Paysan (Nông dân)

paysan
English version

Version vietnamienne

Comme le Vietnam est un pays où le confucianisme influe considérablement sur la société, le paysan vietnamien est relayé toujours au second rang de l’échelle sociale par rapport à un lettré. Même dans la plupart des chansons populaires, on constate une préférence indéniable pour les lettrés. Le rêve d’avoir un mari lettré est toujours une obsession pour une jeune fille vietnamienne d’autrefois:

Chẳng tham ruộng cả ao liền
Tham vì cái bút cái ghiên anh đồ.

On n’a besoin ni des rizières immenses ni des mares entières
On aime seulement le pinceau et l’encre du lettré.

Pourtant, c’est grâce à son labeur et à sa sueur que le Vietnam devient actuellement le troisième exportateur du riz après les Etats-Unis et la Thaïlande. C’est aussi grâce à son sacrifice que le territoire du Vietnam s’agrandit de Lạng Sơn jusqu’à la pointe de Cà Mau.

C’est lui qui prit possession à partir du XVIème siècle, du territoire gorgé d’eau et de soleil qu’est notre Cochinchine lors de la longue marche vers le Sud. C’est encore lui qui devant une invasion doit courir prendre les armes pour défendre la patrie. C’est pourquoi on l’appelle souvent paysan soldat. C’est aussi lui qui s’est révolté le premier contre l’aristocratie et qui donne l’occasion aux frères Tây Sơn de conquérir le pouvoir en 1770 dans le centre du Vietnam. C’est aussi lui qui façonne le paysage des deux deltas, aucune parcelle cultivable ne restant inexploitée. On voit tous les jours dans les champs de ces deltas, des paysans et des paysannes penchées sous le chapeau conique, pieds et mains dans les glaises, continuant à arracher des plants de riz mis en pépinières ou à y les repiquer. Son existence est une lutte continuelle. Il aime davantage sa terre et sa précieuse céréale lui donne tant de soucis et d’ennuis. Il ne cesse pas de résister vaillamment aux intempéries de la nature: sécheresse, inondation, typhon etc.. Il a toujours pour hantise de dompter les eaux.

Travailler sur la terre, déjouer les calamités, prévenir les disettes. Cela suppose sa maîtrise parfaite en matière d’art hydraulique: construction des digues, creusement des canaux, colmatage des brèches, élévation des remparts etc.  C’est l’eau qui pétrit son épaisse identité. Il devient plus patient, plus têtu, plus laborieux et plus méthodique. Pour lui, le travail est une vertu suprême, une valeur en soi. Au Nord, le paysan est plus pauvre. Il s’habille de façon plus austère et se comporte avec plus de retenue. Même sur son visage, les pommettes sont plus saillantes, les traits sont plus marqués. Au Sud, le paysan est plus ouvert, moins réservé, plus roublard, plus frimeur et plus extraverti. Malgré cette différence, il y a un point commun entre le paysan du Nord et celui du Sud: le réalisme.

Le terre à terre l’emporte sur la sentimentalité. Son observation aigue de la réalité donne naissance à un humour souvent féroce envers d’autres classes, en particulier les bonzes, les sorciers, les charlatans, les aristocrates etc. Cet humour, on le trouve à travers les  » Ca Dao » (ou les poèmes populaires).

Thẩy địa, thầy bói, thầy đồng,
Nghe ba thầy ấy thì lông không còn.

Le géomancien, le voyant, le devin
En les écoutant, tu seras complètement dévalisé.

C’est aussi dans les chansons populaires qu’on trouve sa joie de vivre, sa simplicité, sa droiture, son économie. C’est dans ces damiers aquatiques et remplis de boue, jardinés avec minutie et économie que se révèle l’enracinement pluriséculaire du paysan lié à son labeur, ce qui fait de lui un combattant diligent et opiniâtre.

Pour le paysan vietnamien, son domaine, son terroir sont symbolisés par ce constant brassage de la terre (đất) et de l’eau (nước). C’est encore par ces mots đất nước qu’il désigne sa patrie.

Son attachement à cette terre est si profond qu’on peut dire en une seule phrase:

Son destin est celui du Viet Nam.

Galerie des photos

Version vietnamienne

Người nông dân

Vietnam là một quốc gia mà Khổng giáo có ảnh hưởng rất sâu đậm trong xã hội. Vì vậy người nông dân thường được đứng  hàng thứ hai  trong bậc thang xã hội so với sĩ phu. Bởi vậy trong các ca dao thường thấy sĩ phu được ưu đãi hiển nhiên. Bởi vậy thưở xưa chuyện mơ ước có một người chồng học thức là nổi ám ảnh đối với  nguời phụ nữ thời đó nên có câu ca dao như sau:

Chẳng tham ruộng cả ao liền
Tham vì cái bút cái nghiên anh đồ.

Tuy nhiên nhờ sự khó nhọc và mồ hôi của các người nông dân mà Vietnam trở thành quốc gia thứ ba xuất khẩu lúa gạo sau Mỹ Quốc và Thái Lan. Cũng nhờ sự hy sinh của họ mà đất nước Vietnam được mở rộng từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau. Chính nhờ họ mà mà mới chiếm hữu được từ thế kỷ 16 Nam bộ, nơi có nhiều sông nước và nắng nóng  trong cuộc Nam tiến đầy gian khổ.  Chính cũng nhờ họ bảo vệ non sông mỗi lần khi có sự xâm lăng của ngoại bang. Bởi vậy thường gọi họ là những người lính nông dân.  Cũng chính họ là những người phẫn uất đầu tiên chống lại các tầng lớp qúi tộc và tạo ra cho nhà Tây Sơn có cơ hội để cướp quyền lực vào năm 1770 ở miền trung Vietnam. Chính cũng họ là những người uốn nắng cảnh vật của hai vùng đồng bằng Vietnam. Không có vùng đất nào mà không được khai thác.  Mỗi ngày trên các cánh đồng của các đồng bằng nầy, cũng thấy lúc nào các nông dân nghiêng mình với chiếc nón lá, tay chân lắm bùn, đang trồng cấy lúa. Đời sống của họ là một cuộc đấu tranh liên tục. Họ yêu thương mảnh đất nầy. Hạt ngũ cốc qúi báu họ gieo đã bao lần mang lại cho họ biết bao nhiêu sự phiền muộn. Họ không ngần ngại hiên ngang chống lại thời tiết khắc nghiệt của thiên nhiên: hạn hán, lũ lụt, mưa bảo vân vân.

Lúc nào cũng có ở nơi họ nổi ám ảnh chinh phục được nước lũ. Sinh sống lam lũ với đất, chống lại các thiên tai, phòng bị các nạn đói kém, đó là  những chuyện họ cần biết nhất là họ cần thông thạo về ngành nghệ thuật thủy lực: xây dựng đê, đào kênh, đấp các nơi bị sạt lở đất, nâng lên thành lũy v.v… Chính nước tạo cho họ một bản sắc dày đặc. Họ trở nên kiên nhẫn, bướng bỉnh, siêng năng và tĩ mĩ hơn. Đối với họ, làm ruộng là một đức tính tối cao, một giá trị vốn có ở nơi họ. Ở miền bắc, người nông dân rất nghèo. Ăn mặc cũng có vẽ khắc khổ và cư xử có phần khiêm tốn hơn. Ngay ở trên khuôn mặt, thường thấy gò má nhô ra cùng các nét  đặc trưng có phần rõ rệt. Ở miền nam, người nông dân rất cởi mở, ít có dè dặt, ranh mãnh, khoác lác và dễ cảm xúc. Mặc dầu có sự khác biệt, họ cùng có một điểm chung đó là chủ nghĩa hiện thực.

Chính những khắc nghiệt trong cuộc sống hằng ngày chiếm phần ưu thế  hơn  tình cảm mà họ có. Sự quan sát sâu sắc của họ về hiện thực khiến nảy sinh sự hóm hỉnh không ít đối với các tầng lớp khác nhất là với các tu sĩ, pháp sư, lang băm, qúi tộc v.v… mà được nhận thấy  như trong câu ca dao nầy:

Thầy địa, thầy bói, thầy đồng
Nghe ba thầy đó thì long không còn

Chính qua các câu ca dao mộc mạc nầy mới thấy ở nơi họ có một niềm vui trong cuộc sống đơn giản cùng tính cương trực và tiết kiệm. Chính ở những các vùng đầm lầy ngập nước và bùn nầy mà được họ vun trồng một các tĩ mĩ và tiết kiệm mới thấy được từ bao nhiêu thế kỷ sự ăn sâu cội rễ của người nông dân với công việc khó nhọc khiến biến anh trở thành từ đó một người chiến binh siêng năng và kiên trì. Đối với người nông dân, đất đai sở hữu họ có thường được biểu trưng sự pha trộn liên tục đất và nước. Có thể vì thế họ thường gọi “Đất Nước” để ám chỉ xứ sở của họ. Sự gắn bó sâu sắc của họ với Đất Nước khiến chúng ta có thể khẳng định bằng một câu nói thôi:

 Định mệnh của họ là định mệnh của Việt Nam.

 

 

 

Histoire du Vietnam (Lịch Sử)

 

Vietnamese version

English version

Le mot Vietnam ne fut connu qu’au XIXème lorsque l’empereur Gia Long décida de rebaptiser le pays Nam Việt. Marco Polo l’a évoqué dans son récit de voyage intitulé Le livre des merveilles sous le nom Caugigui (Giao Chỉ Quán). Son histoire peut se résumer en quelques mots: combats pour l’indépendance, la conquête de nouvelles terres et l’unification du pays.

Les Vietnamiens apparurent pour la première fois à l’âge du Bronze (civilisation Ðồng Sơn). Au Xème siècle, ils réussirent à se libérer du joug des Han et ils commencèrent à entamer dès lors le mouvement Nam Tiến avec Lê Hoàn en tentant de progresser vers le Sud à partir du delta du Fleuve Rouge, le berceau de la nation vietnamienne. Celle- ci  poussa sans relâche de nouvelles cellules dans chaque parcelle de terre propice à son mode de culture. Elle s’appuya sur une multitude de petits foyers politiquement indépendants constitués par des soldats paysans et renforcés quelquefois par les troupes du pouvoir central, se comporta comme un gigantesque madrépore formant peu à peu son atoll, finissant par encercler et à assimiler le nouveau territoire  et agrandissant ainsi le Vietnam. Cela constitue un avantage indéniable pour une politique d’expansion mais cela suppose qu’il y ait  une autorité centrale toujours forte. Le sage Confucius avait déjà parlé de ces Vietnamiens dans son livre des Rites (ou Kinh Lễ). Grâce aux facultés préhensiles de leur gros orteil bien détaché de leurs autres doigts, ces Vietnamiens pouvaient traverser les rizières et escalader les montagnes sans jamais se lasser.

L’histoire du Vietnam ce n’est pas celle de dynasties ou de grands mouvements d’idées. Mais c’est l’histoire d’un peuple de paysans obstinés qui, de la frontière de Chine jusqu’à à la pointe de Cà-Mau, peine durement dans ses rizières et impose sa marque au paysage.

Au moindre relâchement de cette autorité, le pays s’émiette facilement. C’est l’une des raisons principales qui explique que l’histoire du Vietnam est une suite de troubles et de guerres éternelles. Le Vietnam  a l’avantage d’avoir une triple structure nationale cohérente: l’état bureaucratique construit sur le modèle confucéen autour de la fonction impériale, détentrice du mandat céleste, la famille et le village, conservatoires d’une civilisation paysanne vécue par chacun des Vietnamiens comme un attachement total aux forces du sol et aux ancêtres. Cette politique de grignotage de vers à soie a permis la lente absorption de l’espace occupé par les autres peuples indochinois khmer et Cham. Les vestiges de ces derniers trouvés actuellement dans le centre du Vietnam (Phan Thiết, Ðà-Nẳng etc.. ) et dans le delta du Mékong témoignent bien de cette conquête.  

L’attachement à l’indépendance a été maintes fois prouvé dans le passé et dans la guerre du Vietnam. Il lui faut de longs siècles de combats, de guerres, de douleurs et de secousses avant d’acquérir enfin aujourd’hui la taille d’un petit dragon en Asie. On trouve dans l’histoire du Vietnam  la grandeur d’un peuple vivant avec sa  dignité et trouvant sa noblesse dans sa pauvreté et ses souffrances. On y trouve deux mille ans de lutte constante contre l’eau et la nature, ce qui traduit non seulement un attachement profond à cette terre mais aussi un accord intime et profond de ces paysans avec cette nature. Paul Mus n’a pas hésité de le souligner dans son ouvrage intitulé « Vietnam, sociologie d’une guerre, Paris, le Seuil 1952« . Cet accord s’est révélé si intime que, partout où ces circonstances se sont réalisées aucun peuple n’a réussi à résister  à la poussée des Vietnamiens, pas plus qu’aucune force étrangère n’est ensuite venue à bout de leur accrochage sur le terrain.

Malgré l’occupation pendant un millénaire par les Chinois, les Vietnamiens, imprégnés de leur culture, ont conservé leur langue bien qu’elle soit  transcrite en chinois et romanisée plus tard après l’arrivée du jésuite Alexandre de Rhodes. Si les Vietnamiens n’ont refusé aucun apport de l’étranger, c’est qu’ils ont réussi à le « vietnamiser », à garder tout ce qui est cher à tout peuple du monde, les traditions. Ce sont celles qui sont transmises de génération en génération par des hommes frêles, les pieds enfouis dans la boue des rizières.

 

Comment ne pas s’attacher à ce Vietnam, ce pays perdu où le sacrifice n’est pas un vain mot. Ce sacrifice, on l’a trouvé maintes fois dans les annales de l’histoire du Vietnam. Mieux vaut être un fantôme au Sud que devenir un prince du Nord avait déclaré le général Trần Bình Trọng avant d’être exécuté par les Mongols en 1257. La vie est un jeu de hasard. La chance est contre nous. Mieux vaut mourir maintenant pour ce pays et laisser l’exemple du sacrifice, avait dit le leader nationaliste Nguyễn Thái Học avant d’être guillotiné le 17 juin 1930 à Yên Bái.

Comment effacer dans la mémoire collective le visage innocent du jeune empereur captif Hàm Nghi, exilé à 18 ans en Algérie, les larmes aux yeux?. Comment oublier la mort tragique de l’empereur exilé Duy Tân (un accident d’avion à OuBangui-Chari en Afrique) dont le retour annoncé aurait pu changer probablement en 1945 les événements regrettables de l’histoire du Vietnam durant les dernières décennies?

Comment ne pas regretter cette terre natale qui n’est pas pourtant tendre? C’est l’impression donnée par l’écrivain Huỳnh Quang Nhường dans son best-seller Mon pays perdu (The land I lost) édité par Castor Poche Flammarion.

 Un pays que j’aime arrive-t-il à exister encore au fil de son histoire?

                    –Citadelle en colimaçon et son mythe (Cổ Loa thành và huyền thoại)
                    –Arbalète magique (Huyền thoại Trọng Thủy et Mỵ Châu)

 

 

Royaume de Văn Lang (Nước Văn Lang)

English version
Version française
Galerie des photos

Văn Lang thực sự  chỉ lại thời kỳ  huyền thoại của mười tám vị vua Hùng hay Lạc Vương (2879-257 TCN) hay 2622 năm. Đây là một truyền thuyết nhắc đến sử thi của các vua Hùng. Vương quốc này nằm ở lưu vực sông Dương Tử và được đặt dưới quyền cai trị của một vị vua Hùng. Người này được chọn vì lòng dũng cảm và công đức. Ngài chia vương quốc của mình thành các quận và ủy thác cai trị  cùng những người anh em của mình thường  được gọi là « Lạc Hầu » (hầu tước). Các con trai của ngài được phong làm Quan lang, các con gái thì  được gọi là Mỵ nương. Dân chúng thì  được  gọi là « Lạc Việt« . Họ có  thói xăm  mình. Tập tục “man rợ” này, thường được nhắc đến trong các biên niên sử của Trung Hoa. Nếu chúng ta dựa vào các văn bản của Việt Nam thì nhằm bảo vệ người tránh  được sự tấn công của các giao long.  Đây là lý  do người Hoa thường gọi họ là Qủi.

Khố và búi tóc là trang phục thông thường của dân tộc này thêm đó còn có các đồ trang trí bằng đồng. Người Lạc Việt hay nhuộm  răng đen, nhai trầu và giã gạo bằng tay. Người dân thường  trồng lúa trên những cánh đồng ngập nước. Họ sống ở vùng đồng bằng và ven biển trong khi ở vùng núi Việt Bắc ngày nay và ở một phần lãnh thổ tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc ngày nay thì là nơi sinh sống của người Tây Âu, tổ tiên của người Tày, Nùng và Choang. Các dân tộc hiện đang sống rải rác ở Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc. Vào thời điểm đó, người dân Việt sống bằng nghề đánh cá và canh tác. Họ đã biết dùng vỏ cây để may quần áo, nấu rượu cần, biết làm nương rẫy, ăn cơm tẻ hay cơm nếp, ở nhà sàn để tránh thú dữ vân vân…

Từ những tập tục này, mới có nhiều truyện cổ tích dân gian như chuyện bánh chưng bánh dày, sự tích trầu cau”, chuyện “Sơn Tinh  Thủy Tinh ” vân vân… Cũng có một phần hiện thực trong lịch sử của vương quốc này. Thành Cổ Loa nằm ở huyện Đông Anh cách Hà Nội 16 cây số  về phía Tây Bắc, các nha chương  thuộc về văn hoá Phùng Nguyên được tìm thấy ở  các làng Xóm Rền và Phùng Nguyền  và  các đền thờ  các vị vua Hùng là bằng chứng hiển nhiên trong con mắt của các nhà sử học.

Version française 

Văn Lang désigne en fait l’époque semi légendaire de dix huit rois Hùng ou Lạc Vương (2879-257 avant J.C.) soit 2622 ans. C’est une légende relatant l’épopée des rois Hùng. Ce royaume était situé dans le bassin du fleuve Yang tsé (Sông Dương Tử) et était placé sous l’autorité d’un roi Hùng. Celui-ci était élu pour son courage et ses mérites. Il partageait son royaume en districts confiés à ses frères connus sous le nom « Lạc hầu » (marquis). Ses enfants mâles avaient le titre de Quan lang et ses filles celui de Mỵ nương. Son peuple était connu sous le nom « Lạc Việt« . Ses hommes avaient coutume de se tatouer le corps. Cette pratique « barbare », révélée souvent dans les annales chinoises, était si l’on croit les textes vietnamiens, destinée à protéger les hommes des attaques des dragons d’eau (con thuồng luồng)(ou giao long). C’est peut-être pour cette  raison que les Chinois les désignaient souvent sous le nom Qủi (démons). 

Pagne et chignon constituaient le costume habituel de ce peuple auquel étaient ajoutées des parures en bronze. Les Lạc Việt se laquaient les dents en noir, chiquaient du bétel et pilaient du riz à la main. Agriculteurs, ils pratiquaient la culture du riz en champs inondé. Ils vivaient dans les plaines et les régions littorales tandis que dans les régions montagneuses du Việt Bắc actuel et sur une partie du territoire de la province chinoise actuelle de Kouang Si vivaient les Tây Âu, les ancêtres des groupes ethniques Tây, Nùng et Choang disséminés actuellement dans le Nord Vietnam et en Chine du Sud.

A cette époque, le peuple vietnamien vivait de la pêche et de la culture. Il savait déjà utiliser les écorces des arbres pour confectionner les vêtements, faire de l’alcool de riz , pratiquer la culture sur brûlis, s’alimenter du riz ordinaire ou du riz gluant, se loger sur pilotis pour éviter les animaux sauvages etc… De ces mœurs, sont nés bien des contes populaires vietnamiens (l’histoire du gâteau de riz gluant, celle du « Bétel et de la Noix d’Arec« , celle du « Génie des Monts et celui des Mers » etc..).

Il y a une part de réalité dans l’histoire de ce royaume. Les ruines de la citadelle Cổ Loa (Citadelle en colimaçon) située dans le district de Ðông Anh à 16 km au nord-ouest de Hanoï, les lames de jade (nha chương) datant de la culture de  Phùng Nguyên dans les villages Xóm Rền et Phùng Nguyên et le temple de ces rois Hùng témoignent de vestiges indiscutables au regard des historiens.

 

Galerie des photos(Temple des rois Hùng)

HUNG_VUONG

[Return CIVILISATION]

Tambour de bronze (Part 1,VF)

 

vanhoa_dongson

Version vietnamienne

Version anglaise

Première partie

Jusqu’à aujourd’hui, les tambours de bronze continuent à semer la discorde entre les communautés scientifiques vietnamiennes et chinoises. Pour les Vietnamiens, les tambours de bronze sont l’invention prodigieuse et géniale des métallurgistes paysans à l’époque des rois Hùng, pères fondateurs du royaume Văn Lang. C’est dans le delta du fleuve Rouge que l’archéologue français Louis Pajot exhuma à Ðồng Sơn (province de Thanh Hoá) en 1924 plusieurs de ces tambours parmi d’autres objets remarquables (statuettes, dagues de parade, des haches, des parures etc.) témoignant ainsi d’une métallurgie du bronze très sophistiquée et d’une culture datant de 600 ans au moins avant J.C. Les Vietnamiens retrouvent non seulement dans cette culture réexhumée (ou Dongsonien) leur origine mais aussi la fierté de renouer avec le fil de leur histoire. Pour le chercheur français Jacques Népote, ces tambours deviennent la référence nationale du peuple vietnamien. Pour les Chinois, les tambours de bronze furent inventés par les Pu/Liao (Bộc Việt), une minorité ethnique Yue de Yunnan (Vân Nam). Il est évident que la paternité de cette invention leur revient dans le but de montrer la réussite du processus de mixage et d’échange culturel parmi les groupes ethniques de la Chine et de donner à cette dernière la possibilité de créer et faire rayonner la culture multi-ethnique fascinante de la nation chinoise.

Malgré cette pomme de discorde, les Vietnamiens et les Chinois sont unanimes à reconnaître que l’aire où sont inventés les premiers tambours de bronze, embrasse seulement la Chine méridionale et le nord du Vietnam actuel bien qu’un grand nombre de tambours de bronze soient découverts incessamment dans une large zone géographique incluant la Thaïlande, le Cambodge, le Laos, la Birmanie, l’Indonésie jusqu’aux îles de la Sonde orientale. En dépit de leur dispersion et leur répartition sur un très vaste territoire, on relève des parentés culturelles fondamentales entre des populations à première vue très différentes, protohistoriques pour les unes et quasi contemporaines pour les autres. D’abord dans la province chinoise de Yunnan où le fleuve Rouge prend sa source, le tambour de bronze fut attesté depuis le VIème siècle avant notre ère et continua à être employé jusqu’au 1er siècle juste avant l’annexion du royaume de Dian (Điền Quốc) par les Han (ou Chinois). Les coffres de bronze destinés à contenir la monnaie locale (ou cauris), découverts à Shizhaishan (Jinning)  et portant sur leur partie supérieure une foule de personnages ou d’animaux dans des scènes de sacrifices témoignent évidemment des parentés indiscutables entre le royaume de Dian et le Dongsonien.

Puis chez les populations des Hauts Plateaux (les Joraï, les Bahnar ou les Hodrung) au Vietnam, on trouve à une date récente le culte du tambour. Conservé dans la maison commune bâtie sur pilotis, le tambour est décroché seulement pour convier les hommes au sacrifice du buffle et aux cérémonies funèbres. L’éminent anthropologue français Yves Goudineau a décrit et rapporté la cérémonie sacrificielle lors de ses observations multiples chez les Kantou de la chaîne annamitique Trường Sơn, une cérémonie comprenant les tambours de bronze (ou les Lakham) censés d’assurer la circularité et la progression des rondes nécessaires pour une refondation cosmogonique.

Ces instruments sacrés sont perçus par les villageois kantou comme le legs d’une transcendance. La présence de ces tambours est visible aussi chez les Karen de Birmanie. Enfin plus loin du Vietnam, dans l’île d’Alor (Sonde orientale), on se sert du tambour comme emblème de pouvoir et de rang, de monnaie, de cadeau de mariage etc…. C’est ici que le tambour est connu sous le nom de « mokko« . Son rôle est proche de celui des tambours de bronze de Ðồng Sơn. Son prototype reste la fameuse « Lune de Pedjeng (Bali) dont le décor géométrique est proche de la tradition dongsonienne. Celle-ci est gigantesque et elle est près de 2 mètres de hauteur.

Plus de 65 citadelles réparties dans les territoires des Bai Yue ont répondu favorablement à l’appel du soulèvement des héroïnes vietnamiennes Trưng Trắc et Trưng Nhị. C’est peut-être pour cela que sous la domination chinoise, les Yue (dont faisaient partie les proto-Vietnamiens ou les Giao Chi) avaient caché et enfoui dans la terre tous les tambours de bronze sous peine d’être confisqués et détruits à la méthode radicale de Ma Yuan. Cela pourrait expliquer la cause de l’enterrement et de la localisation d’un grand nombre des tambours de bronze dans le territoire des Bai Yue (Bách Việt) (Kouang Si (Quãng Tây), Kouang Tong (Quãng Đông), Hunan (Hồ Nam), Yunnan (Vân Nam), Nord Vietnam (Bắc Bộ Việtnam) lors de la conquête des Qin et des Han. La parution de l’édit de l’impératrice Kao (Lữ Hậu) en 179 avant J.C. stipulant qu’il était interdit de livrer aux Yue des instruments aratoires  n’est pas étrangère  à la réticence des Yue face à l’assimilation forcée des Chinois.

Lire la suite

Culture de Đồng Sơn (Tambour de bronze)

vanhoa_dongson

Version vietnamienne
English version
Galerie des photos

Au début du XXème, les archéologues de l’Ecole française d’Extrême-Orient (Louis Pajot, Olov Jansen)  découvrirent un grand nombre d’objets de l’âge du Bronze dans la vallée du Mã, notamment dans le village de Ðồng Sơn.

Parmi ces découvertes figurent des instruments de musique, en particulier des tambours. Ceux-ci sont ornés de motifs figuratifs représentant des animaux stylisés et des scènes de la vie quotidienne. Mais le plus remarquable de ces tambours reste celui de Ngọc Lũ. Celui-ci est un cylindre de 63 cm de haut et de 79 cm de diamètre. Il fut acheté  par EFEO  lors de l’exposition et la vente aux enchères en 1902 à Hanoi pour le prix de 550 piastres à cette époque. On peut dire qu’il est le plus beau tambour trouvé à ce jour en Asie. On trouve sur sa face supérieure des motifs mélangés avec des sujets variés à vocation rituelle: troupeaux de cerfs, oiseaux aquatiques, maisons sur pilotis etc. L’archéologue autrichien Heine-Geldern est  le premier à proposer à cette culture  le nom du site Đồng Sơn. Depuis lors, cette culture est  connue sous le nom de « culture de Ðồng Sơn ou Dongsonien ».   Selon les chercheurs Louis Bezacier et Nguyễn Phúc Long, l’art de Đồng Sơn  représente seulement la phase finale d’une longue évolution de la métallurgie du bronze  des époques Gò Bông (Phùng Nguyên tardif) , Đồng Dậu et Gò Mun et correspond à la période où il atteint la perfection et acquiert un prestige et un rayonnement en Asie du Sud Est et dans le Pacifique.

Selon le chercheur Hà Văn Tấn, la culture de Đồng Sơn prend sa source  parmi les cultures proto-dongsoniennes découvertes qui lui permettent d’avoir progressivement des créations remarquables.  L’art de Đồng Sơn  est apparu sur la base de l’industrie néolithique car on y trouve au début les premiers objets en bronze à côté des instruments en pierre taillée et des poteries ayant  un caractère  encore néolithique. Rechercher les origines du Dongsonien au nord ou à l’ouest du Vietnam comme l’avaient fait plusieurs chercheurs, c’est émettre une hypothèse sans fondement scientifique. Le Dongsonien  est en contact aussi avec l’art des Royaumes Combattants (les dagues du style Houai du royaume Wu-Yue).  Les bronzes anciens trouvés au Vietnam sont totalement différents de ceux des dynasties Shang et Chu en Chine tant dans la création des formes pleines de charme que dans la décoration et dans l’alliage.  On peut dire sans hésitation qu’il s’agit d’une production purement locale très peu influencée par les bronzes chinois.

Grâce aux découvertes des instruments aratoires  (socs de charrue) en bronze trouvés à Vạn Thắng et Sơn Tây signalées par les chercheurs vietnamiens dans leur ouvrage intitulé « Les premiers vestiges de l’Âge de bronze  au Vietnam p 110-113, Hanoï 1963)(1),  les Proto-Vietnamiens savaient déjà labourer leur rizière avec la charrue. Cela rend caduque l’ancienne thèse des Chinois selon lesquelles les Proto-Vietnamiens ne connaissaient pas la charrue avant la conquête des Han. Ils devaient apprendre auprès des gouverneurs  Si Kouang (Tích Quan) et Ren Yan (Nhâm Diên)  la  culture du riz et manière de vivre et de s’habiller (Livre des Han postérieurs). L’une des caractéristiques du bronze dongsonien réside dans le mélange subtil des éléments cuivre, étain et plomb en fonction du type d’outil fabriqué (hache de guerre, gâchette d’arbalète, pointe de lance, soc de charrue, houe, poignard etc…). Selon le chercheur vietnamien Nguyễn Phúc Long, les anciens tambours de bronze trouvés au Nord Vietnam ont une teneur de plomb beaucoup plus élevée que ceux de la Chine archaïque  dans l’ordre de 27,8%  pour les premiers contre 0,55% pour les seconds.

La beauté et l’adresse ne sont pas absentes non plus dans la décoration des objets divers trouvés  avec les créatures  vivant dans les rizières ( crapaud, pélican, tortue, buffle  etc …). Depuis quelque temps, malgré la proximité d’un pays multi -culturel comme la Chine, on est unanime à accorder la singularité  à cette culture  millénaire issue des paysans riziculteurs, les pieds enfouis dans la boue des champs inondés et proche de la nature. Elle  est contemporaine de la culture de Sa Huỳnh et Đồng Nai dans le centre et le sud du Vietnam d’aujourd’hui.

Version vietnamienne 

Vào đầu thế kỷ 20, các nhà khảo cổ học thuộc Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp (Louis Pajot, Olov Jansen) đã phát hiện ra một số lượng lớn các đồ vật từ thời đại đồ đồng ở thung lũng Mã, đặc biệt là ở làng Ðồng Sơn.

Trong số những hiện vật phát hiện này có nhạc cụ, đặc biệt là trống đồng. Các trống nầy  được trang trí với các hoa văn tượng trưng các loài động vật và các quang cảnh được thấy trong cuộc sống hàng ngày. Nhưng có một trống đặc sắc nhất trong các trống đồng này đó là trống Ngọc Lũ. Nó có một hình trụ cao được  63 cm và đường kính 79 cm. Trống nầy đã được trường EFEO mua lại  trong cuộc triển lãm và được bán đấu giá vào năm 1902 ở Hà Nội với giá 550 đồng bạc vào thời điểm đó. Được cho là chiếc trống đẹp nhất được tìm thấy cho đến nay ở Châu Á. Chúng ta thấy trên mặt trên của trống có hoa văn được hoà lẫn với nhiều chũ đề khác nhau mang tính các nghi lễ: bầy hươu, chim nước, nhà sàn vân vân…. Nhà khảo cổ học người Áo Heine-Geldern là người đầu tiên đề xuất cho nền văn hóa này cái tên Đồng Sơn. Kể từ đó, nền văn hóa này được gọi là « Văn hóa Ðồng Sơn ». Theo các nhà nghiên cứu Louis Bezacier Nguyễn Phúc Long, mỹ thuật Đồng Sơn chỉ thể hiện cho giai đoạn cuối cùng trong quá trình phát triển lâu dài của  ngành luyện kim đồng từ các thời đại Gò Bông  (Phùng Nguyên muộn), Đồng Dậu và Gò Mun và tương ứng với thời kỳ mà nền văn hóa Đồng Sơn  đạt  được sự hoàn hảo và có được uy tín và ảnh hưởng ở Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Theo nhà nghiên cứu Hà Văn Tấn, văn hóa Đồng Sơn có cội nguồn từ các nền văn hóa tiền Đông Sơn được phát hiện và nhờ đó tạo ra được từ từ những sản phẩm mỹ thuật tuyệt vời. Mỹ thuật Đồng Sơn được hình thành trên cơ sở kỹ nghệ đồ đá mới vì lúc đầu người ta có thể tìm thấy những đồ vật bằng đồng đầu tiên ở đó cùng với những dụng cụ bằng đá đã được đẽo gọt cùng các đồ gốm mang tính chất của thời kỳ đồ đá mới.

 Để tìm kiếm nguồn gốc của nền văn hóa Đồng Sơn ở phía bắc hoặc ở phía tây của Việt Nam, như một số nhà nghiên cứu đã làm, là chỉ đưa ra một giả thuyết không có cơ sở khoa học.(Hà văn Tấn, trang 129) Văn hóa Đồng Sơn cũng được tiếp xúc với nghệ thuật của thời Chiến quốc (dao găm kiểu Houai của vương quốc Ngô Việt). Đồ đồng cổ ở Việt Nam hoàn toàn khác với  các đồ đồng thời nhà Thương và nhà Chu ở Trung Quốc không những về cách tạo các hình dạng duyên dáng  mà còn luôn cả  trang trí và hợp kim. Có thể nói không lưỡng lự đây là sản phẩm thuần túy  của địa phương, ít có bị ảnh hưởng đến từ đồ đồng Trung Quốc.

Nhờ những khám phá các dụng cụ nông nghiệp bằng đồng (lưỡi cày) mà được tìm thấy ở Vạn Thắng, Sơn Tây  và được các nhà nghiên cứu Việt Nam báo cáo trong công trình mang tên « Những dấu tích đầu tiên của thời đại đồ đồng ở Việt Nam trang 110-113, Hanoï 1963), chúng ta biết được rằng người Việt cổ đã biết cày ruộng với cái cày. Điều này làm luận điệu của người Trung Quốc không còn hiệu lực nữa vì họ thường biện hộ là người Việt cổ không biết đến cái cày trước khi bị người Hán xâm lược, họ phải học từ người Trung Quốc. Các  thái thú Tích QuanNhâm Diên dạy cho họ biết cày lúa và  và cách ăn mặc (Hậu Hán thư). Một trong những đặc điểm của đồ đồng Đồng Sơn  nằm ở việc pha trộn tinh vi các nguyên tố đồng, thiếc và chì và còn  tùy theo vào loại công cụ được chế tạo (rìu chiến, lẫy nỏ, mũi giáo, cày, cuốc, dao găm, vân vân..). Theo nhà nghiên cứu Việt  Nguyễn Phúc Long, trống đồng cổ ở miền Bắc Việt Nam có hàm lượng chì cao hơn nhiều và được có 27,8% so với 0,55%  của  các trống đồng cổ của Trung Quốc.

Vẻ đẹp cũng như sự khéo léo cũng được tìm thấy trong việc trang trí các hiện vật khác nhau  với  các sinh vật sống trên đồng lúa nước (cóc, bồ nông, rùa, trâu vân vân…). Đã từ lâu, dù ở bên cạnh một nước đa dạng văn hóa như Trung Quốc, mọi người  cũng đồng tình nhận thấy  tính cách độc đáo  ở nền văn hóa cổ  của những người nông dân trồng lúa nước nầy,  chân lúc nào cũng vùi trong bùn và rất gần gũi với thiên nhiên. Văn hóa nầy nó cùng đồng thời với văn hóa Sa Huỳnh và Đồng Nai ở miền Trung và miền Nam Việt Nam ngày nay

Culture de Đồng Sơn

(500 B.C. – 43 A.C.)

dongsonien

Pictures gallery 

Bibliographie:

Bezacier Louis, Manuel d’archéologie d’Extrême-Orient, tome I : Le Vietnam, Paris, ed. A.&J. Picard, 1972
Nguyễn Phúc Long: Les nouvelles recherches archéologiques au Vietnam. Complément au Vietnam de Louis Bezacier.
Hà Văn Tấn: Văn hóa Đồng Sơn ở Việt Nam. Nhà Xuất bản Khoa học xã hôi 1994.
Lê văn Lan, Phạm văn Kinh, Nguyễn Linh: những vết tích đầu tiên của thời đại đồ đồng thau ở Vietnam, Hànôi, p 131-134.
Le Vietnam des Royaumes. Cercle d’art 1995 Paris.
Bronzes du Vietnam. La symbolique de l’émotion. Galerie Christophe Hioco

Paris ngày 20/11/2020

[Return CIVILISATION]

Royaume du Champa (Version française)

C’est un ancien royaume d’Indochine connu autrefois sous le nom « Lâm Ấp » (ou Lin Yi)(192-749), puis Hoàn Vương (Huanwang)  (758-859) et enfin Chiêm-Thành (ou Tchan-Tcheng en chinois)(988-1471) et situé dans ce qui est aujourd’hui le centre du Viêt-Nam, de la cordillère annamitique  Hoành Sơn, Quảng Bình au nord  jusqu’à Bình Thuân (Phan Thiết) au sud. Les étonnantes tours chams en briques rouges et en grès trouvées  dans le centre sont le seul témoignage silencieux d’une civilisation disparue dans les tourbillons de l’histoire.

linyi

Les Chams étaient sans doute d’origine austronésienne et occupaient les côtes du centre et du sud du Viêtnam depuis l’époque néolithique. Au IIème siècle, ce peuple de marins adopta l’hindouisme au contact des commerçants indiens, ce qui donna naissance au royaume du Champa.

Un voyageur chinois du IVème siècle les décrit avec un type physique particulier: grand nez droit, cheveux noirs et frisés, pratiquant un rituel funéraire qui comporte l’incinération au son du tambour. Les Chams étaient non seulement d’excellents marins mais aussi de redoutables bâtisseurs et d’ingénieux agriculteurs. Les Chams réussirent à achever l’unité du pays au début du Vème siècle après avoir résisté à plusieurs reprises aux tentatives de domination chinoise. Leur capitale se situait à Indrapura (Trà Kiệu), près de Ðà-Nẵng (ex Tourane des Français) du VIIème au IXème siècle.

Grâce au commerce de la soie, des épices et de l’ivoire entre la Chine d’une part et l’Inde et le monde musulman d’autre part, ce royaume connut une période de prospérité qui fut troublée d’abord par la conquête des Khmers en 1145-1147 puis ensuite par la politique d’expansion des Mongols de Kubilai Khan. Pour faire face à cette domination, les Chams cherchèrent l’alliance avec le Vietnam, ce qui permit aux Chams et aux Vietnamiens de sortir victorieux lors de cet affrontement. Pour sceller cette union, une princesse vietnamienne de nom Huyền Trân de la dynastie des Trần, sœur du roi Trần Anh Tôn fut proposée en 1306 pour épouse au roi Champa de nom Chế Mẫn (Jaya Simhavarman III) en échange de deux territoires du Champa Châu Ô et Châu Rí, situés au Col des Nuages. Ceux-ci ne sont autres que les deux provinces septentrionales de Quảng Trị et Thừa Thiên du Vietnam actuel (Huế).

Cette union ne fut que de courte durée. Les Vietnamiens continuèrent à revendiquer plus de terres vers le Sud et la mort du roi Chế Mẫn un an après un an de mariage, sans avoir d’héritier, ne fut qu’un prétexte supplémentaire dans la conquête du Champa. Le roi du Vietnam monta un complot en envoyant son général Trần Khắc Chung pour faire évader sa sœur qui devait être sacrifiée, selon la tradition chame, au moment des funérailles de son mari. Les provinces Châu Ô et Châu Rí devinrent alors un sujet de discorde entre Champa et le Vietnam.

Les Chams eurent un sursaut avec le roi Chế Bồng Nga (Binasuor) (ou Che Bunga) qui battit à maintes reprises les Vietnamiens en pillant la capitale Thăng Long en 1371 et en 1377. Mais celui-ci fut assassiné en 1389 lors d’une nouvelle invasion du Vietnam et sa mort marqua le déclin des Chams. Les Vietnamiens annexèrent ce royaume aux alentours de 1470 sous la dynastie des Lê avec le roi Lê Thánh Tôn. Aujourd’hui, les Chams sont dispersés en diaspora depuis le Cambodge jusqu’à la Malaisie et constituent l’une des minorités ethniques du Vietnam. (moins de 100000 Chams).

[Return to CHAMPA]


Terre-Eau (Đất Nước)


English version 
Vietnamese version
Galerie des photos

L’eau est omniprésente au Vietnam. L’eau est tellement en osmose avec la terre du Vietnam et c’est peut-être pour cela que ce pays est désigné souvent par deux mots Ðất Nước (Terre-Eau). C’est ici qu’est née la civilisation du riz inondée issue de la culture de Hòa Bình datant au moins de 10.000 ans avant J.C.  Les habitants d’ici croient fermement qu’ils sont les descendants du roi Dragon, Lạc Long Quân, venu des Eaux et de la fée Âu Cơ d’origine terrestre. Nous pouvons dire que c’est ici que la terre et l’eau s’unissent pour donner naissance à un peuple. C’est aussi ici que l’on trouve dans les tombes antiques, des amulettes représentant le dragon, un animal mythique à tête de cochon et au corps de serpent. C’est un trait d’union de la Terre et de l’Eau car le cochon désigne non seulement  la richesse des paysans  mais aussi le symbole de la Terre et le serpent est lié étroitement à l’Eau.

L’histoire du Vietnam est  aussi  simplement une histoire d’eau. L’eau peut devenir meurtrière car elle peut sortir de son lit pour engloutir des récoltes et des villages entiers. Pour atténuer sa colère et sa hargne, on ne cesse pas de construire des digues, colmater des brèches, élever des remparts, creuser des canaux. C’est elle qui a pétri l’épaisse identité du peuple vietnamien et a forgé son âme. Elle est nourricière  car elle fertilise la terre et fait pousser le riz dans les champs. Mais c’est aussi elle qui est tant de fois complice du peuple vietnamien pour venir à bout les agresseurs étrangers.

L’eau a mille visages et autant de couleurs que d’odeurs: tumultueuse et imprévisible dans le fleuve Rouge aux alluvions de couleur brique, marine et turquoise le long des côtes en particulier à Cà Ná, calme à Nha Trang, déchaînée et ourlée de grandes vagues à Ðà Nẵng, croupie avec la couleur ambre des rizières et mourant entre les racines des palétuviers dans les arroyos du delta de Mékong. Cette eau est trouvée partout même dans les coins les plus refoulés du Vietnam. Après quelques moussons, une bassine traînée dehors, une jarre cassée, un fossé au bord de la route peuvent en contenir et deviennent respectivement un aquarium de laboratoire de biologie, une pièce d’eau pour l’élevage des têtards et  un mini étang où fleurissent les lotus. C’est aussi à l’entrée des villages que l’on trouve l’eau stagnante des étangs, recouverte de lentilles d’eau et de liserons aquatiques qui sont les  compagnons du bol de riz des pauvres.

L’eau est synonyme aussi de patrie. C’est pour cela que le dernier empereur Duy Tân intronisé à l’âge de 8 ans et exilé plus tard par les autorités coloniales se servait de cette synonymie pour révéler son état d’âme. Un jour, lors d’une promenade à la mer, ses mains étaient si sales qu’un vieux serviteur lui demanda de les laver avec une bassine remplie d’eau. Il lui posa la question suivante: Si les mains sont sales, on peut les laver avec de l’eau. Mais si c’est l’eau qui est malpropre, avec quoi doit-on la laver? L’empereur Duy Tânvoulait dire que si la patrie était humiliée, avec quoi devait-on laver cet outrage?

Cette réflexion abasourdit et fit trembloter le vieux serviteur. Sans attendre sa réponse, l’empereur Duy Tân impassible répondit à sa place: Si l’eau est souillée, on va la laver avec du sang.

Si par essence, l’eau est élément protecteur, fœtal et vital pour l’homme, elle est en plus pour la plupart des Vietnamiens, la raison d’être dans ce monde car elle est synonyme du mot PATRIE.

Đất Nước

Ở Vietnam, nơi nào cũng có nước.  Có lẽ vì  nước nó thấm nhuần với đất mà nước Việt Nam thông thường được gọi bằng hai chữ Đất Nước. Chính nơi nầy là nguồn gốc của một nền văn minh  lúa nước đã có hơn mười thiên niên kỷ từ .nền văn hoá Hòa Bình.  Người cư dân ở đây họ tin tưởng mãnh liệt họ là con cháu  của cha Rồng Lạc Long Quân  và mẹ tiên Âu Cơ, đến từ Biển và Núi. Chúng ta có thể nói  rằng dân tộc ở đây là  sự kết hợp tinh vi của Đất và Nước. Chính ở nơi nầy người ta  tìm thấy được trong các cổ mộ những bùa hộ mệnh mang hình tượng con rồng đầu lợn mình rắn. Đây là một gạch nối của Đất và Nuớc  vì con lợn tượng trưng  không những sự giàu có của người  nông dân mà nó còn là biểu tượng đất và rắn  là con vật sống gắn bó với nước.  

Lịch sử Việt Nam nó cũng là một câu chuyện về nước mà thôi. Nơi nầy nước nó có thể trổi dậy lũ quét   mùa màng và làng xã. Để xóa  dịu cơn thịnh nộ, người dân không ngừng xây đấp các con đê và  đào các con kênh.  Chính nước nó  nắn bóp ra  một bản sắc dầy đặc  và rèn luyện tâm hồn của người dân Việt. Chính cũng nhờ  nó nuôi dưởng mà  đất mới được màu mỡ, làm lúa mộc trên các cánh đồng.  Thế cũng nhờ nước mà dân tộc Việt Nam mới thành công hiển hách bao lần trước sự xâm lăng của ngoại bang. 

Nước nó có muôn mặt, lắm  màu sắc mà cũng lắm mùi vị. Nó có thể  trổi  dậy ồn ào bất thường với sông Hồng, một con sông có màu  đỏ của đất phù sa kéo về.  Nó có thể màu xanh biếc theo dọc ven biển nhất là ở Cà Ná hay yên lặng như ở Nha Trang  mà nó cũng có thể  thịnh nộ với các cơn sóng dữ cuộn trào như ở Đà Nẵng.  Rồi nó lặng lẽ đắm mình  qua các con sông  nho nhỏ  với màu vàng óng ánh  để sau đó  nó chết  giữa rừng ngập mặn ở  những con rạch của đồng bằng sông Cửu Long. Ở Việtnam, người ta có thể tìm thấy nước ở bất cứ nơi nào dù nơi đó có héo lánh đi nửa. Vã lại, sau cơn gió mùa,  một cái  thau nuớc vứt bỏ, một chum sành đổ vỡ, một hố  bên lề đường cũng có thể chứa nước và trở thành sau đó là một bể thí nghiệm sinh học, một trũng nước nuôi con nòng nọc và một ao nho nhỏ đầy hoa sen. Chính ở trước cỗng làng người ta tìm thấy được giữa lòng nước đọng của  các hồ, những bãi  bèo và rau muống. Đó là  thực phẩm  mà  người nghèo thường dùng với bát cơm.

Nước nó cũng đồng nghĩa với tổ quốc. Vì lý lẽ đó nên vua Duy Tân,  đươc lên ngôi lúc 8 tuổi và bị lưu đày về sau  bởi chính quyền thực dân Pháp có dùng cái đồng nghĩa ngữ pháp nầy để bày tỏ tâm trạng của ông.  Một ngày, lúc đi dạo ngoài biển, tay của ông bẩn quá chừng nên người cận vệ già dùng thau  nước xin ông rửa tay. Ngài  mới chất vấn ông cận vệ già với câu hỏi  nầy:  Nếu tay ta dơ thì có thể rửa với nước. Chớ nếu nước nó  không sạch thì chúng ta phải rửa  với cái chi vậy?  Vua Duy Tân  muốn nói nếu tổ quốc bị sĩ nhục, thì người ta phải rửa nhục với cái chi?  Người cận vệ già vừa rung sợ vừa  chết lặng người  trước cái ngẫm nghĩ sâu sắc của ngài.  Không cần sự trả lời của người cận vệ, ngài dững dưng trả lời thế ông:  Nếu nước nó bị ô uế thì chúng ta phải rửa với máu thôi.

Nếu  chủ yếu nước  là  yếu tố  bảo  trợ hài nhi và quan trọng  cho con người  thì  đối với người dân Việt  nó  còn hơn nửa là lý lẽ  sống ở thế gian nầy vì nó đồng nghĩa với hai chữ Tổ Quốc.

Galerie des photos

Dragon (Con Rồng)

Version française
English version

Không  có chuyện cổ tích hay truyền thuyết Vietnam nào  mà không có con vật phi thường và huyền thoại nầy mà thường được  gọi là con Rồng hay  con Long. Nó là linh vật  đứng hàng đầu  trong bốn con vật có sức mạnh siêu phàm hay tứ linh (long, lân, qui, phụng). Nó thường được phổ biến   trong nghệ thuật trang trí và điêu khắc.  Người ta không những thấy  sự hiện diện của nó ở các chùa chiền mà còn ở các mái hay rường nhà, đồ nội thất, chén đĩa và các mặt hàng bằng vải.   Nếu nó là con thú có cánh, phun lửa và biểu tượng sự tàn ác và hung dữ ở Âu châu  thì ở Vietnam nó là  yếu tố chính  trong truyện thần thoại của người  Việt. Nó là con vật rất gần gũi với đời sống của người Việt vì nó hình tượng của mưa gió thuận hoà, đem lại hạnh phúc ấm no  cho con người nhất là Vietnam là một nước nông nghiệp.

 Tất cả  người dân Việt tin tưỡng mãnh liệt họ  là con cháu của cha Rồng Lạc Long Quân đến từ nước và mẹ Âu Cơ xuất phát  từ miền núi. Từ cuộc hôn nhân đó, tiên nữ đẻ ra một cái bọc có 100 trứng khi vỡ ra, được 100  thằng con trai cường tráng. Sau nầy, khi chia tay, 50 đứa con theo cha  xuống vùng hạ du và sáng lập nhà nước  có tên là Văn Lang và 50 đứa con còn lại theo mẹ về vùng núi để dẩn đến sự ra đời một thế giới vi mô  phức tạp nhất là có đến 54 dân tộc thiểu số.  Mặc dầu  phiên bản nầy nó có tính cách phóng   túng và ngây ngô nhưng   ít nhất nó cũng giúp người  Việt và các dân tộc thiểu số sống  chung và đoàn kết  chặt chẽ  trên mãnh đất hình rồng đế chống lại ngoại bang trong những giây phút khó khăn nhất của lịch  sữ.

Theo truyền thuyết , cũng nhờ có sự hổ trợ  của con rồng khiến quân giặc phương bắc bị đánh bại.   Khi đụng chạm với nước biển, các ngọn lửa của nó    biến thành vô số  các đảo nhỏ, những đá ngầm hình thù lạ đời. Bỡi vậy vịnh nầy được gọi là vịnh Hạ Long (có nghĩa là nơi rồng đáp xuống). Vịnh nầy trở thành là một kỳ quan thứ tám của thế giới và cũng là một điểm trọng đại được nhiều du khách ngoại quốc đến tham quan khi đến Vietnam.

Biểu tượng của  uy quyền và sức mạnh, con rồng  thường được  gắn bó với   đế vương hay   những thực thể   qúy trọng  chỉ dành cho vua chúa chẳng hạn  long nhan (mặt vua), long ngai (ngai vua), long thể (thân thể của vua), long sàn (giường vua)  vân vân …Bỡi vậy chân rồng của vua thường có 5 móng.  Nếu các đồ nội thất nào như  tráp, bình gốm mà  chân rồng có 5 vuốt, đó là sở hữu của vua chúa. Ngược lai, thông thường rồng dân dã thì chân chỉ có 4 móng. Nó còn biểu tượng lang quân, hôn phu hay là người đàn ông. Còn phụ nử thường được thể hiên qua chim phượng hoàng. Bỡi vậy khi có hôn nhân, thường thấy trên các lụa thêu hay trên các bức hoành điêu khắc hình con rồng liên hợp với chim phượng hoàng. Đây củng là sự kết hợp mà các nhà thơ thường nhắc đến để nói lên  niềm vui và hạnh phúc hôn nhân. 

 

con_rồng

 

Hình tượng rồng Vietnam  rất đa dạng, có sự biến đổi không ngừng liên quan đến các triều đại Vietnam.  Duới triều nhà Lý, sau khi thoát khỏi sự đô hộ của Trung Hoa thì con rồng thân thể rất dài như rắn,  mềm mại và uyển chuyển trên bốn chân chim, uốn lượn nhiều vòng không có vảy to, đầu không có tai và sừng. Các nhà nghiên cứu gọi rồng nầy là rông dây. Chính nhờ những nét độc đáo và cá biệt của rồng được phổ biến trong  nghệ thuật điêu khắc thời đó mà người ta mới có thể xác định chính xác niên đại mà rồng được xuất hiện. Đến triều nhà Trần thì rồng rất mập mạp, khỏe mạnh và lực lưỡng. Đầu cũng lớn hơn, có sừng thêm tai. Có vẻ uy nghi hơn hơn lúc thời đại nhà Lý. Sang triều Lê thi nước Việt bị xâm nhập bỡi nho giáo nên rồng thời đó chịu ảnh hưởng rất mạnh  mẽ của phong kiến Trung Hoa  khiến con rồng có đầu to, sừng có chạc, móng quặp lại trông dễ sợ. Tất cả đều thể hiện sự uy quyền và  nghiêm khắc của nhà vua. Sau cùng dưới thời nhà Nguyễn, rồng trở thành một đề tài phong phú khiến ở khắp nơi từ  cung điện đến chùa chiền dù nó vẫn  tượng trưng vương quyền nhưng nó vẫn được sáng tạo một cách phóng khoáng.

Rồng được tìm thấy ở khắp nơi luôn ở đồng bằng sông Cửu Long. Xuất phát tử vùng chân núi Hy Mã Lập Sơn (Tây Tạng), sông nầy chia ra làm chín nhánh hay chín con rồng con để rồi hoà mình sau cùng ở vịnh Nam Bộ. Bỡi vậy vùng nầy mới gọi là đồng bằng Cửu Long.  Chính vua Lý Thái Tổ thấy rồng trong mộng mới dời đô về thị trấn Đại La mà các nhà địa lý cho rằng là nơi thuận lợi cho việc tránh lũ lụt  khốc liệt của sông Hồng. Vì vậy mà thủ đô Hà Nội được gọi thời đó là Thăng Long (Rồng bay lên).

Nếu con  quái vật biển nầy thường bị các dân tộc khác  sợ hải chán ghét thì nó ngược lại rất gần gũi với  đời sống hằng ngày của người Việt. Nó có trọng trách để  canh giữ ở Huế các lăng tẫm của các vua chúa với thân thể làm bằng các mãnh gốm đa sắc. Với màu vàng rực rỡ, nó thường được thấy đang uốn lượn trên các cột sơn mài màu son của các cung điện. Nó nằm trong hệ thống 12 con giáp. Nó không những  được thấy  trên các đồ thêu thùa bằng lụa dành cho du khách mà còn là hình chạm ở đầu mũi thuyền với màu sắc sặc sỡ ở vịnh Hạ Long.

Ở Vietnam, chúng ta lúc nào cũng cảm nhận được sự che chở bỡi con quái vật biển nầy  vì chúng ta tin tưởng mãnh liệt là con cháu của cha Rồng Lạc Long Quân.

Version française

Il n’y a pas de contes ni de légendes vietnamiennes sans cet animal fabuleux et mythique qu’on appelle communément Con Rồng ou plus littérairement Con Long (ou le Dragon en français ). Il occupe la première place parmi les  quatre animaux au pouvoir surnaturel (tứ qúi)(long, lân, qui, phụng (dragon, licorne, tortue et phénix).  Il est employé fréquemment dans l’art de décoration et la sculpture. On le voit non seulement dans les pagodes mais aussi sur les arêtes des toitures,  les poutres des charpentes,  les meubles,  les pièces de la vaisselle et  les étoffes.   Si cet animal ailé et puissant cracheur de feu  est le symbole de méchanceté et de cruauté en Europe, il passe par contre  pour un élément clé dans  la mythologie  vietnamienne. Il est proche de la vie journalière des Vietnamiens car il  est considéré par ces derniers  comme un élément de bonheur avec ses bienfaits dans la régulation harmonieuse de la pluie et du vent  et dans un pays agricole comme le Vietnam.

Tout Vietnamien se croit fermement descendant du roi Dragon Lạc Long Quân venu des Eaux et de la fée Âu Cơ d’origine terrestre. De cette union, la fée déposa cent œufs qui donnèrent le jour à cent robustes garçons. Plus tard, lors de la séparation du couple, une cinquantaine de garçons suivirent le père Dragon vers les basses régions côtières et fondèrent la première nation vietnamienne ayant comme nom Văn Lang tandis que les cinquante autres suivirent leur mère terrestre vers les hautes plaines pour donner naissance plus tard à un microcosme ethnique le plus complexe du monde avec 54 minorités ethniques. Bien que cette version mythologique soit débridée et poétique, elle permet néanmoins aux Vietnamiens et aux minorités ethniques de cohabiter tant bien que mal dans ce pays en forme de dragon et de s’unir comme un seul homme pour venir à bout des agresseurs étrangers dans les moments difficiles de leur histoire. 

Selon une légende vietnamienne, c’est grâce au retour d’un dragon bienfaiteur que les hordes barbares venant du Nord furent mises en déroute. Ses flammes de feu crachées se transformèrent au contact de la mer en une multitude d’îlots, écueils aux formes extravagantes. C’est pour cela que cette baie est connue en vietnamien sous le nom Hạ Long ou ( la Descente du Dragon ). Elle devient ainsi la huitième merveille du monde et le site naturel le plus visité par les touristes étrangers lorsque ceux-ci débarquent au Vietnam.

La baie de Hạ Long 

Étant l’élément de pouvoir, le dragon est lié étroitement à  l’empereur et à tout ce qui lui appartient. Par exemple long nhan (son visage),  long ngai (son trône), long thể (son corps), long sàn (son lit) etc… Etant l’animal emblématique de l’empereur,  le dragon  de l’empereur  doit  posséder des pattes à 5 griffes. Si on voit sur un meuble,  un coffret ou  une porcelaine un dragon avec ses pattes  à cinq griffes, c’est que l’objet en question est destiné au service de l’empereur. Par contre, d’une manière générale, le dragon n’a que quatre griffes pour ses pattes. Il est encore le symbole du mari, du fiancé et plus généralement de l’homme. Quant à la femme, elle est représentée par le phénix. C’est pourquoi lorsqu’on veut faire allusion à un mariage, on associe souvent sur une broderie ou  un panneau sculpté un dragon à un phénix. C’est aussi cette association que les poètes évoquent dans leurs poèmes pour parler  de la joie partagée et du bonheur conjugal.

img_2250

L’image du dragon se présente sous diverses formes et ne cesse pas d’avoir des modifications tout le long  des dynasties vietnamiennes.  Après la libération du  Vietnam de la domination  chinoise, le dragon apparût  sous la dynastie des Lý avec un corps  long comme celui d’un serpent, souple dans sa démarche avec les quatre pattes d’un volatile et ondulant sinueusement avec des petites écailles. Sa tête n’avait ni oreilles ni cornes. Les chercheurs lui donnent le nom « rồng dây ». Grâce à ses caractéristiques particulières et uniques trouvées dans la sculpture, on arrive à déterminer avec exactitude l’époque de son apparition. Puis sous la dynastie des Trần, le dragon commença à prendre de l’embonpoint et devint robuste et musclé avec une   tête plus grosse et garnie de cornes et d’oreilles. Ce dragon avait l’air majestueux par rapport à celui des Lý. Sous la dynastie des Lê, le Vietnam fut tellement influencé par le confucianisme et la féodalité chinoise que le dragon avait une grosse tête garnie de cornes fourchues et les griffes de ses pattes rabattues vers l’arrière, ce qui faisait peur à voir. Tout cela avait pour but de montrer la sévérité du pouvoir  et  l’autorité du roi. Enfin sous la dynastie des Nguyễn, le dragon devint un thème tellement foisonnant que malgré son emblème de royauté, les artistes n’hésitèrent pas à s’en servir délibérément à leur guise   pour leurs créations d’art visibles partout (du palais jusqu’à la pagode).

Le dragon est vu partout même dans le delta du Mékong. Ce fleuve né dans les contreforts de l’Himalaya (Tibet) se divise en neuf bras ou en neuf dragons pour se jeter dans le golfe de la Cochinchine (ou Nam Bộ). C’est pour cela que cette région s’appelle Cửu Long (ou Neuf Dragons en français). Il a été vu également à l’embarcadère par l’empereur Lý Thái Tổ, ce qui permit à ce dernier de transférer sa capitale sur la localité Ðại La que les géomanciens ont jugée propice à l’abri des eaux du fleuve Rouge meurtrier. C’est pour cela que la capitale Hanoï fut connue à une époque sous le nom Thăng Long (ou la montée du Dragon).

Si ce monstre marin rebute facilement la plupart des peuples, il fait partie par contre de la vie journalière vietnamienne. Il est chargé de veiller, à la ville impériale Huế sur les tombeaux des empereurs Nguyễn avec tout son corps de bris de céramique multicolore. Doré, il s’enroule autour des piliers de laque carmin des palais impériaux. Il est l’un des douze signes astrologiques du calendrier lunaire. Il devient non seulement la broderie sur soie des vêtements pour les touristes mais aussi la figure de proue aux couleurs criardes sur les jonques de la baie de Hạ Long.

 

Dans le berceau de légendes qu’est notre Vietnam, nous nous sentons mieux protégés par ce monstre marin car nous sommes convaincus que nous sommes toujours descendants du roi Dragon Lạc Long Quân.

[Return RELIGION]