Thách thức (Le défi)


Version anglaise

Version française

Thách thức

Từ nầy không xa lạ đối với người dân Việt. Mặt khác, nó còn đồng nghĩa với sự kiên trì, kháng cự, khéo léo và đối đầu dành cho những người mảnh khảnh nầy mà chân lúc nào cũng chôn vùi dưới bùn ở các ruộng lúa kể từ buổi ban sơ. Từ thế hệ này sang thế hệ khác, họ đã không ngừng chấp nhận mọi thách thức áp đặt bởi một thời tiết khắc nghiệt của một môi trường sống không bao giờ thuận lợi và một nước Trung Hoa mà họ vừa xem như là một người anh cả láng giềng mà cũng là kẻ thù truyền kiếp của họ. Đối với đế chế Trung Hoa nầy, họ lúc nào cũng có sự ngưỡng mộ đáng kinh ngạc nhưng đồng thời họ thể hiện sự kháng cự không thể tưởng tượng được vì lúc nào ở nơi họ cũng có sự quyết tâm để bảo vệ nền độc lập dân tộc và những đặc thù văn hóa mà họ đã có từ 4 nghìn năm. Đế chế Trung Hoa đã cố gắng hán hóa bao lần Việt Nam suốt thời kỳ Bắc thuộc có đến nghìn năm nhưng chỉ thành công làm mờ nhạt đi một phần nào các đặc điểm của họ mà thôi và nhận thấy mỗi lần có cơ hội thuận lợi, họ không ngớt bày tỏ sự kháng cự và sự khác biệt hoàn toàn. Họ còn tìm cách đương đầu với người Trung Hoa trên lãnh vực văn hóa mà được nhắc lại qua những câu chuyện còn được kể lại cho đến ngày nay trong lịch sử văn học Việt Nam. Theo dao ngôn được truyền tụng trong dân gian, sau khi thành công chế ngự được cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng (Trưng Trắc Trưng Nhị) và chinh phục xứ Giao Chỉ (quê hương của người dân Việt), Phục Ba tướng quân Mã Viện của nhà Đông Hán truyền lệnh dựng cột đồng cao nhiều thước ở biên thùy Trung-Việt vào năm 43 và có được ghi chép trên cái bảng treo như sau:

Ðồng trụ triệt, Giao Chỉ diệt
Ðồng trụ ngã, Giao Chỉ bị diệt.

Để tránh sư sụp đổ của đồng trụ, người dân Việt cùng nhau vun đấp bằng cách mỗi lần đi ngang qua mỗi người vứt bỏ đi một cục đất nho nhỏ khiến đồng trụ huyền thoại nầy biến mất dần dần theo ngày tháng để trở thành một gò đất. Cố tình trêu nghẹo và mĩa mai trên sự sợ hải và nổi kinh hoàng mất nước của người dân Việt, vua nhà Minh Sùng Trinh ngạo mạng đến nỗi không ngần ngại cho cận thần ra câu đối như sau với sứ thần Việt Nam Giang Văn Minh (1582-1639) trong buổi tiếp tân:

Đồng trụ chí kim đài dĩ lục
Cột đồng đến giờ đã xanh vì rêu.

để nhắc nhở lại sự nổi dậy của hai bà Trưng bị quân Tàu tiêu diệt.
Không lay chuyển trước thái độ lố bịch nầy, sứ thần Giang Văn Minh trả lời một cách thông suốt lạ thường nhất là với lòng quyết tâm cứng cỏi:

Ðằng giang tự cổ huyết do hồng
Sông Bạch Đằng từ xưa vẫn đỏ vì máu

để nhắc nhở lại với vua nhà Minh những chiến công hiển hách của người dân Việt trên sông Bạch Đằng.
Không phải lần đầu có cuộc thi văn học giữa hai nước Trung Hoa và Việt Nam. Ở thời đại của vua Lê Đại Hành (nhà Tiền Lê), nhà sư Lạc Thuận có cơ hội làm cho sứ giã nhà Tống Lý Gi ác tr ầm trồ ngư ỡng mộ bằng cách giã dạng làm người lái đò tiển đưa Lý Giác sang sông. Khi Lý Giác khám phá ra được hai con ngỗng đang đùa cợt trên đỉnh sóng và ngâm hai câu thơ đầu của bài tứ tuyệt như sau:

Ngỗng ngỗng hai con ngỗng
Ngữa mặt nhìn trời xanh

thì Lạc Thuận không ngần ngại đối lại qua hai câu thơ cuối như sau:

Nước biếc phô lông trắng
Chèo hồng sóng xanh khua

Trong bốn câu thơ nầy, người ta nhận thấy không những có sự ứng khẩu nhanh chóng của sư Lạc Thuận mà còn có cả sự tài tình của ông trong việc dàn dựng song song những thuật ngữ và ý kiến tương đồng trong bài tứ tuyệt nầy.

Hình ảnh nhà thờ Giang Văn Minh và văn miếu

defi

Nhưng nói công lao trong việc đối đầu thì phải dành dĩ nhiên cho học giả Mạc Đĩnh Chi vì ông nầy trong thời gian ở Trung Quốc, đã thể thể hiện được khả năng chống cự mà còn có tài năng vô song để biết đối đáp lại một cách khéo léo tất cả mọi câu hỏi và tránh được mọi cạm bẫy. Ông được gửi đi sang Tàu vào năm 1314 bởi vua Trần Anh Tôn sau khi vua đánh bại quân Mông Cổ của Hốt Tất Liệt với tướng Trần Hưng Đạo. Do sự chậm trể vô tình, ông không có đến trình diện đúng giờ trước cổng thành ở biên giới Trung-Việt. Ông quan giữ cỗng thành chịu mở cửa nếu ông trả lời được một cách thích hợp câu hỏi mà người quan nầy đưa ra mà trong câu hỏi đó gồm có bốn chữ “quan”:

Quá quan trì, quan quan bế,
nguyện quá khách quá quan
Qua cửa quan chậm, cửa quan đóng,
mời khách qua đường qua cửa quan.

Không có chút nào nao núng cả trước sự thách thức văn học, ông trả lời ngay cho quan cổng với sự tự nhiên đáng kinh ngạc:
Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối.

Ra câu đối dễ, đối câu đối khó
xin tiên sinh đối trước.

Trong lời đối đáp nầy, ông dùng chữ “đối” cũng 4 lần như chữ “quan” và nó được dựng lên ở vị trí của chữ “quan”. Mạc Đỉnh Chi còn điêu luyện biết giữ vần và những luật lệ âm điệu trong thơ để cho quan cổng biết là ông ở trong hoàn cảnh khó xữ với đoàn tùy tùng. Quan cổng rất hài lòng vô cùng. Ông nầy không ngần ngại mở cổng và đón tiếp Mạc Đỉnh Chi một cách linh đình. Chuyện nầy được báo cáo lên triều đình Bắc Kinh và làm nô nức biết bao nhiêu quan lại văn học Trung Hoa muốn đo tài cao thấp với ông trong lĩnh vực văn chương. Một ngày nọ, tại thủ đô Bắc Kinh, ông đang đi dạo với con lừa. Con nầy đi không đủ nhanh khiến làm một người Trung Hoa khó chịu đang theo sát ông trên đường. Quá cáu bởi sự chậm chạp này, quan lại nầy quay đầu nói lại với ông ta với một giọng kiêu ngạo và khinh bỉ:

Xúc ngã ky mã, đông di chi nhân dã, Tây di chi nhân dã?
Chạm ngựa ta đi là người rợ phương Ðông hay là người rợ phương Tây?

Ông quan lại lấy cảm hứng từ những gì ông đã học được trong cuốn sách Mạnh Tử để mô tả người những người man rợ không có cùng văn hóa với đế chế Trung Hoa bằng cách sử dụng hai từ  » đông di « . Ngạc nhiên trước lời nhận xét tổn thương này khi ông biết rằng Trung Hoa bị cai trị vào thời điểm đó bởi các bộ lạc du mục (người Mông Cổ), Mạc Đỉnh Chi mới trả lời lại với sự hóm hỉnh đen tối của mình:

Át dư thừa lư, Nam Phương chi cường dư, Bắc phương chi cường dư
Ngăn lừa ta cưởi, hỏi người phương Nam mạnh hay người phương Bắc mạnh?

Một hôm, hoàng đế nhà Nguyên đã không ngần ngại ca ngợi sức mạnh của mình ví nó với mặt trời và làm cho Mạc Đỉnh Chi biết rằng Việt Nam chỉ được so sánh với mặt trăng, sẽ bị hủy diệt và thống trị sớm bởi người Mông Cổ. Điềm nhiên, Mạc Đỉnh Chi trả lời một cách kiên quyết và can đảm:

Nguyệt cung, kim đạn, hoàng hôn xa lạc kim
Trăng là cung, sao là đạn, chiều tối bắn rơi mặt trời.

Hoàng đế Kubilai Khan (Nguyễn Thê ‘Tổ) phải công nhận tài năng của ông và trao cho ông danh hiệu « Trạng Nguyên đầu tiên » (Lưỡng Quốc Trạng Nguyên) ở cả Trung Hoa và Việt Nam, khiến một số quan lại ganh tị. Một trong số người nầy cố tình làm bẽ mặt ông ta vào một buổi sáng đẹp trời bằng cách ví ông ta như một con chim bởi vì âm điệu đơn âm của ngôn ngữ, người dân Việt khi họ nói cho cảm giác người nghe như họ luôn luôn hót líu lo:

Quích tập chi đầu đàm Lỗ luận: tri tri vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri
Chim đậu cành đọc sách Lỗ luận: biết thì báo là biết, chẳng biết thì báo chẳng biết, ấy là biết đó.

Đây là một cách để khuyên Mạc Ðỉnh Chi nên khiêm tốn hơn và cư xử như một người đàn ông có phẩm chất Nho giáo (Junzi). Mạc Đỉnh Chi trả lời bằng cách ví anh nầy như một con ếch. Người Trung Hoa thường có thói nói to  và tóp tép lưỡi  qua tư cách họ uống rượu.

Oa minh trì thượng đọc Châu Thư: lạc dữ đọc lạc nhạc, lạc dữ chúng lạc nhạc, thục lạc.
Châu chuộc trên ao đọc sách Châu Thu: cùng ít người vui nhạc, cùng nhiều người vui nhạc, đằng nào vui hơn.

Đó là một cách để nói lại với người quan lại nầy nên có một tâm trí lành mạnh để hành xử một cách công bằng và phân biệt nghiêm chỉnh.
Tuy rằng có sự đối đầu trong văn học, Mạc Đỉnh Chi rất nổi tiếng ở Trung Quốc. Ông được Hoàng đế của nhà Nguyên ủy nhiệm việc sáng tác bài văn tế để vinh danh sự qua đời của một công chúa Mông Cổ. Nhờ sự tôn trọng truyền thống của Trung Hoa dành cho những người tài năng Việt Nam, đặc biệt là các học giả có tài trí thông minh nhanh chóng và học hỏi mau lẹ mà Nguyễn Trãi đã được cứu bởi đại quản gia Hoàng Phúc. Trong tầm mắt của tướng Tàu Trương Phụ, Nguyễn Trãi là người phải giết, một người rất nguy hiễm cho chính sách bành trướng của Trung Hoa ở Việt Nam. Ông bị giam giữ bởi Trương Phụ trong thời gian ở Ðồng Quang (tên xưa của Hànội) trước khi ông theo Lê Lợi về sau ở Lam Sơn. Không có cử chỉ hào hiệp và bảo vệ của hoạn quan Hoàng Phúc, Lê Lợi không thể trục khỏi quân nhà Minh ra khỏi Việt Nam vì Nguyễn Trãi là cố vấn quan trọng và chiến lược gia nổi tiếng mà Lê Lợi cần dựa vào để lãnh đạo cuộc chiến tranh du kích trong thời gian mười năm đấu tranh chống lại Trung Quốc.

Cuộc đối đầu văn học này phai nhạt dần dần với sự xuất hiện của người Pháp tại Việt Nam và chấm dứt vĩnh viễn khi vua Khải Định quyết định chấm dứt hệ thống cuộc thi quan lại ở Việt Nam theo mô hình của người Trung Quốc dựa chủ yếu vào tứ thư Ngũ Kinh của Đức Khổng Tử.

Cuộc thi quan lại cuối cùng được tổ chức tại Huế vào năm 1918. Một hệ thống tuyển dụng kiểu Pháp khác đã được đề xuất trong thời kỳ thuộc địa. Do đó, Việt Nam không còn cơ hội để đối đầu văn học với Trung Quốc nửa và biểu hiện được sự khác biệt cũng như sự phản kháng trí tuệ và các đặc thù văn hóa.

Vietnam qua dòng lịch sử (Histoire du Vietnam)

Việt Nam qua dòng lịch sử

English version
French version

Vietnam được biết đến từ thế kỷ 19 khi vua Gia Long quyết định đổi tên nước Nam Việt. Marco Polo có nhắc đến xứ nầy trong cuộc hành trình của ông với quyển sách mang tựa đề là «Những kỳ quan của thế giới» dưới tên là Giao Chỉ. (Caucigui). Có thể tóm gọn lịch sử xứ nầy qua vài lời như sau: chiến đấu để dành độc lập, chinh phục những « vùng đất mới » và thống nhất đất nước. Người dân Việt được nhắc đến ở thời kỳ đồ đồng (Văn hóa Đồng sơn).

Ở niên kỷ thứ 10, ở đồng bằng sông Hồng thường được xem là cái nôi của dân tộc người Việt, họ mới được giải thoát được gông cùm của người Hán để gìành lại được độc lập và khởi đầu sau đó một cuộc Nam Tiến với Lê Hoàn. Quốc gia nầy không ngừng sinh sản các « tế bào mới » ở các vùng đất nào thuận lợi cho phương thức canh tác và còn dựa trên phương diện chính trị, vào các hộ dân nho nhỏ độc lập mà được những người lính nông dân tạo thành. Các hộ nầy đôi khi còn được củng cố bởi chính quyền trung ương rồi hành xử như một san hô kết xù  để hình thành dần dần một  đảo san hô to tác, rồi bao vây  và đồng hóa sau đó  các vùng đất mới đó khiến nhờ thế mà  bờ cỏi Vietnam mới được rộng lớn thêm. Đây là một lợi thế không thể phủ nhận được cho chính sách bành trướng nhưng phải cần có một chính quyền trung ương mạnh mẽ. Đức Không Tử thường nhắc đến các người Việt trong Kinh Lễ. Nhờ có năng lực bám giữ ngón chân cái tách rời được các ngón chân khác nên họ vượt sông leo núi rất dễ dàng mà chẳng bao giờ biết mệt cả.

 Phong cảnh Việt Nam

Lịch sử Vietnam không phải là lịch sử của các triều đại vua chúa hay là những phong trào tư duy vĩ đại. Mà nó là lịch sử của những người nông dân bền bỉ từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, làm việc vất vã ở ngoài ruộng đồng và thường hay áp đặt dấu ấn của họ trên quang cảnh. Chỉ cần sự nới giản ở chính quyền trung ương thì đất nước nầy dễ dàng bị phân chia. Bởi vậy đây là một trong những lý do chính giải thích nước Việt Nam thường có tình trạng bất ổn và chiến tranh triền miên. Vietnam có được lợi thế là nhờ có ba cấu trúc dân tộc thích hợp như sau: một bộ máy hành chánh dựa trên mô hình nho giáo dưới triều đại vua chúa (người có thiên mệnh), gia đình và làng mạc xem như đến từ một nền văn hóa nông dân mà mỗi người dân Việt lúc nào cũng cảm nhận có sự gắn bó mật thiết của họ với tổ tiên và đất nước. Nhờ chính sách ngặm nhấm của con tầm mà người dân Việt mới chiếm được những mảnh đất của người dân Cao Miên và Chàm. Những di tích của những người nầy ở miền trung hiện nay (Phan Thiết, Phan Rang, Đà Nẵng vân vân …) và đồng bằng sông Cửu Long chứng nhận sự chinh phục của người dân Việt. Họ đã bao lần chứng minh trong quá khứ và chiến tranh Vietnam sự gắn bó thâm sâu của họ với nền độc lập dân tộc. Họ phải chịu qua bao nhiêu thế kỷ chiến đấu, giặc dã và đau thương để Vietnam trở thành hiện nay môt con rồng con ở Á Châu.

Người ta tìm thấy trong lịch sử của người dân Việt có hai ngàn năm tranh đấu không ngừng với thiên nhiên và nước. Vì thế người nông dân Việt lúc nào cũng có gắng bó mật thiết với mảnh đất nầy mà còn có luôn sự thỏa thuận sâu sắc với thiên nhiên. Nhà học giã Pháp Paul Mus không ngần ngại nhấn mạnh sự kiện nầy trong quyển sách mang tựa đề là « Vietnam, xã hội học của một cuộc chiến tranh, Ba Lê, nhà xuất bản Le Seuil 1952« . Chính sự thỏa thuận mật thiết nầy khiến ở đâu đi nửa mà có cơ hội thuận tiện thì khó mà có ai có thể chống lại được sự bành trướng của họ mà luôn cả lực lượng ngoại bang cũng không thể thắng họ khi có đụng chạm với họ trên mảnh đất nầy. Bất chấp sự đô hộ bởi người Trung Hoa có một ngàn năm, người dân Việt, được thấm nhuần nền văn hóa của họ, đã giữ được ngôn ngữ dù biết rằng ngôn ngữ nầy bị phiên âm bằng tiếng Hán và bị La-Tinh hóa sau nầy khi thầy tu sỹ dòng tên là Alexandre de Rhodes đến Vietnam. Nếu người dân Việt không từ chối bất kỳ sự đóng góp nào từ nước ngoài là vì họ đã thành công việt nam hóa và giữ được tất cả những gì qúi giá mà mọi người ở trên thế giới đều có đó là các truyền thống dân tộc mà được truyền lại từ thế hệ nầy sang thế hệ sau và từ những người mảnh khảnh, chân vùi chôn trong bùn của các ruộng lúa. 

Làm thể nào để không gắn bó với Việt Nam, một đất nước mà sự hy sinh không phải là một từ rỗng. Sự hy sinh nầy đã bao lần tìm thấy trong các biên sử của Vietnam. Thà làm qủi nước nam chớ không thèm làm vương đất Bắc, đó là lời nói dũng khí của danh tướng Trần Bình Trọng trước khi ông bị giặc Nguyên giết chết vào năm 1257. Cuộc đời là một trò chơi may rủi. May mắn nó không đến với chúng ta. Bây giờ tốt hơn là chết cho đất nước và để lại một tấm gương hy sinh cao cả, đó là lời nói của nhà lãnh đạo Nguyễn Thái Học trước khi bị chém đầu vào ngày 17 tháng 6 năm 1930 tại Yên Bái. Làm thế nào để xóa trong ký ức tập thể khuôn mặt ngây thơ của một hoàng đế trẻ bi gian cầm Hàm Nghi, bị lưu đày lúc 18 tuổi ở Algérie, nước mắt lưng tròng? Làm thế nào để quên đi cái chết bi thảm của một vị vua trẻ Duy Tân (một tai nạn máy bay tại OuBangui-Chari ở Châu Phi) mà sự trở về Vietnam của ông có lẽ thay đổi những sự kiện đáng tiếc của lịch sử Việt Nam trong những thập niên vừa qua vào năm 1945 ? Làm thế nào để không nuối tiếc Viêtnam quê hương tôi, một mảnh đất không bao giờ được bình yên ? Đó là là ấn tượng mà nhà văn Huỳnh Văn Nhường cảm nhận được qua cuốn sách nổi tiếng của ông tựa đề là: « The Land I lost » dành cho giới trẻ và được biên tập bởi nhà xuất bản Castor Poche Flammarion.


 

Một đất nước mà tôi yêu thương có bao giờ
còn tồn tại qua dòng lịch sử không?

 

                    –Citadelle en colimaçon et son mythe (Cổ Loa thành và huyền thoại)
                    –Arbalète magique (Huyền thoại Trọng Thủy et Mỵ Châu)

                      –Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn

  • Dynastie des Hồ
  • Dynastie des Lê postérieurs              

                     –Nguyễn Trãi 

  •  Les Paysans de l’Ouest (Nhà Tây Sơn) 

                     –Nguyễn Huệ (vua Quang Trung)

                      –Nguyễn Ánh (Vua Gia Long)
                      –Nguyễn Phúc Hồng Nhậm  (Vua Tự Đức)
                      Nguyễn Phúc Bửu Lân (vua Thành Thái)
                       –Nguyễn Phúc Ưng Lịch (Vua Hàm Nghi)
                      Nguyễn Phúc Vĩnh San (Vua Duy Tân)

Dân tộc Hmong (Version vietnamienne)

Dân tộc Hmong

Version française
English version

Tại sao dân tộc Hmong không có quốc gia như người Việt? Tại sao họ sống nghèo nàn tạm bợ ở miền nam Trung Hoa hay ở bán đảo Đông Dương, trở thành một dân tộc thiểu số của Vietnam tuy rằng họ rất đông dân có ít nhất 20 triệu dân trên đia bàn họ cư ngụ.

Dân tộc Hmông được chia nhiều nhóm:Hmong xanh (hay Hmong Lênh), Hmong Hoa, Hmong Đen, Hmong Trắng và Na Miêu (Mèo Nước). Dân tộc Hmong (hay thường gọi là Miêu) sống cư ngụ hiện nay ở Vietnam là con cháu của dân di cư đến từ miền nam nước Trung Hoa. Giữa chừng cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, dân Hmông mới đến định cư ở bán đảo Đông Dương (Lào, Vietnam và Thái Lan). Họ thường ở những vùng miền núi của Việtnam từ 800 đến 1500 thước so với nước biển.(Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Sơn La vân vân…) và có liên hê mật thiết với các cư dân đồng tộc ở trong địa bàn khá rộng lớn dọc theo biên giới Việt Trung và Việt Lào. Lịch sữ của họ nhìn lại kỹ là một dân tộc không bao giờ chịu đầu phục dưới sự thống trị và chính sách đồng hóa của người phương bắc (Trung Hoa) cũng như dân tộc Vietnam.

Theo truyền thuyết được kể lại qua nhiều thế hệ, ông cha của họ sống ở vùng đầy tuyết và nước đá và ít có mặt trời trong vòng sáu tháng. Bởi vậy họ thường quen sống ở các vùng nhiệt đới và không có dịp thấy được tuyết nên thường dùng những danh từ như nước cứng và cát trắng mịnh để ám chỉ nước đá và tuyết. Theo các sữ gia, họ có nguồn gốc ở Tây Bá Lợi (Sibérie) và các vùng cao nguyên của Mông Cổ. Những nét da trắng của vùng Cáp Ca (Caucase) thường thể hiện ở những người Hmông ngày nay. Còn có nhiều người nghỉ rằng họ đến từ Tây Tạng vì họ có các nghi lễ shaman. Thường hay có sự phỏng đoán nhiều hơn sự xác thực về nguồn gốc người Hmong. Trong các văn bản của người Trung Hoa, người Hmong được gọi là người Miêu. Danh từ nầy dùng để ám chỉ tất cả những dân tộc không phải là người Hán sống ở các vùng tây nam của Trung Hoa. Ngày nay, danh từ nầy dùng để chỉ rõ các dân tộc Hmong ở vùng bán đảo Đông Dương và các dân tộc thiểu số Miêu ở Trung Hoa (Hmong, Hmou, Qoxiong và Hmau) cùng liên hệ mật thiết về ngôn ngữ và văn hóa.

Les Hmong

No Images found.

Một dân tộc luôn luôn đi tìm tự do

Nhìn lại danh từ Miao trong chữ Hán ()(hay Miêu) thì thấy nó đã có nguồn gốc với chữ Điền () (ruộng) trên đầu còn thêm tượng hình Thảo (cỏ)() . Đây là cách ám chỉ của người Trung Hoa trong ngôn ngữ, để chỉ nguời Hmong thời đó. Họ là những người giỏi về làm ruộng ở đồng bằng. Cứ bị lấn áp mất ruộng đất bởi người Trung Hoa, họ buộc lòng trở thành những dân cư miền núi cho đến ngày nay. Họ đến cư ngụ những vùng núi có độ cao khắc nghiệt và khó mà tiếp cận. Họ buộc lòng hoà mình với thiên nhiên tìm ra một cách khéo léo cho mỗi môi trường một mô hình nông nghiệp để trồng lúa (các ruộng lúa bậc thang). Nguời Hoa vẫn khinh khi họ, xem họ như dân mọi rợ cho đến nổi trong văn bản của Hoa có sự phân biệt giữa người Hmong chín (shu Miao) và người Hmong sống (sheng Miao), có nghĩa là những Hmong chịu theo họ hay bị đồng hóa và những người Hmong sống bên lề của văn hoá Trung Hoa. Người Hoa có nhiệm vụ biến các người « Hmong sống » thành các người « Hmong chín ».

Lịch sử người Hmong rất phong phú qua các truyền thuyết và hiện thực. Nó cũng là con đường đầy rẫy chông gai, các cuộc xung đột không ngừng với người Hoa từ buổi ban sơ. Chính vì thế lịch sử của họ là lịch sử của một dân tộc chống lại sự áp bức khiến họ thường nổi tiếng là những kẻ hiếu chiến và khó mà đồng hóa. Ở thời kỳ tiền sử, dân tộc Hmong đã sống gần với bộ tộc Hsia (dưới đời nhà Hạ) ở lưu vực của sông Hoàng Hà ở vùng thượng Hà Nam. Cùng tù trưởng Suy Vưu (Chi You), họ đụng độ lần đầu với người Hoa và thua trận ở Trác Lộc với cái chết của Suy Vưu ở tỉnh Hồ Bắc (Hubei) (khoảng chừng 2690 trưc Công Nguyên). Sau đó họ bị đẩy lui đến đồng bằng sông Dương Tử trong địa bàn của dân Bách Việt bởi hoàng đế Hiên ViênĐại Vũ của người Trung Hoa. Trong các văn bản của nhà Ân và nhà Châu, cũng có nhắc đến các cuộc xung đột với dân tộc Hmong (1121- 256 trước công nguyên). Ở vùng trung lưu của sông Dương Tử, họ giữ một vai trò quang trọng, một thế lực đáng kể trên phương diện chính trị và xã hội ở Sỡ Quốc, một trong ba nước mạnh nhất ở thời Chiến Quốc. Ngoài việc chiêu hồn, người Hmong cùng người nước Sỡ có sự liên hệ mật thiết trên phương diện ngôn ngữ, đời sống, phong tục vân vân …

femmes_hmong

No Images found.

Phụ nữ người Hmong

img_8504
Dạo đó, dân tộc Hmong cùng dân tộc Lạc Việt và dân Tây Âu (tổ tiên người Thái hiện nay) có một thế lực trọng đại trong dân cư của Sỡ Quốc khiến nước nầy trở thành một thành luỹ kiên cố của dân Bách Việt và dân tộc Hmong chống lại cuộc xâm lăng của người Hoa. Sau khi nước Sỡ bị chinh phục bởi nhà Tần (Tần Thủy Hoàng), người Hmong phải chạy trốn về các vùng núi ờ Qúi Châu, Tứ Xuyên và Vân Nam. Các cuộc xung đột vẫn tiếp diễn dưới triều đại nhà Hán (140- 87 trước công nguyên) và dưới thời Ngũ Đại (907-960 sau công nguyên). Tên Miêu tạm thời được quên đi dưới triều đai nhà Nguyên và sau đó được nhắc đến thường xuyên dưới triều đại nhà Minh. Vì sự gia tăng dân số, người Hoa tiếp tục chiếm đất của người Hmong khiến họ phải di cư và chống lại người Hoa một cách mãnh liệt để bảo vệ ruộng đất. Có nhóm thì dùng vũ khí còn có nhóm thì chạy trốn sang bán đảo Đông Dương nhất là họ sang với ba làn sóng người liên tìếp mà làn sóng quang trọng nhất là lúc có cuộc nổi dậy có liên hệ đến cuộc khởi nghĩa thần bí của nhóm Thái Bình thường được biết dưới cái tên là Thái Bình Thiên Quốc dưới triều đại nhà Thanh từ 1840 đến 1868. Dân tộc Hmong trở thành từ đó một dân tộc thiểu số của Vietnam từ ba thế kỷ.

[Retour Viet Nam et ses 54 ethnies]

Pont Alexandre III (Cầu Alexandre III)

Pont d’Alexandre III

Version vietnamienne

C’est le pont le plus joli enjambant la Seine romantique entre les quartiers 7 et 8 de Paris. Ce pont a été construit en même temps que les ouvrages architecturaux « Petit Palais » et « Grand Palais » à l’occasion de l’exposition universelle de Paris en 1900. C’est aussi le cadeau offert par le tsar Alexandre III à la France pour sceller l’amitié entre les deux peuples russe et français. Le tsar a demandé aux deux architectes Cassien-Bernard et Gaston cousin ainsi que deux ingénieurs Jean Résal et Amédée d’Alby d’assumer la réalisation. Aujourd’hui, ce pont est reconnu par UNESCO comme le patrimoine mondial et visité par la plupart des touristes étrangers.

Cầu Alexandre Đệ Tam 

Đây là một cái cầu đẹp nhất bắc qua sông Seine trữ tình giữa hai quận 7 và 8 của Paris. Cầu nầy được xây cất cùng hai công trình Petit Palais và Grand Palais nhân dịp có cuộc triển lãm thế giới năm 1900 ở Paris. Nó cũng là món quà tặng của sa hoàng Alexandre III để siết chặt tình hữu nghị Nga và Pháp và được giao cho hai kiến trúc sư Cassien-BernardGaston Cousin cùng hai hai kỹ sư Jean Résal và Amédée d’Alby đảm nhiệm. Nay được UNESCO công nhận là di sản thế giới.

 

Malaisie (Malacca)


Version française

Ai có đến tham quan liên bang Mã Lai thì cũng không nên bỏ qua Malacca cả vì thành phố cổ nổi tiếng nầy nằm cách xa thủ đô Kuala Lumpur khoảng hai tiếng (150 cây số) nếu lấy xe buýt. Malacca có một thời là một thương cảng sầm uất tại khu vực Đông Nam Á nhất là nó có vị trí quan trọng nằm ở eo biển Malacca. Người Mã Lai gọi nó là Melaka. Vào thế kỷ 16, thành phố nầy  bị người Bồ Đào Nha xâm chiếm kế tiếp sang thế kỷ 17, người Hà Lan giành lại rồi nhường lại cho người Anh ở thế kỷ 18. Bởi thế ngoài sự đa dạng về dân tộc,  thành phố nầy còn  lưu giữ  hiện nay ở phiá tây  nhiều dấu tích  của các nước châu Âu ở thời kỳ thuộc địa  và ở phía đông  một khu phố tàu Jonker. Tuy diên tích khu phố đi bộ nầy nó có giới hạn nhưng lúc nào cũng đông người đi bộ nhất là thứ bảy chủ nhật. Lang thang ở con đường nầy để  lại cho tớ một ấn tượng khó quên nhất là nó có những nét đẹp độc đáo của phố cổ Hội An. Còn ở trung tâm thành phố thì có một biểu tượng  của người Hà Lan, đó là nhà thờ Christ  được sơn màu đỏ hiện nay cùng các công trình khác gần đó. Còn hai bên bờ  sông êm đềm hiền hoà  Malacca, thì có lô nhô các quán cà  phê trữ tình khiến tớ cảm thấy thích thú, không tiếc những khoãng khắc dừng chân nơi nầy để khám phá thành phố Malacca, một di sản văn hóa mà được UNESCO công nhận vào năm 2008.

Version française

Quiconque a l’occasion de visiter la Malaisie ne peut pas laisser tomber Malacca car cette vieille ville célèbre, localisée seulement à 150 km de la capitale Kuala Lumpur nécessite  à peu près deux heures de route avec le bus. À une certaine époque, elle était un port de commerce très animé dans l’Asie du Sud-Est. Elle était située stratégiquement dans le détroit de Malacca. Pour les Malais, cette ville s’appelait Melaka. Au 16ème siècle, elle fut occupée par les Portugais qui furent chassés à leur tour un siècle plus tard  par les Hollandais.  Ces derniers la cédèrent enfin au 18ème siècle aux Anglais.  C’est pourquoi,  à part la diversité de sa population, Malacca continue à garder encore en direction d’Ouest  les vestiges des pays européens durant la période coloniale et en direction d’Est un quartier chinois connu sous le nom de Jonker. Malgré la superficie de sa zone piétonne  très restreinte,  Malacca continue à être bondée de gens  le soir,  en particulier le week-end. « Se balader à pied » me laisse quand même une impression inoubliable lorsque cette ville charmante me rappelle quelques traits caractéristiques de Hội An (Faifo). Quant au centre de Malacca, il y a toujours un symbole visible venant de la Hollande. C’est l’église Christ peinte aujourd’hui  en rouge avec les autres bâtiments alentours. Beaucoup de kiosques à café longent les rives du fleuve paisible Malacca. Cela me donne  une ambiance pittoresque et  une  énorme satisfaction. Aucun regret ne vient non plus de ma part pour  consacrer un laps de temps dans la découverte de  cette ville que l’organisation internationale UNESCO a reconnue comme le patrimoine mondial culturel en 2008.

Singapour (Tân Gia Ba)

Tân Gia Ba

Version française

Nói đến Singapore  thì không thể nào không nhắc đến ông Lý Quang Diệu (Lee Kuan Yew). Chính nhờ ông mà Singapore, một đất nước chỉ vỏn vẹn 640 km2 cùng 5 triệu dân trở thành ngày nay một cường quốc kinh tế ở châu Á. Trước đó ở thời kỳ Singapour chưa có độc lập còn nằm  trong liên bang Mã Lai  thì chỉ là một trạm trung chuyển hàng hóa và mậu dịch do người Anh, Sir Thomas Stamford Rafles lập ra có 200 năm qua công ty Đông Ấn (East India) sau khi ông nầy thuyết phục được vua Johor nhường lại mãnh đất nầy cho Anh quốc (1819). Vì bất đồng quan điểm chính trị với chính phủ liên bang, Singapore bị trục xuất ra khỏi liên bang vào năm 1965. Trong những năm đầu độc lập, Singapore phải đối mặt với nhiều vấn đề như nạn thất nghiệp, hoà giải dân tộc vì Singapore là một quốc gia có sắc tộc đa dạng (nguời Hoa, người Ấn, người Mã Lai, người Âu Á), tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn, một nền kinh tế nhược tiểu dựa lúc đầu trên các ngành sản xuất đã có ở trên đảo và đến từ các nguồn nhu cầu của các đồn quân trú người Anh  vân vân …Thế mà nhờ tâm huyết của ông, cái nhìn sâu sắc của một nhà lãnh đạo yêu nước về vị trí quan trọng chiến lược của Singapore,  lòng tin cậy của người dân, Lý Quang Diệu đã thành công giải quyết từng vấn đề bức thiết và lúc nào cũng xem thương mại và dịch vụ là hai yếu tố chính trong sự nghiệp phát triển của Singapore. Hiện nay, Singapore được xem là một cảng lớn nhất trên thế giới vì nó thu hút hàng chục công ty giao dịch hàng hóa toàn cầu và kết nối qua các tuyến đường biển với thị trường Trung Quốc. Singapour trở thành trong những năm gần đây một quốc gia xanh, một đất nước có một môi trường sống sạch sẽ. Chổ nào có một tí đất trống là có vườn, có cây. Đến đây,  du khách  sẻ thoả mái đường xá sạch sẽ không bị ô nhiễm   nhưng phải cẩn thận  cần phải biết nhiều những điều cấm kỵ : xả rác, khạc nhổ trên đường và nơi công cộng, ăn uống trên tàu điện ngầm, nhay kẹo cao su, đi tiểu mà không giật nước bồn cầu   vân vân bị phạt dưới hình thức tài chánh đôi khi còn bị trục xuất nếu còn tiếp diễn, ăn buffet lấy nhiều mà ăn bỏ mứa không hết phải trả tiền nhé. Có dịp đến Singapore, tớ chỉ nhớ đến một đất nước có kỷ luật rất nghiêm khắc, một quốc gia ít tham nhũng như ở các nước Bắc Âu (Pays Nordiques) theo khảo sát của TI (Transparency International) vì có chính sách giám sát chặt chẽ để đãm bảo tính minh bạch trong hệ thống quan chức nhà nước chớ các điểm vui chơi ở  đảo Sentosa thì tớ cũng thấy có ở các quốc gia khác như Mỹ và Âu Châu mà thôi.  Có đến thì cũng có học hỏi ít nhiều về đất nước nhỏ bé nầy.

singapore
« of 2 »

Version française

Quand on évoque Singapore, on ne peut pas ignorer Lee Kuan Yew. C’est grâce à lui que le pays dont la superficie n’est que de 640 km2 avec une population de 5 millions d’habitants devient aujourd’hui une puissance économique en Asie. À l’époque où Singapore n’avait pas encore l’indépendance et faisait partie de la fédération de Malaisie, Singapore n’était qu’un hub de transport maritime et commercial que Sir Thomas Stamford Rafles, un Anglais de renom a crée il y a 200 ans par l’intermédiaire de la compagnie britannique des Indes orientales (East India) après avoir réussi de convaincre le sultan de Johor de lui céder ce petit bout de territoire en 1819. À cause du différend politique avec la fédération malaise, Singapore fut exclu de cette dernière en 1965. Durant les premières années de son existence en tant qu’un état indépendant, Singapore dut affronter un tas de problèmes comme le chômage d’une population non qualifiée, la nécessité d’une réconciliation nationale  dûe à la présence d’une population multi-ethnique (Chinois, Indiens, Malais, Européens etc …), le manque de ressources naturelles, la faiblesse d’une économie basée essentiellement sur la production industrielle locale liée en grande partie aux besoins des garnisons britanniques et malaises etc…Pourtant  grâce à la constance de son implication et de son dévouement, la vision d’un dirigeant patriote sur la position stratégique de Singapore et la confiance de son peuple, Lee Kuan Yew réussît à résoudre progressivement tous les problèmes recensés et à considérer toujours le commerce et les services comme  les deux éléments majeurs dans le développement de la prospérité de l’île. Aujourd’hui, Singapore est considéré comme l’un des plus grands ports de commerce mondiaux car il héberge des dizaines de sociétés de commerce mondiales et il établit des liens avec toutes les routes maritimes pour accéder au marché chinois. Singapore se distingue depuis quelques années comme  la  cité verte la plus durable de l’Asie et revendique son attachement à un cadre de vie  dans un environnement à la fois propre et écologique.  La verdure est omniprésente partout à Singapore. En venant ici, le touriste se sent plus satisfait  car les rues sont propres et la pollution est moindre qu’ailleurs. Mais il doit connaître une série d’interdits : jeter quoi que ce soit par terre, cracher par terre, manger dans le tramway, mâcher ou porter sur soi le chewing gum, quitter la toilette sans tirer la chasse d’eau  etc… Il sera verbalisé toute de suite avec une forte amende. En cas de récidive, il pourra  être expulsé et interdit de séjourner à Singapore. Pour un buffet à volonté, il faut manger tout ce qui est pris dans l’assiette  sinon il faut payer ce qu’on n’arrive pas à finir. Ayant eu l’occasion de venir à Singapore, je rappelle que c’est un pays où la sévérité de la loi est implacable. Selon TI (Transparency International),  la corruption y est moindre comme les pays nordiques dans la mesure où il y a une politique de contrôle très sévère, claire et transparente sur les dirigeants du pays. Par contre, les jeux et les divertissements à  l’île Sentosa n’ont rien de spécial, on peut les trouver ailleurs (USA  et Europe). Malgré cela, il me paraît utile quand même car mon séjour m’a permis de mieux connaître la Suisse de l’Asie.

Old Las Vegas (Trung tâm củ Las Vegas)

Version française

De passage à Las Vegas, les touristes ont l’habitude de visiter «Strip» ou bien le boulevard de Las Vegas, une longue avenue de 5 kilomètres connue dans le monde entier pour ses gratte-ciel comme Wynn, Bellagio, Venitian etc…Peu de gens connaissent le centre historique de Las Vegas qui est loin de quelques kilomètres de Strip et qui n’est pas tellement accessible pour ceux qui n’ont pas les moyens de transport, en particulier la voiture. C’est à cet endroit que le touriste a l’occasion de connaître le début de construction de Las Vegas. Ici la plupart des visiteurs rencontrés sont des Américains de taille impressionnante y comprises les femmes (plus de 100 kilos). Ici, il n’y a pas des méga casinos hôtels comme à Strip. Le jour où j’étais à Las Vegas avec mon ami, j’étais tellement séduit par l’exhibition des anciennes voitures américaines que je n’accordais aucune importance à l’histoire de Las Vegas. C’est pour cela que je n’ai pas pris beaucoup de photos sur ce centre historique. Mais c’est intéressant quand même pour ceux qui veulent connaître entièrement l’enfer resplendissant de Las Vegas. Un lieu à ne pas manquer si on a l’occasion de visiter Las Vegas.
 
old las vegas
Old Las Vegas
 
Đến Las Vegas, các du khách thường chỉ biết tham quan Strip tức là đại lộ Las Vegas, một con đường giao thông dài có gần 5 cây số mà được thế giới biết đến vì dọc theo đường có những khách sạn chọc trời như Wynn, Bellagio, Venitian vân vân. … Ít ai biết đến Old Las Vegas vì nó ở cách xa đó mấy cây số, đường đi cũng khó khăn nếu không có phương tiện đi xe. Chính ở nơi nầy du khách sẻ tìm thấy lại trung tâm củ lịch sử của Las Vegas. Chính nhờ bạn mình mà mình mới biết nơi nầy. Nó không có hoành tráng và lộng lẫy như Strip nhưng nó còn giữ nét thô sơ mộc mạc của buổi ban đầu thành lập Las Vegas. Nơi đây rất ít ngoại quốc mà rất đông người Mỹ, vóc dáng nhìn cũng khủng khiếp ít nhất cũng hơn 100 kí từ đàn ông đến đàn bà. Nơi nầy cũng có các sòng bài nhưng không có sang trọng bằng ở Strip. Hôm tớ đến mãi mê cuộc triển lảm xe cổ Mỹ nên chỉ lo chụp các xe xưa nên ít có chú trọng nhiều về nơi nầy nhưng cũng là một nơi nên biết lắm nếu ai muốn biết trọn vẹn về địa ngục rực rỡ của Las Vegas.
 

Tự Đức (Empereur Tự Đức)


tuduc

Hồng Nhậm

(1847-1883)

Tôn kính một hoàng đế thi sĩ qua 4 câu thơ lục bát:

Ngậm ngùi thương xót phận mình
Làm vua chẳng có quang vinh chút gì
Thực dân chiếm đất ở lì
Trẩm đây buồn tủi, sử thì kết oan

Version française
Version anglaise

Là ông vua thứ tư  của triều Nguyễn, ông có tên là Hồng Nhậm khi ông còn là một hoàng tử. Ông là con thứ hai của vua Thiệu Trị và được vua Thiệu Trị đổi ý chọn làm người nối ngôi vua trong di chúc thay vì thái tử Hồng Bảo bị vua xem như người chỉ biết ham vui chơi bời. Hồng Bảo phẫn uất thổ huyết nằm giữa cung điện khi lúc làm lễ  đăng quang cho Hồng Nhậm (Tự Đức). Sau đó Hồng Bảo bị mang tội thông đồng với các cha cố đạo Tây Phương âm mưu đảo chánh Tự Đức và bị giết trong tù khiến vua Tự Đức cũng bị chỉ trích ít nhiều về sau qua các bài thơ của các quan triều đình. Vua thiếu lòng cao thượng mà Tào Phi con trưởng của Tào Tháo dành cho em Tào Thực, một nhà thi sĩ lỗi lạc ở thời Tam Quốc trong lúc tranh giành quyền lực. Đây là trường hợp của danh sĩ Nguyễn Hàm Ninh. Một ngày, khi  lúc dùng cơm vua bi lưỡi cọ với  răng nên đau,  liền có ý tưởng chọn cho chủ đề thơ là «chấn thương bởi răng » và ra lệnh cho quân thần làm thơ với chủ đề tài nầy.   Lợi dụng thời cơ nầy, Nguyễn Hàm Ninh mới ngỏ lời cùng vua qua bốn câu thơ như sau:

Ta ra đời trước chú chưa sinh
Chú phận làm em, ta phận anh
Ngọt bùi sao chẳng cùng san sẽ
Mà nỡ đau thương cốt nhục tình?

Nguyễn Hàm Ninh  được vua khen thưởng nhờ có tài năng phi thường với một số lượng vàng không ít  nhưng đồng thời ông cũng nhận được cho mỗi câu thơ sáng tác của ông một roi vì mỗi câu đều có ý nghĩa và sâu sắc. Tự Đức là một đai thi sĩ của thời ông. Đó là lý do tại sao ông có một sỡ thích không thể chối cải được là ông rất trọng các nhà thơ vĩ đại trong thời đại của ông. Họ được đánh giá rất cao với giá trị thực sự của họ ngay cả quyền lực luôn cả lòng tự trọng của Tự Đức đôi khi có thể bị coi thường bởi những lời chỉ trích mạnh mẽ và gay gắt từ những người có tính cách độc lập như Cao Bá Quát. Ông nầy không ngừng chế nhạo vua  nhiều lần trước mặt bá quan nhưng vua không ngần ngại khen ngơi khi Cao Bá Quát đã thành công trong việc thể hiện lại được cách nói đối ngẫu của vua bằng cách dựa trên lời nói đưa ra của vua qua  một trò chơi chữ khéo léo. Lợi dụng sự hiện diện của Cao Bá Quát, vua Tự Đức mới ra câu đối như sau: 

Nhất bào song sinh, nan vi huynh, nan vi đệ
Một bọc sinh đôi, khó làm anh, khó làm em.

Vì vua muốn nhắc lại là Cao Bá Quát có một người anh sinh đôi là Cao Bá Đạt, hai anh em giống nhau, khó mà phân biệt được ai là anh ai là em. Cao Bá Quát trả lại ngay câu đối như sau:

Thiên tài thất ngộ, hữu thi quân, hữu thi thần
Nghìn năm gặp một, có vua ấy có tôi ấy

để nhắc lại với Tự Đức  có một vua đa tài thì cũng có một tôi tớ rất giỏi giang. Tự Đức không vui chi cho mấy vì ông biết Cao Bá Quát muốn trêu ông qua câu ca dao ‘Vỏ quýt dày, móng tay nhọn’ đấy. Một lần khi đi qua cửa của điện Cần Chánh, Cao Bá Quát không  hài lòng khi thấy treo hai câu đối ngẫu của vua Tự Đức:

Tử năng thừa phụ nghiệp
Thần khả báo quân ân.

Vua Tự Đức thấy vậy mới hỏi vì lý do gì mà Cao Bá Quát không vui. Chữ ‘Tử’ không thể đứng trước chữ ‘phụ’.  Luôn cả chữ ‘Thần’ không thể đứng trước được chữ ‘quân’ vì thể thức viết nó không phù hợp với tôn ti thứ tự. Tự Đức bảo Cao Bá Quát sửa lại sự sai lầm nầy. Cao Bá Quát mới đáp lại với hai câu đối như sau:

Quân Ân, thần khả báo
Phu nghiệp, tử năng thừa.

Dù có một tâm hồn lãng mạn và có khí chất ốm yếu, Tự Đức là một hoàng đế ít biết đến sự thư thản và bình tâm suốt thời kỳ ông ngự trị. Ông không những phải đối đầu với sự bành trướng của   chủ nghĩa tư bản của phương tây mà còn dẹp các cuộc biến loạn trong nước như việc loại trừ Hồng Bảo và vây cánh, giặc Châu Chấu do Cao Bá Quát cầm đầu vân vân….Chuyện mất 6 tỉnh ở Nam Bộ lúc nào cũng ám ảnh ông và làm ông buồn rầu triền miên vì ông là vị hoàng đế đầu tiên của triều đại Nguyễn có phần trọng trách để mất đi một phần đất của Vietnam cho ngoại bang nhất là mãnh đất  của quê mẹ của ông. Chuyện ông không có con vì ông bị bệnh đầu mùa  từ thưở nhỏ và nhất là sự tự sát của sĩ phu Phan Thanh Giản, tổng trấn của các tỉnh miền tây Nam Bộ khiến làm ông lúc nào cũng có  tâm tư buồn bã và khiến ông thường tìm nơi ẩn dật qua các nhà thủy tạ màu đỏ Du Khiêm Xung Khiêm mà nay trở thành những nơi du khách ngoại quốc và Việtnam rất thích khi có dịp đến tham quan các lăng mộ ở Huế. Chính ở nơi nầy vua Tự Đức có làm ra rất nhiều bài thơ nhưng nổi tiếng vẫn là bài thơ “Khóc Bằng Phi” với hai câu thơ để đời khi nhắc đến:

Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi

Ông là một đứa con hiếu thảo thường có mẹ bao bọc đó là bà thái hậu Từ Dũ. Ông thường xem xét và chú ý đến những gì mẹ của ông đề nghị. Một hôm, qua vở kich Trung Hoa “Đường Chinh Tây”, bà Từ Dũ bị sốc khi thấy nữ anh hung Phàn Lê Huê giết cha. Để làm vui lòng mẹ, ông buộc lòng truyền lệnh cho quan trọng trách lo các trò giải trí sửa đổi trọn vẹn nội dung lại để tránh màn thảm kịch nầy đi ngược lại với tinh thần Khổng giáo. Chuyện khai phục chức Hàn Lâm Viện điển tịch cho sĩ phu Phạm Phú Thứ cũng có liên quan đến sự qưở trách mà Từ Đức nhận được từ bà thái hậu Từ Dũ. Chính Phạm Phú Thứ dân sớ lên cho Tự Đức chỉ trích và hặc cái tính lười biếng của vua Tự Đức  nhất là vua thường bãi bỏ các buổi thiết triều quan trọng và không  giải quyết các đơn thỉnh cầu từ khi ông lên làm vua. Mặc dầu bị mang tội phạm thượng khi quân, Phạm Phú Thứ không bị sa thải mà trở thành một đại thần nổi tiếng dưới thời Tự Đức. Vì bị ảnh hưởng quá lớn của  nhóm quan lại nho giáo, Tự Đức không thể cải cách kịp thời và bất chấp những lời cảnh báo và ghi nhớ thảm hại của học giả yêu nước Nguyễn Trường Tộ. Ông không tận dụng những cơ hội thuận lợi để đưa Viêtnam trên con đường hiện đại mà còn chìm lún sâu hơn một chút trong sự cô lập, buồn bã và cô đơn từ khi chính quyền thực dân Pháp thôn tính 6 tỉnh  Nam Bộ. Để giải khuây nổi buồn triền miên của Tự Đức, bà Từ Dũ hứa thưởng ai có công làm vua Tự Đức cười.  Ông thường có thói quen đi xem kịch.  Một hôm, lợi dụng sự hiện diện của Tự Đức, một kép hát tên Vung sấn đến trước mặt vua Tự Đức lúc ông đang hút thuốc lá và nói rằng:

Ông có thể cho tớ mồi một hơi không?

Cử chỉ của Vung làm kinh ngạc mọi người vì ai cũng biết đây là một việc phạm thượng nhưng lúc đó vua Tự Đức phì cười và nói rằng: Mi quá gan thế.  Nhờ thế Vung khỏi bị tội khi quân và được bà Từ Dũ trọng thưởng. Thật đáng   tiếc khi gán cho  vua Tự Đức  một ông vua chuyên chế có trách nhiệm để chính quyền thực dân cướp đất. Số phận của đất nước cũng như của dân tộc Vietnam đã  bị quyết định từ lâu từ khi ông nội của ông, hoàng đế Minh Mạng và cha ông hoàng đế Thiệu Trị đã chọn lựa chính sách đàn áp người công giáo và người truyền giáo nước ngoài. Nhờ vậy chính quyền Pháp mới biện minh được sự can thiệp và thôn tính của họ. Chính sách thực dân Pháp đã tiến hành từ lâu.

Qua những giai thoại nầy, chúng ta biết rằng Tự Đức là một hoàng đế khoan dung và hiếu nghĩa, một người có trái tim và một nhà thơ vĩ đại của thời ông. Số phận của đất nước buộc Tự Đức,  bất chấp chính mình, trở  thành một hoàng đế và giết chết anh trai của mình vì cộng tác với ngọai bang. Chúng ta có thể làm tốt hơn Tự Đức không? Đây là câu hỏi mà  chúng ta  tự nêu ra nếu chúng ta đặt mình vào vị trí của vua Tự Đức.  Qua bao nhiêu năm chúng ta  cũng không tìm thấy được  câu trả lời nhưng chúng ta biết có một điều là vua Tự Đức không thể  thờ ơ với những biến cố đang ập lên một cách tàn nhẫn trên đầu ông và dân tộc của ông. Ông cũng không đứng dậy nổi được trước nỗi đau buồn thống khổ nầy  khi nhìn thấy  sự sụp đổ của đất nước mà ông  là người bị buộc tội vì có nhiều trọng trách trong lịch sử Vietnam.

Pictures gallery

 

[Return DYNASTIE]

 

Pulluciampelle (Cù Lao Chàm)

Poulo Cham

Version vietnamienne
English version
Galerie des photos

Située à 18km de l’estuaire du fleuve Thu Bỗn de la vieille ville Hội An, l’île Poulo Cham ou Pulluciampelle (Cù Lao Chàm) par UNESCO comme une réserve de biosphère du monde en 2009. Elle est en fait constituée de huit îlots : Hòn Lao, Hòn Dài, Hòn Mồ, Hòn Khô Mẹ, Hòn Khô con, Hòn Lá, Hòn Tai, Hòn Ông avec une superficie totale de 15 km2. Sa population répartie sur ces îlots est estimée à peu près de 3000 habitants. Autrefois, Poulo Cham était le point de relais destiné aux navigateurs pour pouvoir être approvisionnés en nourriture et en eau dans leur long voyage sur la mer de l’Est et appartenait au royaume du Champa. C’est pourquoi on trouve ici beaucoup d’anciens puits et elle est connue sous le nom de l’île du Champa. De passage dans cette île, le touriste a l’occasion de découvrir un environnement riche et varié non seulement en quantité mais aussi en genre de poissons trouvés dans la zone côtière tropicale de la mer de l’Est à travers un bâtiment d’exposition.

On y trouve aussi une coutume que le chercheur Charles J.C. MacDonald (CNRS Marseille) a considérée comme une caractéristique typique trouvée chez les Vietnamiens vivant le long de la côte du Centre et du Sud Vietnam car les gens du Nord ne l’ont pas eue. C’est le culte de la baleine. Selon certains érudits vietnamiens tels que Thái Văn Kiểm, Trần văn Phước ou Trần Hàm Tấn, ce culte appartenait aux Chams. Lors de l’occupation de leur territoire par les Vietnamiens, ceux-ci n’hésitaient pas à l’adopter comme la déesse Po Nagar à Nha Trang. Mais cette hypothèse n’est pas très convaincante dans la mesure où aucun document n’apporte jusqu’aujourd’hui la certitude sur cette appartenance chame. Selon le père Léopold Cadière, cette coutume n’est pas une exception car les Vietnamiens étaient animistes et polythéistes. C’est dans cette île qu’on découvre un temple dédié au culte de la baleine. Ce mammifère marin est vénéré comme un génie. Selon l’érudit Thái văn Kiểm, sous le règne de l’empereur Gia Long, la baleine reçut un brevet de génie et le titre d’amiral des mers du Sud car l’empereur Gia Long dut sa vie à ce mammifère marin lors d’une noyade. Rien ne contredit pas ce que le chercheur anglais Ruddle Kenneth a remarqué dans son livre: le culte de la baleine renforce la cohésion de la communauté des pêcheurs vietnamiens vivant le long de la côte du centre et du Sud Vietnam. En passant une journée dans cette île, je m’aperçois que les ressources naturelles sont énormes sans parler de la réserve du pétrole. Le Vietnam est désigné souvent par l’expression suivante: Rừng vàng biển bạc pour dire que le Vietnam est gâté par la nature ( » La forêt « dorée » et « la mer « argentée« ). Comment les pêcheurs vietnamiens sont-ils si pauvres et si malheureux ? C’est une question que chacun de nous en tant que Vietnamien se demande la cause de cette tragédie et reconnait qui est le coupable afin d’éviter d’être blâmé par notre conscience et par nos ancêtres.

Version vietnamienne

Cù lao Chàm nằm cách bờ biển Cửa Đại  của  Hội An 18 cây số. Cù Lao Chàm được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới vào năm 2009.  Nó gồm 8 đảo: Hòn Lao, Hòn Dài, Hòn Mồ, Hòn Khô Mẹ, Hòn Khô con, Hòn Lá, Hòn Tai, Hòn Ông với tổng diện tích là 15km2. Dân số trên các hòn đảo này gồm khoảng 3.000 người. Thưở xưa, Cù Lao Chàm là nơi dừng chân của các thuyền nhân để tiếp vận lương thực và nước ngọt  trong cuộc hành trình trên biển Đông và thuộc về vương quốc Chămpa. Vì vậy mới  thấy nơi nầy còn rất nhiều giếng cổ và có tên là cù lao Chàm. Đến đây, du khách sẻ nhận thấy  một  môi trường phong phú và đa dạng của vùng biển nhiệt đới về số lượng cũng như số loại cá trên biển Đông qua một nhà trưng bày hải sản.

Cũng ở nơi nầy, du khách sẻ khám phá một tập quán mà theo nhà nghiên cứu Charles J.C. MacDonald (CNRS Marseille) là một đặc tính của người Việt ở vùng biến  chớ ở miền Bắc thì không có đó là tục lệ thờ cá ông (hay cá voi) nhưng cho đến giờ các nhà học giả Việt như Thái Văn Kiểm, Trần văn Phước hay Trần Hàm Tấn thì nghĩ rằng đây là một tập quán cũa người Chàm mà người Việt tiếp nhận  cũng như ở Nha Trang với thánh mẫu Po Nagar nhưng cho đến giờ không có sách vỡ nào chứng minh là thuộc về dân tộc Chàm. Theo cố cả Léopold Cadière thì đúng hơn là người dân Việt  theo thuyết duy linh và đa thần nên chuyện thờ cá ông cũng không ngoại lệ. Ở cù lao chàm có một đền thờ cá ông hẳn hòi.   Người dân Việt kính nể cá ông như  cha mẹ  và thần thánh. Theo lời nhà học giả Thái văn Kiểm, dưới thời vua Gia Long, cá ông được chứng chỉ sắc phong làm thống chế của các biển phía nam vì cá ông đã giúp vua Gia Long thoát chết đuối. Cũng có phần đúng với sự nhận xét của học giả Anh Quốc Ruddle Kenneth như sau: chuyện thờ cúng cá ông cũng là một thể thức nhẳm cố liên kết chặt chẻ các ngư dân Việt sống ở vủng biển. Đến đây mới thấy tài nguyên cũa đất nước rất lớn ở biển Đông với bao nhiêu loại tìm thấy trong hải sản chưa nói đến dầu lửa. Rừng vàng biển bạc dùng để ám chỉ đất nước Việt Nam của chúng ta. Thế mà ngư dân Việt vẫn khốn đốn nghèo khổ.? Câu hỏi  nầy mỗi nguời Việt chúng ta  tự hỏi lòng mình từ đâu,  tự nhân diện nó là ai  để khỏi hổ thẹn với lương tâm và ông cha của chúng ta.

Tàl liệu tham khảo

Charles J. H. MacDonald:  Le culte de la baleine, une exception vietnamienne 
Trần văn Phước: Chronique: Funérailles d’une baleine . Bulletin de la Société des Etudes indochinoises, tome XLIX, no2, 1974, p 273-282
Thái Văn Kiểm: Le culte de la baleine . Bulletin de la Société des Etudes indochinoises, tome XLIX, no2, p 311-326
Ruddle Kenneth : Traditional community based coastal marine fisheries  management in Vietnam . Ocean and Coastal management,  Elsevier Science Ltd, 40, p 1-22
Cadière Léopold:  Croyances et pratiques religieuses. Tomes I et II. Saigon,  Imprimerie nouvelle d’Extrême Orient 1955-1958

Picture Gallery

Located 18 km from the estuary of the Thu Bồn River in the old town of Hội An, Poulo Cham Island or Pulluciampelle (Cù Lao Chàm) was recognized by UNESCO as a world biosphere reserve in 2009. It actually consists of eight islets: Hòn Lao, Hòn Dài, Hòn Mồ, Hòn Khô Mẹ, Hòn Khô Con, Hòn Lá, Hòn Tai, and Hòn Ông, with a total area of 15 km². Its population spread across these islets is estimated to be about 3,000 inhabitants. In the past, Poulo Cham was a relay point for navigators to be supplied with food and water during their long journey on the East Sea and belonged to the Champa kingdom. This is why many ancient wells are found here, and it is known as the Island of Champa. Visitors passing through this island have the opportunity to discover a rich and varied environment, not only in the quantity but also in the variety of fish found in the tropical coastal zone of the East Sea through an exhibition building.

There is also a custom that the researcher Charles J.C. MacDonald (CNRS Marseille) considered a typical characteristic found among the Vietnamese living along the coast of Central and Southern Vietnam, as the people of the North did not have it. It is the whale cult. According to certain Vietnamese scholars such as Thái Văn Kiểm, Trần Văn Phước, or Trần Hàm Tấn, this cult belonged to the Chams. During the occupation of their territory by the Vietnamese, they did not hesitate to adopt it, like the goddess Po Nagar in Nha Trang. But this hypothesis is not very convincing since no document to date provides certainty about this Cham affiliation. According to Father Léopold Cadière, this custom is not an exception because the Vietnamese were animists and polytheists. It is on this island that one discovers a temple dedicated to the whale cult. This marine mammal is revered as a spirit. According to the scholar Thái Văn Kiểm, under the reign of Emperor Gia Long, the whale received a spirit patent and the title of admiral of the Southern seas because Emperor Gia Long owed his life to this marine mammal during a drowning incident. Nothing contradicts what the English researcher Ruddle Kenneth noted in his book: the whale cult strengthens the cohesion of the community of Vietnamese fishermen living along the coast of Central and Southern Vietnam.

Spending a day on this island, I realize that the natural resources are enormous, not to mention the oil reserves. Vietnam is often referred to by the following expression: Rừng vàng biển bạc, meaning that Vietnam is blessed by nature (« the golden forest » and « the silver sea »). How are Vietnamese fishermen so poor and so unhappy? This is a question that each of us, as Vietnamese, asks ourselves to understand the cause of this tragedy and to recognize who is to blame in order to avoid being condemned by our conscience and by our ancestors.

[Return to CHAMPA]

Rừng tràm Trà Sư (Tịnh Biên, Châu Đốc)

 

Rừng tràm Trà Sư

Version française 
Version anglaise
Galerie des photos

Là một hệ sinh thái đầm lầy nước ngọt có rễ cây tràm trú ẩn các động vật có vỏ, cá và động vật giáp xác, rừng tràm Trà Sư  là khu rừng ngập nước ngọt  tiêu biểu cho vùng Tây sông Hậu và cũng là nơi sinh sống của 140 loài động vật (dơi ăn quả, dơi, diệc, cò, chim cốc vân vân) và  thực vật thuộc hệ thống rừng đặc dụng Việt Nam. Nằm cách thành phố Châu Đốc khoảng 30 cây số về phía tây nam và thành phố Long Xuyên 64 cây số. Rừng tràm Trà Sư là nơi mà người du khách có cơ hội hoà mình vào thiên nhiên len lỏi theo xuồng ba lá hay  tắc ráng giữa mênh mông rừng tràm qua các con đường bèo quanh co, rất thú vị nhất là với mùa nước nổi từ tháng 9 đến tháng 11 hàng năm.

Étant un écosystème de marais d’eau douce  dont le cajeputier abrite dans ses racines échasses coquillages, poissons et crustacés, la mangrove Trà Sư est une forêt inondée typique du  delta du Mékong dans la région ouest du Bassac. C’est aussi ici la réserve forestière du Vietnam  où on trouve  140 animaux (roussettes, chauves-souris, hérons, aigrettes, cormorans etc.)  et plantes. Elle est située à 30 kilomètres au sud ouest  de  la ville de Châu Đốc  et distante de 64 km de la ville de Long Xuyên. La forêt inondée Trà Sư est le lieu où le touriste a l’occasion de de se jeter à corps perdus dans la nature et  pouvoir s’introduire    dans les  recoins de l’immense sylve remplis  de lentilles d’eau et  parsemés parfois par des fleurs de lotus   grâce à la barque avec pagaie ou équipée d’un petit moteur. C’est très agréable de passer une journée en période de hautes crues  de l’année (de septembre à novembre). 

Being a freshwater swamp ecosystem whose cajeput trees shelter shellfish, fish, and crustaceans in their stilt roots, the Trà Sư mangrove is a typical flooded forest of the Mekong Delta in the western Bassac region. It is also the forest reserve of Vietnam where 140 animals (flying foxes, bats, herons, egrets, cormorants, etc.) and plants can be found. It is located 30 kilometers southwest of the city of Châu Đốc and 64 km from the city of Long Xuyên. The flooded forest of Trà Sư is a place where tourists have the opportunity to immerse themselves completely in nature and explore the corners of the vast forest filled with duckweed and occasionally dotted with lotus flowers, thanks to a paddle boat or one equipped with a small motor. It is very pleasant to spend a day there during the high flood season of the year (from September to November).

La forêt des cajeputiers

Tra_su