dongting  (Động Đình Hồ). C’est ici qu’on voit la continuité  par la naissance de la culture de Shijahe (Thạch Gia Hà) 2600-2000 ans  av. J.C. Il s’agit d’une culture à la fin de l’âge de pierre polie  à Hubei avec 1000 artefacts trouvés. Semblable à la ville de Liangzhu, la ville de Shijiahe possède un système de canaux creusés autour des zones urbaines et reliés aux rivières voisines. Parmi les artefacts trouvés, il y a un objet retenant l’attention de tout le monde.  C’est un vase en céramique avec l’image d’un leader dont la tête est ornée d’une coiffure décorée de plumes d’oiseaux et qui convient  parfaitement à la figure dansante portant un costume de plumes sur les tambours en bronze de la culture Dong Son (Ngọc Lũ par exemple). C’est le symbole du peuple Yue. La ville Shijahe est située sur le territoire du royaume Văn Lang.  Compte-tenu de la description géographique dans la légende,  on sait que ce dernier possède un territoire très vaste  bordant au nord le lac Dongting  (Động Đình hồ), au sud le Champa (Hồ Tôn) (Chiêm Thành), à l’est la mer de Hai Nan et  à l’ouest  le royaume Ba Thục (Sichuan), où  de nombreuses tribus Yue vivent dispersées du cours moyen jusqu’au cours inférieur du fleuve Yangtse.

Le nom Văn Lang est dérivé de l’ancien mot Yue Blang ou Klang que les montagnards  utilisent souvent pour désigner le totem, c’est peut-être un oiseau aquatique de la famille des hérons. Le royaume de Văn Lang peut être considéré à cette époque comme une fédération de communautés ethniques Yue. C’est aussi le premier état de l’ethnie Yue selon la légende de l’histoire vietnamienne. Il y a une chose à laquelle on doit  prêter attention c’est que dans cette culture de Shijahe il y a un artefact appelé « Nha Chương » signifiant une dent de jade utilisée pour les cérémonies rituelles en l’honneur des montagnes et des fleuves. Cette lame de cérémonie a été découverte  très tôt dans le site d’Erlitou (Nhị Lý Đầu) appartenant  à la culture des Shang reconnue aujourd’hui par les archéologues. Mais dans la légende vietnamienne, on se réfère aussi  à la confrontation  militaire avec les Shang à travers l’histoire  mythique du roi céleste Phù Đổng ou Saint Gióng). Donc  il y a  le contact entre le royaume de V ăn Lang et la culture des Yin-Shang. Cela montre enfin  la vérité fondamentale de la légende, notamment avec un nombre assez important des  « Nha Chương » découverts  dans les anciens villages Phùng Nguyên et Xóm Rền considérés comme des sites appartenant à la culture de Phùng Nguyên.

En l’an 2000 avant J.C.,  il y avait une sécheresse dans la région du cours moyen du fleuve Yangtsé d’après  les études archéologiques et météorologiques. Cela a obligé les habitants de Shijiahe et Liangzhu  de migrer car ils  ne pouvaient plus continuer les activités agricoles. En s’appuyant sur les travaux de recherche génétique de Hugh McColl et de ses collègues, on sait que la population agraire austro-asiatique a migré vers l’Asie du Sud Est il y a 2000 ans av. J.C. et a fusionné avec la population autochtone vivant de cueillette et de chasse dans une proportion négligeable. La fédération des tribus Yue du fleuve Yangtsé a  été dissoute également. Cela a causé aussi  la disparition de deux cultures de Liangzhu et Shijiahe. On constate que cette désintégration est très cohérente avec la légende de  Lạc Long Quân Âu Cơ  au moment de la séparation:  50 enfants ont suivi leur père pour aller à la plaine (Lạc Việt) tandis  les 50  autres enfants ont accompagné  leur mère Âu Cơ  pour s’installer à la montagne (Âu Viet). Sous la gouvernance des rois Hùng, le royaume de Văn Lang se rétrécit aussi en l’an 1879 avant J.C. avec les 15 tribus.    

Dans le delta du fleuve Jaune, on compte trois dynasties successives : Xia (2000-1600 avant J.C.), Yin-Shang (1600-1050 avant J.C.) et Zhou (1050-221 avant J.C) marquant enfin  la fin de la préhistoire et les débuts de la civilisation chinoise. Dans le bassin du fleuve Yangtsé, de nombreux petits états Yue se sont formés dans un premier temps, puis ils se sont progressivement annexés pour donner naissance à des états importants que nous connaissons à travers l’histoire chinoise comme l’état  Wu-Yue de Wu Zixu (Ngũ Tử Tư) ou l’état Yue de Goujian (Câu Tiễn)  durant les périodes des Printemps et Automnes  et la période des Royaumes combattants (770-221 avant J.C.). Puis ces derniers étaient annexés à leur tour par Ngô Khởi (Wu Qi) de l’état Chu avant l’unification de la Chine par Qin Shi Huang Di (Tần Thủy Hoàng).

En résumé, les habitants agriculteurs Yue qui étaient de retour à cette époque en Asie du Sud-Est et dans le delta du fleuve Rouge sont les descendants des peuples préhistoriques d’Asie du Sud-Est (ou les gens de la culture Hoà Bình)  ayant migré vers la région du fleuve Yangtsé  il y a 12 000 ans.

Ce sont les ancêtres des Vietnamiens d’aujourd’hui. C’est grâce aux caractéristiques anthropologiques et génétiques,  aux coutumes et à la langue que nous avons le droit d’affirmer que nous sommes désormais les Mongoloïdes du Sud appartenant à la famille des langues austroasiatiques malgré qu’il reste seulement  en nous des légendes pour prouver notre origine après 1000 ans de domination chinoise.

English version

Phùng Nguyên culture
Tìm về cội nguồn của dân tộc Việt.

Phùng Nguyên is the name of a village with the same name in the Lâm Thao district of Phú Thọ province where the remains of this culture are found. It is now known that the Đồng Sơn culture is the culture of the Lo Yue, who are the ancestors of today’s Vietnamese. Thanks to archaeological excavations carried out in important places with multiple cultural layers, Vietnamese archaeologists have discovered that there is no gap separating them, as is the case with the Đình Chàng site in Đồng Anh commune (Hanoi). It is within the Gò Mun site that the burial tombs of the Đồng Sơn culture are found, but beneath the Đồng Sơn layer, there are the Đồng Đậu and Phùng Nguyên cultures. This shows that there is no break in continuity between these cultures. Thanks to this, we can see the Phùng Nguyên-Đồng Đậu-Gò Mun-Đồng Sơn genealogy that archaeologists have established very precisely with the confirmation of multiple radiocarbon datings. These cultures succeed each other over time. This means that from each of them, their development is found in the next and their distribution in the Middle Red River region where the provinces of Phú Thọ, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Ninh Bình, etc. are located. It can be said that this is the sacred original territory of the Vietnamese people.

According to archaeology professor Hà Văn Tấn, these cultures can be easily distinguished by their ceramics. To understand the origin of the Vietnamese people, one must go back to the Phùng Nguyên culture about 4000 years ago. This was the time when our country Văn Lang was ruled by the Hùng kings in legends. According to the observation of archaeology professor Hà Văn Tấn, the tribes of the Phùng Nguyên culture constitute the first core in the process of forming the Việt-Mường ethnic group and the construction of the nation. Initially, the Phùng Nguyên artifacts found in excavations reached a very sophisticated level: jade, stone, ceramics, bone, horn, all identified as belonging to the late Neolithic period, especially in the techniques of stone and ceramic making. But with the presence of a number of bronze objects found later, researchers such as Hà Văn Tấn and Trần Quốc Vượng agreed to recognize that the Phùng Nguyên culture was the origin of the Bronze Age in northern Vietnam and had a notable influence later in many regions of Southeast Asia through the Đông Sơn culture.

Are the inhabitants of the Phùng Nguyên culture, the Luo Yue, the ancestors of today’s Vietnamese (the Kinh), or are they simply a Yue ethnic group or people who came from somewhere else to settle in the Red River region? Did they come from Malaysia or the Yangtze River? The origin of the Vietnamese people is very confusing in history because, relying solely on legends, it is difficult for us to believe and accept the irrational nature in the legend of « Lạc Long Quân-Âu Cơ » with a pouch hatching a hundred eggs. For researcher Paul Pozner [1], Vietnamese historiography is based on a very long and continuous historical tradition, which is represented by an oral historical tradition during the 3rd to the first half of the first millennium BCE in the form of historical legends in the temples of ancestor worship.

The following two verses

Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.

With a hundred years, the stone stele continues to deteriorate
With a thousand years, the words of the people continue to remain in force

testify to the practice knowingly carried out by the Vietnamese in preserving the culture they inherited during the Hồng Bàng period in the face of incessant repression from China at the time of the annexation of their country.

From the confiscation of numerous bronze drums by the generalissimo Ma Yuan of the Eastern Han dynasty to melt them into horses offered to his emperor, to the systematic destruction of pagodas, the burning of books, the arrest and exile of more than 10,000 talented Vietnamese including Nguyễn An (or Ruan An), the chief architect of the Forbidden City in Beijing under the reign of Yongle (Ming dynasty), this has shown us that the Chinese attempted to assimilate the Luo Yue in a methodical and malicious manner, the only ethnic group among the « Hundred Yue » still maintaining independence to this day. Fortunately, it is only in the last twenty years since 1998 that research on molecular phylogenetics conducted by research groups in the United States and Europe, notably with advances in DNA analysis techniques in anthropology, has made it easier for us to obtain data on the entire genome and DNA molecules more precisely. This allows us to overcome historical gaps and to understand more clearly the origin of the Vietnamese.

When leaving Africa, prehistoric humans migrated in two waves. The first wave headed towards Southeast Asia, including Vietnam, via the eastern coast of India around 60,000-30,000 years B.C., before reaching Australia and moving up to North America via the Bering Strait. The second wave attempted to move up towards the Middle East and Central Asia and to follow the Himalayas to Southeast Asia, including Vietnam, around 30,000 years B.C., according to known genetic data. Based on genetic research documents, a number of Vietnamese authors (Cung Đình Thanh, Hà Văn Thùy, Lang Linh, or Hoàng Nguyễn) have suggested a theory fully compatible with legends, history, and archaeological excavations carried out in the past in Vietnam.

It was during this time in Southeast Asia that prehistoric humans (the Indonesian group), resulting from the fusion of the two major races Mongoloid and Australoid, left their mark in the Red River basin with the famous Hoà Bình culture (18,000-10,000 B.C.), which the French archaeologist Madeleine Colani discovered in 1922. This culture was also the origin of the Proto-Vietnamese civilization. It spread and influenced the Neolithic cultures of China, such as the Yangshao (Shanxi) and Hongshan cultures. The British physicist Stephen Oppenheimer went beyond what was thought at the time by demonstrating through scientific and logical methods that the cradle of human civilization was located in Southeast Asia in the « Paradise in the East. »

According to the documents from the genetic research work of McColl and his colleagues [2], the inhabitants of Hoà Bình at that time had genes closest to those of the Onge people living on the Andaman Island and who had not yet merged with other ethnic groups. This is the type of black man with short, curly hair that we can identify with the inhabitants of Hoà Bình. They were the first to have a good knowledge of irrigated rice culture and other agricultural techniques such as cereal cultivation, etc. (The cave of spirits, for example). Yet they were described by Western archaeologists as people living by fishing, hunting, and gathering. Worse still, in the « Later Han Writings (Hậu Hán Thư), » it is also said that the Chinese governors Si Kouang (Tich Quang) and Ren Yan (Nham Dien) taught our ancestors to cultivate rice. This is absurd and paranoid.

Then there was a great flood (a deluge) that took place 12,000 years ago. This caused a large part of the lands inhabited by prehistoric populations, such as the Red River basin, to sink into the sea. These populations were forced to leave and flee, seeking refuge all over the world: to the east in the Pacific Ocean, to the west in India, or to the north in the Yangtze River region, taking with them the characteristic objects of the Hoa Binh culture found at the Xian Ren Dong site (Tiên Nhân cave) in Jiangxi province, for example. According to genetic research, these were indeed ancient inhabitants of Southeast Asia (or the Hoa Binh people) who stopped in the Yangtze River basin because this place was favorable at the time for the development of irrigated rice cultivation. But there was also another group of people who liked to continue their migration towards East Asia, bringing their domesticated rice (Shangshan site, Thượng Sơn) and millet, and using the passage through Zhejiang to settle not only in the Yellow River delta but also as far as the Liao River region in Inner Mongolia of present-day China.

It is in this latter group that they had united with the nomadic indigenous peoples of Northern Asia, whose remains were found in the Devil’s Gate Cave on Russian territory bordering Korea (Western Siberia), giving rise to a typical Northern Mongoloid race and a culture named « Hong Shan (Hồng Sơn) » discovered from the Inner Mongolia region to Liaoning. These Northern Mongoloids descended into the Yellow River region where the Hmong lived, who were very skilled in agriculture. They were part of the Yi tribe. Originally, the character for a man carrying a bow 弓, this character « Yi » gives us a precise idea about the particularity of these Northern people. They were distinguished by archery and were very skilled in combat. That is why they succeeded in winning victories against the Hmong led by their leader Chiyou (Xi Vưu) at Zhuolu (Trác Lộc) in 2704 B.C. in Hebei province (Hà Bắc) and Shennong (Thần Nông) three times in a row, which subsequently gave birth to Chinese civilization (Yangshao (Ngưỡng Thiều) and Dawenkou (Đại Vấn Khẩu)) and to the new Southern Mongoloid race together with the ancient inhabitants of Southeast Asia. Increasing in number, these new Southern Mongoloids thus became the subjects of the Yellow River basin and the ancestors of the Chinese of today.

On the other hand, there are also the Pre-Austronesians – Tai-Kadai of Southeast Asian origin who had migrated and later settled in the Shandong region. From there, they moved down into the Yangtze River basin (or Blue River, Dương Tử) about 6000 years ago, bringing millet with them. This cereal was found at the Tanshishan site dating to around 3500 BC in the Fujian region [3], according to genetic research data [4][5]. The Austronesians continued to migrate to the island of Taiwan and then dispersed into the islands of Southeast Asia.

In the Yangtze River basin, the formation of the Yue-Tai-Kadai ethnic community took place due to the proximity of the indigenous inhabitants of the Austroasiatic language family and the later-arriving Pre-Austronesian Tai-Kadai peoples. Considering the genetic factors resulting from the fusion of the indigenous people and the newcomers from waves of migration from North Asia to South Asia and vice versa over thousands of years, there have been changes in the gene structure, notably influenced by the environment. This caused a natural change in size and skin color and led to the formation of the Northern and Southern Mongoloids and the Yue of the Austroasiatic family. This family consists of several ethnic groups in East Asia. Even in their language, one can observe borrowings resulting from the coexistence of the Yue ethnic groups in the Yangtze River region. This is why the Austroasiatic language family emerged. American linguists Mei Tsulin and Norman Jerry [6] identified 15 loanwords from the Austroasiatic language in Chinese texts under the Han dynasty. This is typically the case with Chinese characters such as the word jiang (or river in Vietnamese) or the word nu 弩 (or ná in Vietnamese). They are led to conclude that there was contact between the Chinese and Austroasiatic languages in the southern part of present-day China. It is here that the Yue realized they were clearly different from the nomadic tribes of the Yellow River region. They called themselves Yue.

The word « Yue (axe) » that they used to refer to themselves as the people living in the Yangtze River region or who were accustomed to using the axe to cultivate cereals and defend themselves during invasions by people from the North (the Chinese). These were always considered by them as Man Di (Savages). Yet it was they who led to the formation of great civilizations such as Liangzhu and Shijahe. It is thanks to the archaeological excavations begun in the lower course of the Yangtze River in the 1970s that the Liangzhu culture is known. This culture was much more advanced than the Yangshao culture since it dates back to 3300 BC with the discovery of pictograms carved on stone, turtle plastrons, animal bones used in divination sessions and religious ceremonies. These figurative drawings were more than 2,000 years earlier than the oracle inscriptions of the Shang. It is known that the inhabitants of Liangzhu had a stable sedentary lifestyle with an irrigation system storing water through canals and a social organization requiring a lot of labor for production and distribution.

Are they the Man Di (savages) or not? But the national consciousness of the Yue people is evident and can be found very early on an artifact from the Liangzhu culture around 3300 BC, bearing the following inscription composed of 4 symbols that the Chinese researcher Đổng Sở Bình managed to decode to give the following meaning: the federation of the Yue communities (Phương Việt hội thi).

That is why the Chinese accepted the way of identification among the Yue to speak about it in the oracle bone inscriptions of the Shang dynasty and also used Yue ceremonial axes in human or animal sacrifices, according to the observation of the French archaeologist Corinne Debaine-Fracfort. Considered as the jade culture, the Liangzhu culture had many jade artifacts such as jade axes, ritual cong cylinders, ritual bi jade discs in honor of Heaven, jades, etc. All were discovered in the tombs of the ruling and aristocratic class, while ceramics were reserved for the lower class. The ceremonial jade axe was both a ceremonial weapon and an object of power that began to be discovered only in the Liangzhu culture at Taihu (Jiangsu) in the area of the Xích Quỷ country of  Kinh Dương Vương, the first ancestor of the Yue clan and father of Lạc Long Quân in legend. According to the Vietnamese writer Nguyên Nguyên [7], the name Kinh Dương Vương 涇陽王 can be translated into Vietnamese as: the solemn king of Yue.

The legend according to which Kinh Dương Vương ascended the throne and founded the kingdom of Xích Quỷ in 2879 BC, after the formation of the Liangzhu State in 3300 BC, shows that the birth of the kingdom of Xích Quỷ corresponds well to the flourishing period of the Liangzhu culture. The owner of this culture chose for its totem the union of a bird and an animal. There is thus a close connection with the Hồng Bàng dynasty, implicitly evoking the bird and the serpent, i.e., the Fairy and the Dragon.

Due to the rising sea level, the Yue had to move to the middle course of the Yangtze River in the region around Dongting Lake (Động Đình Hồ). It is here that continuity is seen with the emergence of the Shijahe culture (Thạch Gia Hà) from 2600-2000 BCE. This is a culture from the late polished stone age in Hubei with 1000 artifacts found. Similar to the city of Liangzhu, the city of Shijiahe has a system of canals dug around urban areas and connected to nearby rivers. Among the artifacts found, there is an object that draws everyone’s attention. It is a ceramic vase with the image of a leader whose head is adorned with a headdress decorated with bird feathers and which perfectly matches the dancing figure wearing a feather costume on the bronze drums of the Dong Son culture (Ngọc Lũ for example). It is the symbol of the Yue people. The city of Shijahe is located in the territory of the Văn Lang kingdom. Considering the geographical description in the legend, it is known that the latter has a very vast territory bordering to the north Dongting Lake (Động Đình hồ), to the south Champa (Hồ Tôn) (Chiêm Thành), to the east the Hai Nan Sea, and to the west the Ba Thục kingdom (Sichuan), where many Yue tribes live scattered from the middle course to the lower course of the Yangtze River.

The name Văn Lang is derived from the ancient word Yue Blang or Klang that the mountaineers often use to designate the totem; it may be a water bird from the heron family. The kingdom of Văn Lang can be considered at that time as a federation of Yue ethnic communities. It is also the first state of the Yue ethnicity according to the legend of Vietnamese history. One thing to pay attention to is that in this Shijahe culture there is an artifact called « Nha Chương, » meaning a jade tooth used for ritual ceremonies honoring the mountains and rivers. This ceremonial blade was discovered very early at the Erlitou site (Nhị Lý Đầu), belonging to the Shang culture recognized today by archaeologists. But in Vietnamese legend, there is also a reference to the military confrontation with the Shang through the mythical story of the celestial king Phù Đổng or Saint Gióng. Thus, there was contact between the kingdom of Văn Lang and the Yin-Shang culture. This finally shows the fundamental truth of the legend, especially with a fairly significant number of « Nha Chương » discovered in the ancient Phùng Nguyên and Xóm Rền villages, considered sites belonging to the Phùng Nguyên culture.

In the year 2000 BC, there was a drought in the middle course region of the Yangtze River according to archaeological and meteorological studies. This forced the inhabitants of Shijiahe and Liangzhu to migrate because they could no longer continue agricultural activities. Based on the genetic research work of Hugh McColl and his colleagues, it is known that the Austroasiatic agrarian population migrated to Southeast Asia around 2000 BC and merged with the indigenous population living by gathering and hunting in a negligible proportion. The federation of the Yue tribes of the Yangtze River was also dissolved. This also caused the disappearance of the Liangzhu and Shijiahe cultures. It is noted that this disintegration is very consistent with the legend of Lạc Long Quân and Âu Cơ at the time of separation: 50 children followed their father to go to the plains (Lạc Việt) while the other 50 children accompanied their mother Âu Cơ to settle in the mountains (Âu Viet). Under the governance of the Hùng kings, the kingdom of Văn Lang also shrank in the year 1879 BC with the 15 tribes.

In the Yellow River delta, there are three successive dynasties: Xia (2000-1600 BC), Yin-Shang (1600-1050 BC), and Zhou (1050-221 BC), marking the end of prehistory and the beginnings of Chinese civilization. In the Yangtze River basin, many small Yue states initially formed, then gradually annexed each other to give rise to significant states known in Chinese history such as the Wu-Yue state of Wu Zixu (Ngũ Tử Tư) or the Yue state of Goujian (Câu Tiễn) during the Spring and Autumn periods and the Warring States period (770-221 BC). These were then annexed in turn by Ngô Khởi (Wu Qi) of the Chu state before the unification of China by Qin Shi Huang Di (Tần Thủy Hoàng).

In summary, the Yue farming inhabitants who were present at that time in Southeast Asia and in the Red River delta are the descendants of prehistoric peoples of Southeast Asia (or the people of the Hoà Bình culture) who migrated to the Yangtze River region 12,000 years ago.

They are the ancestors of today’s Vietnamese. It is thanks to anthropological and genetic characteristics, customs, and language that we have the right to affirm that we are now the Southern Mongoloids belonging to the Austroasiatic language family, even though only legends remain within us to prove our origin after 1000 years of Chinese domination.

[Return CIVILISATION]

Tài liều tham khảo

Stephen Oppenheimer: Địa đàng ở Phương Đông. Nhà Xuất Bản Lao Động.2005
Hà văn Tấn: Theo dấu các văn hóa cổ.  Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội. Hànội 1998.
Corinne Debaine-Francfort : La redécouverte de la Chine ancienne.  Editions Gallimard  1998.
Léonard Rousseau: La première conquête chinoise des pays annamites (IIIe siècle avant notre ère). BEFO, année 1923, Vol 23, no 1.
Bình Nguyên Lộc: Lột trần Việt ngữ. Talawas
[1] Paul Pozner : Le problème  des chroniques vietnamiennes., origines et influences étrangères.  BEFO, année 1980, vol 67, no 67, p 275-302
 [2]. Hugh McColl, Fernando Racimo, Lasse Vinner, et al. (2018). The prehistoric  peopling of Southeast Asia. Science; 361(6397):88-92.
[3] Zuo, Xinxin & Jin, Jianhui & Huang, Yunming & wei, Ge & jinqi, Dai & wei, Wu & fusheng, Li & taoqin, Xia & xipeng, Cai (2021). Earliest arrival of millet in the South China coast dating back to 5,500 years ago. Journal of Archaeological Science
https://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S0305440321000261
[4] Sun, Jin & Li, Yingxiang & Ma, Pengcheng & Yan, Shi & Cheng, Hui-Zhen & Fan, Zhi-Quan & Deng, Xiao-Hua & Ru, Kai & Wang, Chuan-Chao & Chen, Gang & Wei, Ryan. (2021). Shared paternal ancestry of Han, Tai-Kadai-speaking, and Austronesian-speaking populations as revealed by the high resolution phylogeny of O1a-M119 and distribution of its sub-lineages within China. American journal of physical anthropology. 174. 10.1002/ajpa.24240.
[5] Ko AM, Chen CY, Fu Q, et al. Early Austronesians: into and out of Taiwan. Am J Hum Genet. 2014;94(3):426-436. doi:10.1016/j.ajhg.2014.02.003.
[6] Norman Jerry- Mei tsulin 1976 The Austro asiatic in south China : some lexical evidence, Monumenta Serica 32 :274-301
[7]Nguyên Nguyên: Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương. 

Les eunuques de la dynastie des Nguyễn (Thái giám dưới triều đại nhà Nguyễn)

Thái giám dưới triều đại nhà Nguyễn

Version française 
English version

 

Khác với người bình thường, thái giám hay hoạn quan là người chuyên hầu hạ và phục vụ vua chúa dưới thời phong kiến. Đất nước ta có ba người đại tài hoạn quan và có công trạng ít ai có thể so sánh bằng vì họ  đem lại không những cho dân tộc ta một trang sử  vẻ vang rạng rỡ  vào bậc nhất mà còn cả niềm tự hào lớn lao. Đó là danh tướng  hoạn quan vĩ  đại nhất dưới triều đại nhà Lý, Lý Thường Kiệt, có công phá Tống bình Chiêm. Sau đó là Nguyễn An, kiến trúc sư tài năng bị lưu đày về Trung Quốc  bởi tướng Trương Phụ khi nhà Minh xâm chiếm Việt Nam và  làm thái giám với tên gọi A Lưu. Chính ông là người  kiến trúc trưởng thiết kế trong việc xây cất  Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh   dưới thời Minh Thành Tổ  Chu Đệ (Vĩnh Lạc). Sau cùng Lê Văn Duyệt  là một khai quốc công thần nhà Nguyễn mà đền thờ của ông  được mọi người chiêm bái ở Sàigon (hay thành phố Hồ Chí Minh) và  được gọi là Lăng Ông. Ông là người có công trạng bình định và phát triển vùng đất Nam kỳ với chức vụ Tổng Trấn Gia Định.

Tục lệ kén chọn hoạn quan nầy đã có từ thời nhà Lý nhưng nhiệm vụ chỉ để hầu hạ vua  chớ  không có quyền can dự chính sự và không có khả năng chuyên quyền  như  ở Trung Hoa  với hoạn quan Triệu Cao của Tần Thủy Hoàng  ở giai đoạn cuối của nhà Tần. Nếu sinh ra mà phi nam phi nữ gọi là giám sinh. Còn tự thiến thì gọi là giám lặt. Còn một khi vào đại nội để chuyên hầu vua thì gọi là yêm hoạn hay hoạn quan tức là  kẻ hạ đẳng phục vụ  chốn hoàng cung. Lý Thường Kiệt, ông là cháu năm đời của Ngô Quyền. Theo  lời kể trong quyển sách « Kể chuyện các quan thái giám trong lịch sử Việt Nam » của tác giả Phạm Minh Thảo thì mẹ ông, bà Hàn Diệu Chi trước khi có bầu sinh ra ông thì có gặp một ông lão già xem thiên văn tiên đoán rằng bà sẽ có  tin vui, có một người con trai khôi ngôi tuấn kiệt, sẽ uy danh lừng lẫy không những mang lại vinh quang cho dòng họ Ngô mà còn làm  rạng rỡ  nước Nam ta nữa nhưng có một điều là không có con để nối dòng. Ông khởi đầu sự nghiệp với một chức quan kỵ mã hiệu uý dưới triều nhà Lý.

Tuy có vợ nhưng không có con. Có một lần đi săn, vua Lý Thái Tông gặp được ông đem lòng qúi mến nhưng muốn được ở gần vua thì phải « tự yêm ». Còn với Nguyễn An thì cuộc đời rất trôi nổi lúc còn trẻ. Ông bị tướng nhà Minh Trương Phụ lưu đày mang về Trung Hoa để làm hoạn quan phục vụ trong cung vua nhà Minh sau khi chiếm nước ta và không ngần ngại áp đặt chính sách  lùng bắt tất cả trai trẻ có tài của nước ta. Bởi vậy Nguyễn An trở thành hoạn quan của vua Minh Thành Tổ (Chu Đệ) dưới cái tên Hoa là A Lưu. Ông là một nhà kiến trúc sư đại tài xuất chúng vì  ông không chỉ có công thiết kế, giám sát xây dựng cổ thành Bắc Kinh trong vòng ba năm với một vạn binh  chứ không năm năm với 18 vạn thợ  theo dự đoán của bộ công mà còn có tài trong các công trình trị thủy sông Hoàng Hà  của Trung Quốc. Theo  nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm thì Trung Quốc  đời sau cố lờ đi vì A Lưu là người An Nam nhưng may thay có bài viết của  nhà sử học đương đại  Trương Tú Dân được đăng báo công nhận vai trò quang trọng của Nguyễn An trong việc xây dựng lại Tử Cấm Thành (Bắc Kinh) và nhất là gần đây với phim tài liệu của Tây Đức « Tử Cấm Thành Bắc Kinh ». 

Sau cùng là Lê Văn Duyệt hay thường gọi là Tả Quân Duyệt. Có một lần Nguyễn Ánh (hay vua Gia Long về sau)  bị truy nã bởi quân Tây Sơn  chạy trốn ở vùng Rạch Gầm, làng Long Hưng tỉnh Mỹ Tho (nay là Tiền Giang)  và thuyền của ngài  được cứu bởi  Lê Văn Duyệt trong một đêm bão tố. Sau đó Nguyễn Ánh nhìn thấy Lê Văn Duyệt một cậu bé khác thường và có công cứu mạng ngài nên không ngại tuyển dụng ông làm thái giám để bảo vệ ngài và  cung quyến lúc đó ông chỉ 17 tuổi. Theo nhà văn Hoàng Lai Giang, Lê Văn Duyệt là một tấm gương soi sáng muôn đời ở phương nam. Ông không những là một danh tướng tài ba mà còn là một nhà ngoại giao khôn khéo, một nhà chính trị có tài năng khiến vùng đất Gia Định trở thành giàu có.

Dám chặt đầu cha vợ của vua Minh Mạng là Huỳnh Công Lý để giữ công bằng cho dân khiến làm vua Minh Mạng đố kỵ, xem ông là cái gai chọc vào mắt mình nên chỉ cần có cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi, con nuôi của Lê Văn Duyệt  để có dịp hài tội công lao của ông bằng cách  san bằng mộ Lê Văn Duyệt mà còn có thêm tám chữ « Quyền yêm Lê Văn duyệt phục pháp xử » ở trên bia. Chỉ có ông khi gặp vua được miễn qùi bái  cho thấy vua Gia Long rất qúi trọng  như thế nào. Như vậy cũng biết được cái nhìn của vua Gia Long không sai về con người Lê Văn Duyệt mà Minh Mạng quên đi lại nghe lời dèm pha. Sau nầy  các vua  Thiêu Trị Tự Đức cho phép  đắp lại mồ của Lê Văn Duyệt  và sửa sang miếu thờ.

Chỉ có dưới thời vua Minh Mệnh thứ 17 (1836) nhà vua ban dụ nhằm hạn chế tối đa quyền hành của thái giám một cách rõ ràng. Theo dụ nầy, thái giám không được dự vào phẩm cấp quan chế, không được xem như quan lại. Tuy nhiên trong chức vụ thái giám, cũng có năm bực mà mỗi bực có một vai trò trách nhiệm khác nhau nhưng với chủ đích để sai khiến và phục vụ  vua trong nội cung. Thái giám là người gần gũi vua nhiều nhất  nên phải sắp xếp  ngày giờ, các công việc liên hệ giữa vua và các cung phi và phải ghi chép lại tên họ trong trường hợp bà cung phi  nào có con thì được xác nhận. Bởi vậy cung phi nào muốn  được vua yêu chuộng thì cần nhờ đến tài ăn nói của thái giám.  Ngoài ra, thái giám còn phải phục vụ các bà cung phi goá bụa  ở các lăng tẩm.

Để phân biệt với các quan, các thái giám mặc một chiếc áo dài bằng lụa xanh, ở trước ngực thì có một mảng dệt hoa và có mũ theo một kiểu riêng tư.  Họ có một cuộc sống cũng  đáng thương. Khi ốm đau, thì họ không có quyền  ở lại trong đại nội mà phải về ở Cung Giám Viện nằm ở phiá bắc hoàng thành. Nếu chữa không hết bệnh  thì nằm  ở  đây chờ chết chớ không được quay về đại nội. Lúc còn trẻ nếu là  giám sinh thì phải đến trình quan địa  phương  rồi sau đó được đưa về kinh đô vào bộ lễ để  được tấu thay và được sai khiến và trọng dụng ở nội đình. Còn được tuyển làm thái giám thì được hưởng nhiều quyền lợi vật chất nhất là cha mẹ được triều đình cấp dưỡng và khi có đại lễ thì được thưởng tiền bạc hay vải vóc. Lúc về già, không có con để nối dòng và thờ phụng lúc qua đời nên họ  phải cùng nhau đóng góp tiền để tu sửa chùa Từ Hiếu ở Huế vào năm 1893 và mượn nơi đó làm nơi  an nghỉ và tìm lại sự bình yên. Bởi vây dưới thời Pháp thuộc, người Pháp họ gọi chùa nầy là « chùa thái giám » vì  còn có rất nhiều lăng mộ của các thái giám dưới triều Nguyễn.

Version française

Contrairement aux gens ordinaires, les eunuques sont destinés à être au service du roi à l’époque féodale. Notre pays a trois grands eunuques avec lesquels peu de gens peuvent  se rivaliser car ils ont réussi à donner non seulement à notre peuple une page d’histoire glorieuse et  particulièrement resplendissante mais aussi une grande fierté. D’abord c’est le général eunuque célèbre Lý Thường Kiệt de la dynastie des Lý  ayant réussi à écraser l’armée des Song et pacifier le Champa. Puis un architecte talentueux  de nom Nguyễn An  a été capturé et exilé de force en Chine par le général Tchang Fou (Trương Phụ) au moment de l’annexion du Vietnam par les Ming. Il fut engagé ensuite comme eunuque et connu dès lors sous le nom chinois «Ruan An». Il  devint ainsi l’architecte concepteur en chef  dans le projet de construction de la Cité interdite de Pékin sous le règne du troisième empereur des Ming, Yong Le. Enfin le dernier est le général eunuque Lê Văn Duyệt qui  est l’un des mandarins méritants et brillants   de la dynastie  des Nguyễn dont le temple est connu par tout le monde à Saigon (ou Ho Chi Minh Ville) sous le nom « Lăng Ông ». Il avait le mérite de pacifier et développer la région de Cochinchine en tant que gouverneur de Gia Định (ancien nom donné à Saïgon ou Hồ Chí Minh d’aujourd’hui).

La coutume de choisir les eunuques  date de l’époque de la  dynastie des Lý mais leur fonction consiste à  servir uniquement le roi mais en aucun cas  elle n’a pas le droit d’interférer dans la politique et  n’a pas la capacité d’abuser du pouvoir comme en Chine avec l’eunuque Zhao Cao (Triệu Cao) de l’empereur Qin Shi Huang Di (Tần Thủy Hoàng) à la fin de la dynastie des Qin.  Si on est né sans avoir la possibilité de connaître clairement le sexe, on est appelé « giám sinh (ou état d’ambiguïté sexuelle) » en vietnamien ». Par contre si on pratique  l’auto-castration, on est appelé  «  giám lặt (état de se débarrasser de son sexe)   en vietnamien ». Une fois sélectionné et devenu la personne chargée de servir le roi dans la citadelle, on est appelé eunuque c’est-à-dire un subalterne  au service du roi dans le palais. Lý Thường Kiệt est le descendant de la cinquième génération de Ngô Quyền

D’après le livre intitulé « Les récits sur la vie des  eunuques dans l’histoire du Vietnam» de l’écrivain Pham Minh Thảo,  avant d’être enceinte, sa mère de nom Hàn Diệu Chi, avait l’occasion de rencontrer  un vieux maître  astrologue. Ce dernier lui prédit qu’elle  aura une bonne nouvelle. Elle aura un  beau garçon, un fils  devenu  très célèbre en apportant non seulement  la gloire à la famille Ngô, mais aussi  la radiance dans notre pays du Sud.  Mais il n’aura pas de rejeton pour assumer la descendance.

 Lý Thường Kiệt  commença sa carrière en tant que capitaine de cavalerie sous la dynastie des Lý. Malgré qu’il fût marié, il n’avait pas d’enfant. Il y avait une fois au moment de la chasse, il eut l’occasion de rencontrer le roi Lý Thái Tông. Celui-ci lui montra son affection. Pour être plus proche du roi, il fut obligé de s’auto-castrer. Quant à Nguyễn An, sa vie ressemble à celle d’un galérien durant sa jeunesse. Il fut capturé et renvoyé de force en Chine par le général chinois  Tchang Fou (Trương Phụ) pour devenir l’eunuque dans la cour des Ming après avoir annexé notre pays et mis en place la politique de traque de toutes les forces vives de notre nation. C’est pour cette raison qu’il devenait l’eunuque de l’empereur des Ming Chenzu (Chu Đệ), connu  sous le nom chinois Ruan An (A Lưu).   Il était un architecte talentueux hors norme car il avait le mérite de concevoir et  de superviser  non seulement  la construction de la cité interdite de Pékin dans trois ans avec dix mille  soldats à la place de cinq ans avec dix huit mille ouvriers dans la prévision du ministère public mais aussi  les travaux hydrauliques importants du Fleuve Jaune en Chine. Selon le chercheur Trần Ngọc Thêm, la Chine a tenté d’oublier  Ruan An dans la construction de la cité interdite

car ce dernier était un Vietnamien mais heureusement il y a l’article écrit  par l’historien chinois contemporain de nom Trương Tú Dân dans le journal n’hésitant pas à rapporter le rôle important de Ruan An dans la construction de la Cité interdite de Pékin. 

Enfin, il y a  le général eunuque Lê Văn Duyệt, appelé communément Tả Quân Duyệt. Une fois le jeune prince Nguyễn Ánh (ou l’empereur Gia Long plus tard) fut poursuivi par l’armée des Tây Sơn. Il fut obligé de trouver refuge dans le village de Long Hưng de la contrée Rạch Gầm dans la  province de Mỹ Tho (devenue aujourd’hui Tiền Giang) et son embarcation fut sauvée par le jeune Lê Văn Duyệt dans une nuit orageuse. Nguyễn Ánh aperçut que Lê Văn Duyệt  était un garçon au talent exceptionnel ayant eu le mérite de le sauver si bien qu’il n’hésita pas  à l’engager comme eunuque chargé de le protéger et sa famille alors que Lê Văn Duyệt n’avait que 17 ans. Selon l’écrivain Hoàng Lai Giang, Lê Văn Duyệt  est un exemple qui s’éclaire éternellement dans le Sud. Il n’est pas non seulement un général talentueux mais un diplomate habile, un homme politique  reconnu  dans sa capacité de transformer la région Gia  Định en une zone prospère et florissante. Ayant osé décapiter le père de la concubine du roi Minh Mạng (Huỳnh Công Lý) pour maintenir la justice au peuple, il provoque la jalousie du roi Minh Mạng. Celui-ci trouve qu’il est une épine qui s’introduit dans son œil.

C’est pourquoi il suffit d’avoir la révolte de son  fils adoptif  Lê Văn Khôi pour donner l’occasion au roi de remettre en cause son grand  mérite en rasant sa tombe et en y élevant de plus une stèle portant  les 8 lettres suivantes  « Quyền yêm Lê Văn duyệt phục pháp xử » ou le lieu où l’eunuque Lê Văn duyệt reçoit la condamnation ». Il n’y a que lui qui avait le droit d’être exempté  de s’agenouiller devant l’empereur Gia Long. Cela montre  à tel point  le respect que ce dernier avait entretenu envers lui. On connait ainsi le jugement juste  de l’empereur Gia Long à l’égard du personnage Lê Văn Duyệt.  Minh Mạng n’en tenait pas compte à cause des calomnies de son entourage. Plus tard, ses successeurs Thiệu Trị et Tự Đức ont ordonné la reconstruction de sa tombe et la réparation de son temple.

L’autel de Lê Văn Duyệt (Saïgon)

C’est sous le règne du roi  Minh Mạng en 1836 qu’il y avait un édit royal destiné à limiter au maximum le pouvoir de l’eunuque. Selon cet édit, les eunuques n’étaient  pas autorisés à participer au rang de mandarins et ils n’étaient pas considérés comme des mandarins. Cependant, dans la fonction d’eunuque, il y avait  aussi cinq grades, chacun ayant un rôle déterminé  et une responsabilité différente mais le but restait  de servir le roi dans le palais intérieur.

Étant la personne la plus proche du roi, l’eunuque devait donc organiser la date et l’heure des contacts  entre le roi et ses concubines et devait enregistrer leur nom au cas où une concubine  était enceinte  et  confirmer la naissance  de l’enfant. En conséquence, toute concubine voulant retenir l’attention du roi  devait compter sur l’éloquence de l’eunuque.

En outre, l’eunuque devait s’occuper des concubines veuves vivant dans les mausolées. Pour se distinguer des mandarins, les eunuques avaient l’habitude de porter une tunique en soie de couleur verte avec un morceau de tissu à motif floral sur leur poitrine et un chapeau fait de façon particulière. Ils avaient aussi une vie misérable.

Lorsqu’ils étaient malades, ils n’avaient pas le droit de rester dans le palais royal mais ils  devaient retourner au palais « Cung Giám Viện »  situé au nord de la citadelle impériale. Si l’eunuque ne pouvait pas être guéri,  il devait y rester  et attendait de mourir.  Il ne pouvait pas retourner au palais royal Quand il était jeune et dans un état d’ambiguïté sexuelle, il devait se rendre aux autorités locales. Puis il était renvoyé au ministère des rites dans la capitale et il était condamné  à travailler dans la cour intérieure, une fois son état reconnu. Au cas où il était choisi comme l’eunuque du roi, il  avait un grand nombre d’avantages matériels. Ses parents recevaient les subventions de la cour royale.

Au cas où une grande fête avait lieu, il recevait de l’argent ou des étoffes en récompense. Quand les eunuques devenaient vieux, ils n’avaient pas d’enfants pour maintenir la lignée et le culte au moment de leur mort.  Ils étaient obligés d’apporter conjointement leur contribution pour réparer la pagode Từ  Hiếu  à Hué en 1893 et ​​se servir de cet endroit comme lieu de repos et de paix. C’est pourquoi à l’époque coloniale, les Français appelaient ce lieu  sous le nom « pagode  des eunuques » car il y a encore aujourd’hui  de nombreuses tombes d’eunuques de la dynastie des  Nguyễn.

English version

Unlike ordinary people, eunuchs were destined to serve the king during the feudal era. Our country has three great eunuchs with whom few can compete because they succeeded not only in giving our people a page of glorious and particularly radiant history but also great pride. First is the famous eunuch general Lý Thường Kiệt of the Lý dynasty, who succeeded in crushing the Song army and pacifying Champa. Then a talented architect named Nguyễn An was captured and forcibly exiled to China by General Zhang Fu (Trương Phụ) at the time of Vietnam’s annexation by the Ming. He was then employed as a eunuch and became known by the Chinese name « Ruan An. » He thus became the chief architect and designer in the project to build the Forbidden City in Beijing under the reign of the third Ming emperor, Yong Le. Finally, the last is the eunuch general Lê Văn Duyệt, who is one of the meritorious and brilliant mandarins of the Nguyễn dynasty, whose temple is known by everyone in Saigon (or Ho Chi Minh City) as « Lăng Ông. » He had the merit of pacifying and developing the Cochinchina region as the governor of Gia Định (the former name given to Saigon or present-day Hồ Chí Minh City).

The custom of choosing eunuchs dates back to the Lý dynasty, but their role is solely to serve the king and under no circumstances do they have the right to interfere in politics or have the power to abuse authority, unlike in China with the eunuch Zhao Cao (Triệu Cao) of Emperor Qin Shi Huang Di (Tần Thủy Hoàng) at the end of the Qin dynasty. If one is born without a clear determination of sex, they are called « giám sinh (or state of sexual ambiguity) » in Vietnamese. On the other hand, if one practices self-castration, they are called « giám lặt (state of getting rid of one’s sex) » in Vietnamese. Once selected and appointed to serve the king in the citadel, one is called a eunuch, meaning a subordinate serving the king in the palace. Lý Thường Kiệt is a fifth-generation descendant of Ngô Quyền.

According to the book titled « Stories about the Lives of Eunuchs in the History of Vietnam » by writer Pham Minh Thảo, before becoming pregnant, his mother named Hàn Diệu Chi had the opportunity to meet an old master astrologer. The latter predicted that she would receive good news. She would have a handsome boy, a son who would become very famous, bringing not only glory to the Ngô family but also radiance to our southern country. However, he would have no offspring to carry on the lineage.

Lý Thường Kiệt began his career as a cavalry captain under the Lý dynasty. Although he was married, he had no children. Once, during a hunt, he had the opportunity to meet King Lý Thái Tông. The king showed him his affection. To be closer to the king, he was forced to castrate himself. As for Nguyễn An, his life resembled that of a galley slave during his youth. He was captured and forcibly sent back to China by the Chinese general Tchang Fou (Trương Phụ) to become a eunuch in the Ming court after they annexed our country and implemented a policy to hunt down all the vital forces of our nation. For this reason, he became the eunuch of the Ming emperor Chenzu (Chu Đệ), known by the Chinese name Ruan An (A Lưu). He was an extraordinarily talented architect because he had the merit of designing and supervising not only the construction of the Forbidden City in Beijing in three years with ten thousand soldiers instead of the planned five years with eighteen thousand workers according to the public ministry’s forecast but also important hydraulic works on the Yellow River in China. According to researcher Trần Ngọc Thêm, China tried to forget Ruan An in the construction of the Forbidden City because the latter was Vietnamese, but fortunately there is an article written by the contemporary Chinese historian named Trương Tú Dân in the newspaper, not hesitating to report the important role of Ruan An in the construction of the Forbidden City in Beijing.

Finally, there is the eunuch general Lê Văn Duyệt, commonly called Tả Quân Duyệt. Once, the young prince Nguyễn Ánh (or Emperor Gia Long later) was pursued by the Tây Sơn army. He was forced to take refuge in the village of Long Hưng in the Rạch Gầm area of Mỹ Tho province (now Tiền Giang), and his boat was saved by the young Lê Văn Duyệt on a stormy night. Nguyễn Ánh saw that Lê Văn Duyệt was an exceptionally talented boy who had the merit of saving him, so he did not hesitate to hire him as a eunuch responsible for protecting him and his family, even though Lê Văn Duyệt was only 17 years old. According to the writer Hoàng Lai Giang, Lê Văn Duyệt is an example that shines eternally in the South. He was not only a talented general but also a skillful diplomat, a politician recognized for his ability to transform the Gia Định region into a prosperous and flourishing area. Having dared to behead the father of King Minh Mạng’s concubine (Huỳnh Công Lý) to uphold justice for the people, he provoked the jealousy of King Minh Mạng. The king saw him as a thorn in his eye.

That is why it was enough to have the revolt of his adopted son Lê Văn Khôi to give the king the occasion to call into question his great merit by razing his tomb and erecting there a stele bearing the following 8 characters: « Quyền yêm Lê Văn duyệt phục pháp xử » or « the place where the eunuch Lê Văn Duyệt receives the sentence. » He was the only one who had the right to be exempted from kneeling before Emperor Gia Long. This shows the extent of the respect the latter had maintained towards him. Thus, we know the just judgment of Emperor Gia Long regarding the figure of Lê Văn Duyệt. Minh Mạng did not take this into account because of the slanders of his entourage. Later, his successors Thiệu Trị and Tự Đức ordered the reconstruction of his tomb and the repair of his temple.

It was under the reign of King Minh Mạng in 1836 that there was a royal edict aimed at limiting the power of the eunuch as much as possible. According to this edict, eunuchs were not allowed to participate in the ranks of mandarins and were not considered mandarins. However, within the eunuch function, there were also five ranks, each having a determined role and different responsibility, but the goal remained to serve the king in the inner palace.

Being the person closest to the king, the eunuch had to organize the date and time of contacts between the king and his concubines and had to record their names in case a concubine was pregnant and confirm the birth of the child. Consequently, any concubine wanting to capture the king’s attention had to rely on the eunuch’s eloquence. Furthermore, the eunuch had to take care of the widowed concubines living in the mausoleums. To distinguish themselves from mandarins, eunuchs used to wear a green silk tunic with a piece of floral-patterned fabric on their chest and a specially made hat. They also had a miserable life.

When they were sick, they were not allowed to stay in the royal palace but had to return to the « Cung Giám Viện » palace located north of the imperial citadel. If the eunuch could not be cured, he had to remain there and wait to die. He could not return to the royal palace. When he was young and in a state of sexual ambiguity, he had to report to the local authorities. Then he was sent back to the Ministry of Rites in the capital and was condemned to work in the inner court once his condition was recognized. In case he was chosen as the king’s eunuch, he had many material advantages. His parents received subsidies from the royal court.

In case a big celebration took place, he received money or fabrics as a reward. When eunuchs grew old, they had no children to maintain the lineage and the cult at the time of their death. They were obliged to jointly contribute to repair the Từ Hiếu pagoda in Hué in 1893 and use this place as a place of rest and peace. That is why during the colonial period, the French called this place the « pagoda of the eunuchs » because there are still many tombs of eunuchs from the Nguyễn dynasty there today.

[Return Huế]

 

 

La marche vers le Sud: la fin du Champa

La longue marche vers le sud: la fin du Champa.
Version vietnamienne

Version anglaise

Selon l’érudit Thái Văn Kiểm, la longue marche de notre peuple vers le sud est un fait historique évident que les véritables historiens étrangers doivent reconnaître et elle est également une source de grande fierté pour notre nation. Depuis plus de mille ans, le peuple vietnamien a traversé plus de cinq mille kilomètres, soit 1700 mètres par an ou 5 mètres par jour. Cette vitesse est même inférieure à celle d’un escargot. Cela prouve que notre peuple a rencontré de nombreux obstacles et qu’il a parfois dû s’arrêter et prendre du recul dans cette longue marche. Cette chanson populaire évoque en quelque sorte l’anxiété et la peur des Vietnamiens lors de ce voyage parsemé d’embûches:

Đến đây đất nước lạ lùng
Con chim kêu cũng sợ, con cá vẫy vùng cũng lo.
Cette terre leur paraît très étrange
Le gazouillis d’oiseaux leur fait aussi peur comme l’agitation du poisson les rend inquiets.

Malgré que notre population s’élève à peu près à un million d’habitants face à la Chine géante estimée à cette époque à plus de 56 millions de sujets, on est amené à découvrir le talent inouï de Ngô Quyền qui a réussi à libérer notre peuple de la domination chinoise pendant près de mille ans. Malheureusement il ne régna que 5 ans. Puis vint la période de troubles nationaux avec les douze seigneurs de la guerre. Heureusement, on vit surgir le héros Đinh Bộ Lĩnh issu de la province Ninh Bình. Celui-ci réussit à les éliminer, à unifier le pays sous sa bannière et à fonder une nouvelle dynastie, la dynastie des Đinh. Durant cette période, notre pays venait d’être un pays indépendant mais il était confiné seulement dans le delta du fleuve Rouge et dans les petites plaines situées tout le long de la côte centrale du nord Viet Nam (Thanh Hóa, Nghệ An).
Au Nord, il est difficile d’entamer l’expansion territoriale à cause de la présence de la Chine. Ce pays avait une population nombreuse et caressait toujours l’intention d’annexer notre pays au moment opportun quelle que soit la dynastie régnante. À l’Ouest, se trouve la chaîne de montagnes Trường Sơn accidentée difficile à franchir et à l’Est, il y a la Mer de l’Est que Nguyễn Trãi a eu l’occasion de mentionner dans la « Proclamation sur la pacification des Ngô (Bình Ngô Đại Cáo) » comme suit:

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Quelle cruauté! Le bambou de la montagne du Sud n’arrive pas enregistrer tous leurs crimes,
Quelle saleté! L’eau de la mer de l’Est ne réussit pas à éliminer leur odeur puante.

pour faire allusion à la cruauté des Ming (Chinois) que la Mer de l’Est n’a pas réussi à effacer durant les dix années de leur agression contre le Grand Yue (Đại Việt). C’est une pression que notre peuple devait toujours endurer durant le parcours de la formation de notre nation.C’est seulement au Sud que se trouve le seul moyen pour notre nation d’étendre ses frontières, d’éviter l’extermination et de maintenir l’indépendance nationale, d’autant plus que nos ancêtres restent la seule tribu des Bai Yue qui ne sont pas assimilés par les Chinois depuis l’époque de Qin Shi Huang Di (Tần Thủy Hoàng).
Cependant, en ce moment là, dans cette marche vers le sud notre peuple a deux avantages indéniables dont l’un est d’avoir un leader doté d’un esprit stratégique et talentueux pour contrer les envahisseurs chinois au nord et l’autre est de réussir à faire participer le mouvement populaire de masse à cette expédition pour des raisons légitimes. C’est dans le sud qu’il y a un royaume nommé Lin Yi (devenu plus tard Champa) ayant réussi à obtenir son indépendance auprès de la Chine à Nhật Nam en l’an 192 et ayant eu l’habitude de provoquer des troubles à la frontière de notre pays. Ce royaume occupe une position importante sur la route maritime trans-asiatique convoitée par les envieux (Manguin 1979: 269). La prise du Champa peut être considérée comme la belle réussite dans le contrôle de la mer de l’Est et les navires de passage (Manguin 1981 :259). Aujourd’hui, c’est toujours une question brûlante qui attire l’attention des puissances mondiales.

marche_sud

No Images found.

Le Grand Yue (Đai Việt) était un pays venant d’avoir son premier roi lorsqu’il était pris en tenaille entre la Chine et le Champa. Ces deux pays agissaient de concert dans un premier temps pour détruire notre pays. Considéré comme un roi guerrier et un visionnaire stratégique, le roi Lê Đại Hành (ou Lê Hoàn) avait ces deux avantages cités ci-dessus. Il réussit à vaincre l’armée des Song de Hầu Nhân Bảo en l’an 981 à Chi Lăng (Lạng Sơn) et à punir le Champa lors d’une expédition montée en un an pour chasser les Chams hors de la province d’Amaravati (Quảng Ngãi) après que leur roi maladroit Bề Mi Thuế avait emprisonné les messagers de Đại Việt, Từ Mục et Ngô Tử Canh envoyés au Champa pour tenter d’aplanir les désaccords. Il détruisit la capitale Indrapura (Quảng Nam) et le sanctuaire en l’an 982 et tua son roi Paramec Varavarman (Bề Mi Thuế).
Il remit ensuite à son subordonné Lưu Kế Tông le contrôle des opérations sur la capitale Indrapura et le nord de Linyi avant de retourner dans sa capitale. À travers cette procuration déguisée, on voit plus ou moins clairement les intentions de Lê Đại Hành de vouloir étendre le territoire mais il avait peur de recevoir peut-être la réprimande de la dynastie des Song à cette époque. C’est pour cela qu’il ne voulait pas les révéler.

Selon « Les Mémoires historiques du Grand Viet au complet (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)», Lưu Kế Tông se cacha au Champa. C’est pourquoi le roi Lê Đại Hành dut envoyer son fils adoptif dont le nom n’était pas précisé pour le capturer et le tuer en l’an 983. Mais dans l’histoire des Song, il est à noter que Lưu Kế Tông devint roi du Champa trois ans plus tard, de 986 à 989 et il envoya même un ambassadeur auprès de la dynastie des Song pour demander à cette dernière de le reconnaître en tant que souverain du Champa. Cela montre qu’il y a quelque chose qui n’est pas en concordance avec ce qui a été écrit dans notre histoire. On peut expliquer que Lưu Kế Tông fut chargé de remplir au début une mission que le roi Lê Đại Hành lui avait confiée. Comme Lưu Kế Tông réussit à avoir des appuis locaux assez solides, il tenta de se poser roi et renonça à honorer sa mission.

Mais grâce à la restauration de la force militaire du peuple Cham de plus en plus vive à Vijaya (Chà Bàn, Bịnh Định), le roi Harivarman II réussit à vaincre Lưu Kế Tông, reprendre ensuite toute la province d’Amaravati et il s’installa de nouveau dans la capitale Indrapura. Quant à Lưu Kế Tông, selon le chercheur français Georges Cœdès, il était décédé. On n’entend plus parler de lui dans l’histoire. Malgré l’intensification du pillage le long de la frontière nord, le Champa était désormais soumis constamment à une pression croissante de notre Annam. Selon « l’histoire du Vietnam » de l’érudit Trần Trọng Kim, la Chine a accordé toujours à notre roi le titre « Prince de la province Jiaozhi (Giao Chỉ quận vương)» car elle continuait à considérer notre pays, Jiaozhi (ou Giao Chỉ) comme une province chinoise à l’époque de sa domination. Ce n’est que sous le roi Lý Anh Tôn que notre roi a reçu officiellement le titre de roi d’Annam. Depuis lors, notre pays s’appelait Annam.

Sous la dynastie des Lý, en prenant prétexte que le Champa n’avait pas payé tribut depuis 16 ans au royaume d’Annam, le roi Lý Thái Tông fut contraint d’aller combattre le Champa en l’an 1044. Les Chams subirent beaucoup de pertes humaines. Le général cham Quách Gia Di décida de sabrer son roi Sạ Đẩu (Jaya Simhavarman II), le dernier roi de la dynastie Indrapura du Champa et coupa sa tête pour demander la capitulation. En 1069, en se basant sur la raison de ne pas honorer le paiement du tribut par le Champa durant 4 ans, le roi Lý Thánh Tông décida d’emmener personnellement 100 000 soldats pour combattre le Champa, réussit à capturer Chế Củ (ou Jaya Rudravarman III) au Cambodge où il chercha refuge à cette époque et le ramena à la capitale Thăng Long. Pour racheter sa liberté et retourner dans son pays, Chế Củ proposa en échange les trois provinces septentrionales du Champa équivalant à peu près à deux provinces de Quảng Binh et Quảng Tri (Georges Cœdès : 248). On peut dire qu’à partir de cette transaction, Đại Viêt commença à s’étendre à de nouvelles terres et incita les gens à y vivre sous le règne du roi Lý Nhân Tôn après la révolte de Lý Giác dans la région de Nghệ An. Sur les conseils de ce rebelle, le roi Chế Ma Na (Jaya Indravarman II) tenta de reprendre les trois provinces échangées mais il fut vaincu ensuite par le célèbre général Lý Thường Kiệt et il dut rétrocéder cette fois définitivement ces trois provinces reprises.

Selon l’érudit Henri Maspero, sous le règne de Lý Thần Tông, notre pays a été envahi par le roi guerrier Sûryavarman II de Chenla (Chân Lạp). Ce dernier avait l’habitude de trainer souvent Champa dans la guerre en l’incitant ou en le contraignant sans cesse contre notre pays dans les régions de Nghệ An et Thanh Hóa. Puis après, les deux pays étant devenus hostiles, il y avait donc une guerre durant près de cent ans. Cela allait les affaiblir face à un pays d’Annam devenu puissant au début du XIIIème siècle avec une nouvelle dynastie, la dynastie des Trần. C’est aussi l’époque où toute la région eurasienne était envahie par les Mongols. Mais c’est aussi l’époque où les deux pays voisins Annam et Champa avaient de bonnes relations et Champa retrouvait la paix et la stabilité dans le pays avec le roi Indravarman V (1265-1285).

C’est grâce à ce rapprochement que les Vietnamiens et les Chams, unis dans un même combat et agissant ensemble contre un ennemi commun, l’empire des Yuan de Kubilai Khan (Đế Chế nhà Nguyên của Hốt Tất Liệt), réussirent à accomplir ensemble des prouesses militaires portant une grande importance historique non seulement pour notre peuple mais aussi pour l’Asie du Sud -Est. Grâce à cette union, les deux peuples vainquirent ainsi l’empire mongol. Afin de renforcer la bonne entente qui n’existait pas jusqu’à présent, entre les deux peuples, le roi Trần Nhân Tông vint visiter le royaume de Champa durant neuf mois en tant que chef spirituel de la secte zen Đại Việt en 11 mai de l’année 1301.

Grâce à cette visite, il promit d’accorder la main de sa fille, la princesse Huyền Trân (Perle de Jais), au roi Chế Mân (Jaya Simhavarman III) alors que Huyền Trân n’avait que 14 ans et Chế Mân était assez âgé. Malgré sa soutane de moine, il était toujours le roi-père du royaume Đại Việt. Il avait donc toujours une vision à long terme pour le pays et s’était rendu compte que le royaume Đại Việt avait besoin d’un territoire comme une base arrière en cas de nécessité dans le sud lorsqu’il connut bien les intentions malveillantes des Nordistes et il réussit à gagner à deux reprises la guerre de résistance contre l’armée des Yuan (1285 et 1287-1288). Au contraire, pour quelle raison le héros du peuple Cham, Chế Mân (Jaya Simhavarman III), céda-t-il les deux districts Ô-Lý à cette époque pour devenir un traître à son peuple ? Champa est-il trop défavorisé et Đại Việt trop avantageux dans cette transaction, n’est ce pas?

C’était peut-être à cause de l’aridité de la zone cédée que Chế Mân éprouva qu’il lui était impossible de la contrôler car Quảng Trị était une zone de sol sablonneux et Thừa Thiên Huế entourée de collines était aussi une région dépourvue de plaine importante (Hồ Trung Tú:283). Il s’agit de légaliser d’ailleurs un territoire que Champa n’avait plus la capacité de gouverner depuis que Chế Củ (ou Jaya Rudravarman III) l’avait cédé en échange de sa libération il y a 236 ans. Le fait que la princesse Perle de Jais (Huyền Trân) épousa Chế Mân cinq ans plus tard (1306) avec la dot de deux mille mètres carrés des districts Ô et Lý (les provinces de Quảng Trị et Thừa Thiên Huế d’aujourd’hui) devrait être un calcul politique bien réfléchi dans le but de pérenniser la paix et porter le caractère stratégique pour les deux dynasties Đai Việt-Champa. Grâce à ce mariage, le territoire de Đai Việt s’était étendu jusqu’au nord de la rivière Thu Bồn et Champa pouvait conserver le territoire restant pour les générations futures.

Sous le regard des gens, la princesse Huyền Trân est une femme profondément admirée dans l’esprit de plusieurs générations de Vietnamiens et elle est évoquée à plusieurs reprises dans cette longue marche vers le sud à travers son histoire et son destin. Après un an de mariage, le roi Chế Mân mourut en l’an 1307. Seuls ce dernier et Trúc Lâm đại sĩ (le surnom donné au roi-père Trần Nhân Tông) réussirent à connaitre seulement la raison de ce choix mais ils étaient morts tous les deux à un an d’intervalle. Depuis lors, ce cadeau de mariage devint un sujet de discorde entre les deux pays et conduisit à des guerres continues dans lesquelles Đai Việt était toujours le pays ayant remporté de nombreuses victoires.

Grâce à la pression démographique et à la politique d’immigration sous la dynastie des Hồ, les territoires cédés par le Champa étaient devenus des régions indépendantes et autonomes grâce à l’organisation de village vietnamien (L’autorité du roi s’arrête devant les haies de bambous du village). Cela rendait plus ardue la tâche pour le Champa de récupérer plus tard ces territoires. Encore pour une fois, après le XIVème siècle, le Champa devint une puissance militaire de premier plan et engagea les batailles jusqu’à Thanh Hóa. C’était l’époque où on vit apparaître un personnage décrit dans l’histoire de la dynastie des Ming sous le nom de Ngo-ta-ngo-tcho mais dans l’histoire du peuple cham il fut connu sous le nom de Binasuor (ou Chế Bồng Nga). Ayant profité de l’affaiblissement de la dynastie des Trần et reçu en même temps le titre du roi du Champa par la dynastie des Ming en Chine, Chế Bồng Nga attaqua le Nord Vietnam 5 fois de suite durant la période de 1361 à 1390 mais il y a 4 fois il emmena directement ses troupes dans la capitale Thăng Long. En raison de la trahison d’un subordonné de Chế Bồng Nga, de nom Ba-lậu-kê, le général Trần Khắc Chân de la dynastie des Trần réussit à repérer la jonque transportant Chế Bồng Nga et demanda à ses soldats de tirer sur cette jonque. Chế Bồng Nga fut touché ainsi de plein fouet. Selon G. Maspero, la période de Chế Bồng Nga était à son apogée, mais selon G. Cœdès, cette phrase est complètement incorrecte, mais il faut comparer les victoires militaires de Chế Bồng Nga avec la lumière bleue au coucher du soleil. (Ngô Văn Doanh : 126 ou G. Cœdès : 405).

Un général cham de nom vietnamien La Khải que les Chams ont enregistré sous le nom de Jaya Simhavarman dans leur histoire, monta sur le trône après avoir éliminé les enfants de Chế Bồng Nga. La Khải décida d’abandonner tous les territoires chams situés au nord du col de Hải Vân (les provinces actuelles de Quảng Bình, Quảng Trị et Thừa Thiên Huế).
Pour éviter une nouvelle guerre avec le Đai Việt, il céda la province d’Indrapura de Champa en 1402 correspondant à la province actuelle de Quảng Nam où se trouvait le sanctuaire Mỹ Sơn, mais il la récupéra plus tard en l’an 1407 lorsque les Ming prenaient le prétexte d’éliminer la dynastie des Hồ pour l’usurpation du trône des Trần. Ces Ming annexèrent ainsi l’Annam, recherchèrent tous les hommes de talent et de vertu et les ramenèrent en Chine pour les employer. Parmi ceux-ci figurait le jeune Nguyễn An (Ruan An) devenu plus tard un eunuque architecte vietnamien chargé de construire la Cité interdite de Pékin selon la théorie du Yin et du Yang et les 5 éléments et Nguyễn Phi Khanh, le père de Nguyễn Trãi. Après les dix années de résistance contre l’armée des Ming, Lê Lợi monta sur le trône en l’an 1428 et fonda la dynastie des Lê postérieurs. Il rétablit des relations pacifiques avec les Ming et le Champa dont le roi était le fils de La Khải de nom Virabhadravarman et connu dans les chroniques vietnamiennes sous le nom Ba Dich Lai (Indravarman VI).
Selon George Cœdès, le Champa tomba rapidement à la fin de cette dynastie dans un état de récession politique avec jusqu’à cinq rois successifs en 30 ans en raison de guerres civiles pour le pouvoir. À cette époque, en Annam, il y avait un grand roi connu Lê Thánh Tôn connu pour les arts littéraires et martiaux dans l’histoire du Việt Nam. C’est lui qui demanda à l’historien Ngô Sĩ Liên de compiler toutes les informations relatant tous les évènements historiques dans une collection d’articles connue sous le nom «Đại Việt sử ký (Les Mémoires historiques du Grand Viet) ». Il ordonna à son subordonné de retracer la carte géographique de notre pays mais il envoya secrètement quelqu’un en même temps au Champa pour dessiner une carte du Champa avec tous les recoins stratégiques, ce qui permit à son armée de prendre la capitale Đồ Bàn (Vijaya) à Chà Bàn (Bình Định) en l’an 1471 et capturer le roi Trà Toàn (Maha Sajan) ramené à Đại Việt avec 30000 prisonniers.

La prise de la capitale Vijaya pouvait être comparée à la chute de Constantinople (1453) à la même époque par les Turcs (Népote 1993 :12). Après cela, l’empereur des Ming envoya un émissaire pour lui demander de rendre le territoire de Binh Định au Champa. Mais devant son refus catégorique, l’empereur des Ming dut renoncer à toute action car le prestige de notre pays était grand au vu des tributs payés par les pays voisins comme le Laos (Ai Lao) et les Mường de l’Ouest. Désormais le Champa s’était rétréci aux seuls territoires situés au sud du cap Varella (Đại Lãnh, Phú Yên) et ne suscitait plus des obstacles majeurs dans l’avancée vers le sud du peuple vietnamien. Quant aux Chams, ils ont été dispersés en de nombreux groupes et évacués par mer et par terre: un groupe a fui vers le Cambodge et a été hébergé par le roi cambodgien Jayajettha III (Ang Sur) à Oudong, Chrui Changvar et Prêk Pra près de la capitale Phnom Penh et dans la province de Kompong Cham, un autre groupe a été allé jusqu’à l’île de Hainan (Thurgood 1999:227) et Malacca et la population restante a dû se cacher dans la région de Panduranga appartenant encore à Champa ou a accepté de vivre sur place avec les Vietnamiens dans le territoire annexé.
Désormais, on y trouva des villages vietnamiens et chams établis côte à côte durant plusieurs centaines d’années. On ne sut pas non plus qui était vraiment assimilé lorsqu’il y avait le choc et l’échange culturel pacifique entre les deux grandes civilisations de l’humanité, l’Inde et la Chine. Combien de fois l’histoire de l’humanité a-t-elle démontré qu’une civilisation supérieure a un effet transformateur sur une civilisation inférieure? La Rome ancienne plus puissante, au moment de sa conquête, était soumise à l’influence de la civilisation grecque. De même, les Mongols ou les Mandchous, au moment de leur conquête en Chine étaient assimilés ensuite par cette dernière.

Notre royaume Đại Việt ne faisait pas exception non plus. Étant habitué à dénigrer et à mépriser les Chams (ou les Mans), notre Đại Việt pouvait-il avoir quelque chose dans cette conquête? Il recevait beaucoup de choses, notamment de nombreux éléments venant du Champa trouvés dans la musique royale comme le Chiêm Thành Âm (Résonances du Champa) ou le tambourin plaqué de riz bien cuit (trống cơm)(Thái Văn Kiểm 1964: 65) ou plus tard avec les « Danses du Sud (Airs des Méridionaux)» à travers les lamentations douloureuses sans fin du peuple cham telles que Hà Giang Nam (descente au sud de la rivière), Ai Giang Nam (lamentation du sud de la rivière), Nam Thương (Compassion du sud) etc… et dans l’art sculptural sous les deux dynasties des Lý et des Trần.
Il y a une époque où les Vietnamiens vivaient sous l’influence méridionale du Sud pour créer des artefacts tels que la tête d’un dragon de la dynastie Lý-Trần ressemblant à celle d’un dragon makara ou le canard siamois (vịt siêm) à l’oie Hamsa du Champa par exemple, le tout étant trouvé dans la citadelle impériale Thăng Long sur les toits de tuiles et les pignons des bâtiments jusqu’aux motifs décorés sur les bols (Hồ Trung Tú:264).
Quant aux Chams, ils n’étaient pas complètement assimilés tout de suite car ils abandonnaient justement leur langue pour parler la langue vietnamienne dans leur pays natal. Ils devaient avoir désormais un nom de famille comme les Vietnamiens sous le roi Minh Mạng. Les noms qu’ils avaient eu dans leur histoire étaient les noms de famille des rois ou ceux de la famille royale selon l’auteur Phú Trạm dans le journal Tia Sáng (2 octobre 2006). Ils utilisaient Ja (homme) ou Mu (femme) devant les noms comme les mots văn ou Thị chez les Vietnamiens. Lorsqu’ils devenaient âgés et occupaient un rôle important ou un rang dans la société, ils étaient appelés dès lors par cette fonction ou ce titre (Hồ Trung Tú: 57).
Ils créaient également pour eux-mêmes un ton accent qui n’existait pas auparavant en parlant la langue vietnamienne avec l’intonation d’un Cham autochtone. Ils parlaient, ils écoutaient, se corrigeaient, se comprenaient avec la communauté vietnamienne sur place pour produire un ton accent distinct qui ne ressemblait plus au ton original (l’intonation de Quảng Nam par exemple) lorsqu’ils avaient des contacts avec le peuple vietnamien auparavant (comme leur femme vietnamienne et leurs enfants) ou lorsqu’ils étaient des notables désignés dans les territoires appartenant au royaume Đai Việt. Ils ne perdaient pas forcément leurs racines immédiatement car ils conservaient encore les us et coutumes du peuple cham.
Plus précisément, dans des régions comme Đà Nẵng, Hội An, on continua à voir encore des gens portant encore des vêtements chams à la fin du XVIIIème siècle à travers les photos de Cristoforo Borri ou John Barrow. Les hommes portaient des kama ou des pantalons sans fond (le sarong) avec un turban assez large et les femmes des jupes longues à plusieurs plis multicolores ou au torse nu. (Hồ Trung Tú: 177).

Les Vietnamiens qui ont migré vers les zones où la population cham était dense, étaient obligés de s’y adapter et d’accepter la manière de parler la langue vietnamienne de la part des Chams, de Quảng Nam jusqu’à Phú Yên. Quant aux territoires où le nombre des Chams était faible et celui des migrants vietnamiens était élevé, l’intonation pratiquée dans ces territoires restait celle des migrants vietnamiens. Ceux-ci arrivaient à conserver entièrement leur intonation dans les territoires allant du col de Ngang jusqu’à Huế. Ils employaient fréquemment les dialectes de Nghệ An-Hà Tịnh (Hồ Trung Tú:154) ou Thanh Hóa plus tard avec le seigneur Nguyễn Hoàng.
Quant aux traits caractéristiques culturels du peuple cham, ils ont tous disparu depuis le 9ème mois de l’année du tigre, sous le règne de Minh Mạng (1828). C’était l’époque de l’édit royal destiné à interdire aux hommes du Sud de porter des kamas. Comme les Chams prétendaient ne pas savoir depuis quand et à quelle époque qu’ils avaient  un lien d’origine du Nord comme des centaines de milliers de familles vietnamiennes cohabitant sur ce territoire, ils ne se demandaient plus qui ils étaient exactement car au bout de quelques générations ils étaient devenus de « purs vietnamiens » et rejoignaient ainsi leur peuple dans la longue marche vers la pointe de Cà Mau. Depuis lors, on pouvait annoncer la fin du Champa.

[Return to CHAMPA]

Bibliographie

Thái Văn Kiểm: Việt Nam quang hoa Editeur Xuân Thu, USA
Georges Cœdès: Cổ sử các quốc gia Ấn Độ Hóa ở Viễn Đông. NXB Thế Giới năm 2011
Pierre-Yves Manguin: L’introduction de l’islam au Champa. Études chames II. BEFEO. Vol 66 pp 255-287. 1979
Pierre-Yves Manguin: Une relation ibérique du Champa en 1595. Études chames IV. BEFEO  vol 70 pp. 253-269
Ngô văn Doanh: Văn hóa cổ Chămpa. NXB Dân tộc 2002.
Hồ Trung Tú: Có 500 năm như thế. NXB Đà Nẵng 2017.
Agnès de Féo: Les Chams, l’islam et la revendication identitaire. EPHE IVème section.2004
Thái Văn Kiểm: Panorama de la musique classique vietnamienne. Des origines à nos jours.  BSEI, Nouvelle Série, Tome 39, N° 1, 1964.
Thurgood Graham: From Ancient Cham to modern dialects . Two thousand years of langage contact and change. University of Hawai Press, Honolulu. 1999
Trần Trọng Kim: Việtnam sử lược, Hànội, Imprimerie Vĩnh Thanh 1928.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Nhà xuất bản Thời Đại. Năm 2013.