Âm Dương trong đời sống của người dân Việt (Yin et Yang dans la vie des Vietnamiens): Phần 2


Version francaise

Version anglaise

Trong lý thuyết Âm Dương,  có nhắc đến vuông tròn là muốn nói đến sự hoàn thiện và kết hợp mỹ mãn.  Từ một hình vuông ta có thể biến hình có tám cạnh rồi tiếp tục đến 16 cạnh, cứ nhơn 2 cho đến cuối cùng tạo thành một hình tròn, một hình không còn cạnh nửa. Đây là một hình hoàn hảo  (perfectissima forma). Bởi vậy người ta thường nói « Mẹ tròn, con vuông » để chúc mừng mẹ con được dồi dào sức khoẻ lúc sinh đẻ.   Cái thành ngữ nầy được truyền lại bởi  các tiền nhân để chúng ta  lưu ý đến tính cách  sáng tạo của vũ trụ. Các hình tròn và vuông là hai hình dáng  đựợc thấy  không những qua bánh chưng bánh Tết hay là bánh Su Sê mà còn ở trên các đồng tiền đồng của Việtnam.

Sapèque
Hình dáng của các đồng tiền xưa nầy rất liên quan đến thiên văn học của người Việt cổ: sự tròn trĩnh của các đồng tiền gợi  lại Trời  tròn như cái bát úp cùng Đất qua lỗ vuông  ở giữa. Thông thường thì có một tỷ lệ phải tôn trọng ờ các đồng tiền xưa nầy: 70 phần trăm cho hình tròn và 30 phân trăm cho hình vuông. Hai dáng hình vuông tròn nầy cũng được thấy qua cây gậy tre mà trưởng nam dùng đi theo sau quan tài  trong lúc đưa  đám tang của cha. Còn nếu người qua đời là mẹ thì người con phải đi trong tư thế lùi trước  nhìn quan tài. Đây là nghi thức  « Cha đưa mẹ đón » cần phải tôn trọng trong phong tục đám tang của người dân Việt. Gậy tre  biểu tượng tính ngay thẵng và khả năng chịu đựng của cha.  Nếu là mẹ thì phải thế với cây vong để nói lên sự gian dị, dịu dàng và khéo léo.  Cây gậy phải có đầu tròn và chân hình vuông để biểu tượng Trời Đất còn thân gậy thì dành cho con cái với hàm ý là cần sự che chở của Trời Đất, giáo dục của cha mẹ và tương trợ của anh em trong xã hội. Để bày tỏ sự kính trọng đối với  người qua đời, quan khách phải lạy trước quan tài với con số chẳn (2 hoặc 4) vì người qua đời sẻ về âm phủ (Âm).  Theo nhà nghiên cứu Việt Trần Ngọc Thêm, mọi thứ liên quan chặt chẽ hoặc xa xôi đến cái chết đều phải sử dụng số chẳn (Yin=yên bình=cái chết).

Thưở xưa thường có phong tuc để trong miệng người chết một lát vàng (Dương)  để bao quản thể xác và để  tránh thối rữa.

Bàn thờ tổ tiên

Trong lúc hấp hối , người chết được  các người thân nhân cho một biệt danh (hay tên thụy) mà chỉ họ và người chết biết thôi  vì đến ngày giỗ, người chết sẻ được gọi về nhà để tham dự  cúng kiến và tránh các cô hồn. Bởi vậy người ta thường nói tên cúng cơm  để nhắc nhở  mỗi người có biệt danh. Cũng phải  chọn con số chẳn với  các bó bông dành cho tang lễ. Nhưng có một trường hợp ngoài lệ khi người chết là cha mẹ hay Phật. Thông thường trước bàn thờ  của các người nầy thường cắm ba cây nhan trong bình  hay là quỳ gối đầu đụng tới đất lạy 3 lần (số lẻ) vì lúc nào cũng xem họ là những người thân thuộc còn sống. Để bày tỏ sự kính trọng với các người cao tuổi còn sống, người ta chỉ bái 1 hay 3 lần mà thôi. Ngược lại trong lễ đám cưới, cô dâu trước khi về nhà chồng phải qùy bái cha mẹ ruột có công  sinh thành và nuôi dưởng mình nhưng chỉ lạy với số chẳn vì từ nay cô dâu kể như chết và thuộc về nhà chồng. 

Còn có một phong tục cho đêm tân hôn. Chọn một phụ nữ có nhiều con, đức hạnh vẹn toàn, được gia đình chú rể  mời đến để trực tiếp dọn giường  với đôi chiếu: 1 úp 1 mở  theo mô hình kết hợp của Âm Dương. Thưở xưa, cô dâu chú rể  hay trao đổi với nhau bằng  một nhúm đất lấy  một nhúm muối. Họ muốn thực hiện lời hứa và gắn bó với nhau suốt đời bằng cách lấy Trời Đất làm nhân chứng. Có một thành ngữ  cũng cùng một ý nghĩa: Gừng cay muối mặn để nhắc nhở vợ chồng trẻ chớ đừng bỏ nhau vì vị mặn của muối hay vị cay của gừng lại rất đậm đà và rất khó quên cũng như tình nghĩa vợ chồng rất sâu đậm và thắm thiết dù có bao thăng trầm trong cuộc sống.

Để nói đến đức hạnh, người dân Việt thường hay nói 

Ba vuông sánh với bảy tròn
Đời cha vinh hiễn đời con sang giàu

Khi nói đến ba vuông, làm ta nhớ đến  hình dáng của bánh chưng thường thấy nhân dịp Tết.  Với  những đường được vẻ  thẳng bằng  với thước vuông góc, hình dáng nầy tượng trưng lòng trung thành và tính cương trực   trong mối quan hệ của Tam Tòng: Tại gia tòng phu, xuất giá tòng phu, phu tữ tòng tữ. Còn 7 vòng tròn thì làm ta nhớ  sự tròn trĩnh của bánh giầy. Vòng tròn của bánh tựa như một dãy dấu chấm được cách xa đều đặn với tâm điểm nơi  mà có trái tim. Đây là tiêu biểu của một tâm hồn  rất thăng bằng mà không có  đam mê nào lay chuyển được. Chính ở đây mới thấy sự hoàn thiện của thất tình:  hỹ, nộ, ái, lạc, sĩ, ố, dục Ai mà có được một cuộc sống đạo đức nếu có được lòng trung thành và tính cương trực với mọi người và giữ đựợc mãi khoảng cách một cách cân bằng qua sự bộc lộ tình cảm của mình?

Từ  ngữ  « vuông tròn » thường được  nói đến trong một số châm ngôn dân gian của người Viêt:

Lạy trời cho đặng vuông tròn 
Trăm năm cho trọn lòng son với chàng!

Đấy mà xử ngãi (nghĩa) vuông tròn
Ngàn năm ly biệt vẫn còn đợi trông

hoặc là trong các đọan thơ  411-412 và  1331-1332 của Kim Vân Kiều:

Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn 
Khuôn xanh biết có vuông tròn mà haỵ

hay 

Trăm năm tính cuộc vuông tròn, 
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông

Lưỡng tính Âm Dương biểu hiện dưới nhiều hình thức ở Vietnam.  Ở Trung Hoa thì có một vị thần (ông tơ)  lo chuyện hôn nhân   nhưng ở Vietnam thì có đôi thần minh, môt ông một bà thường gọi Ông Tơ Bà Nguyêt. Cũng như ở chùa chiền thì có Phật Ông Phật Bà trên bàn thờ Phật. Người dân Việt  rất tin  rằng mỗi người được gắn bó từ lúc đầu với các con số.  Trước khi sinh, bào thai cần phải đợi 9 tháng 10 ngày.  Để nói ai có được  mệnh tốt thì người ta nói người đó có số đỏ. Còn ngược lại số đen dành cho ai có một định mệnh xấu. [ Con số Âm Dương của người Việt]

Cathédrale Saint Joseph (Nhà thờ Lớn Hànội)

Version française

Dựa theo mẫu nhà thờ Đức Bà Paris, nhà thờ Saint Joseph được thiết kế bỡi giám mục Paul-François Puginier theo phong cách kiến trúc Gothic trung cổ  Âu Châu và được xây dựng  vào năm 1884 trên khu đất mà trước đó có  chùa Báo Thiên, một chùa nổi tiếng đã có từ thời nhà Lý (thế kỷ 11) . Nhà thờ nầy thường đươc gọi là nhà thờ lớn vì ngoài kích thước hoành tráng  với  chiều dài 64,5m, chiều rộng 20,5m và hai tháp chuông cao 31,5m có đến 5 chuông còn  được xem là nhà thờ chính tòa của Tổng giáo phận Hà Nội. Nhà thờ nầy được hoàn thành vào năm 1886 sau bốn năm xây cất. Chi phí tốn kém nhờ hai đợt xổ số (đợt một năm 1883, đợt hai năm 1886). Tuy rằng bề ngoài của nhà thờ có vẻ đen tối vì ô nhiễm, nhà thờ nầy vẫn được xem là một di tích lich sữ thời kỳ Pháp thuộc và là điểm tham quan cực kỳ quan trọng đối với người du khách nước ngoài khi đến Hànội.

 

 

Basée sur le modèle de Notre Dame de Paris, l’église Saint Joseph dont les plans ont été dessinés par l’évêque  Paul-François Puginier est   du style néo-gothique. Elle fut construite  en 1884  sur l’emplacement de la pagode Báo Thiên, un édifice bouddhique très connu à l’époque de la dynastie des Lý (XIème siècle).  Cette église est fréquemment appelée « grande église » car outre ses dimensions imposantes avec sa longueur de 64,5 mètres, sa largeur de  20,5 mètres  et ses deux clochers carrés hauts de 31 mètres et  équipés de 5 cloches, elle est encore  l’église-mère de l’archidiocèse d’Hanoï. Sa réalisation fut terminée en 1886 après 4 années de construction avec l’argent alimenté par le système de loterie (organisé en 1883 et en 1886). Malgré son aspect extérieur assombri par la pollution, cette église est un vestige historique de l’époque coloniale française et devient actuellement l’un des sites  extrêmement importants pour les touristes étrangers lors de leur passage à Hanoï.

 

Cái Bè (Mỹ Tho)

Le magnifique église au bord de l’eau

Cái Bè est un district situé à l’ouest de la province Tiền Giang. Celle-ci  est  appelée Mỹ Tho à l’époque coloniale.

Cái Bè là một huyện nằm ở phía tây tỉnh Tiền Giang (trước đó là tỉnh Mỹ Tho).

 

 

cai_be

Musée des beaux-arts (Bảo tàng mỹ thuật Hànội)

 

Bảo tàng mỹ thuật

Version française

Tọa lạc ở giữa lòng thủ đô Hànội  ngang mặt Văn Miếu , bảo tàng mỹ thuật ít  được biết  so với bảo tàng dân tộc học.  Tuy nhiên chính là địa điểm không nên bỏ qua được cho những ai thích mỹ thuật Việt Nam từ thời tiền sử cho đến ngày nay.  Chính ở  nơi nầy tìm thấy  ở ba tầng rất nhiều kiệt tác được phân phối trưng bài theo chủ đề và khám phá   các kỹ thuật gồm có nhiều lĩnh vực (như gốm, điêu khắc,  sơn mài,  tranh lụa hay giấy dó, nghệ thuật dân gian vân vân …). 

Gian nhà dành cho sơn mài rất tráng lệ với các tượng tổ sư của phái Thiền Tông và các vị Kim Cương ở chùa Tây Phương. Có thể nói các tượng nầy được xem như là đạt được đến đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc cổ Việtnam dưới triều đại Tây Sơn dù thời đai nầy chỉ có tồn tại 14 năm  (1788-1802). Chính qua các tư thế và hình dáng đáng ngạc nhiên của các tượng mà nhận ra được không những sự thành hình phong cách cá biệt mà còn làm trội lên tính hiên thực và tính nhân văn.

Dù có tính chất tôn giáo, mỗi tượng là một kiệt tác được hoàn thành một cách tĩ mĩ bỡi người điêu khắc với chủ đích làm sao để nổi bật nét đặc thù cá tính, cảm giác và sùng kính mà họ  có. Có thể mất hai tiếng dẽ dàng khi đến tham quan bảo tàng mĩ lệ nầy. Ít có du khách lắm  nhưng cũng đáng  để đến tham quan khi có dip đến Hànội.

 

Version française

Le musée des beaux-arts est  situé en plein cœur de la capitale Hànội. Il est en face du temple de la littérature (Văn Miếu). Il est peu connu par rapport à celui d’ethnographie.  De la préhistoire jusqu’à nos jours,  l’art vietnamien y est bien présenté. On s’y voit proposer un très large éventail d’œuvres.   Celles-ci  sont réparties sur trois étages thématiques. On peut y découvrir l’ensemble des techniques: céramique, sculpture, laque, peinture sur soie et sur papier de mûrier, arts populaires etc…. 

La partie réservée aux laques est très magnifique. On y trouve  la belle collection des Bouddhas de la pagode Tây Phương. C’est le point culminant de la sculpture ancienne  du Vietnam  à l’époque de Tây Sơn. Cette dernière  ne subsiste que 14 ans (1788-1802). Ses statues sont dans des postures et des attitudes assez surprenantes.  On y voit  un style particulier mais aussi le réalisme et l’humanisme.   

Le sculpteur artisan réalise  chaque statue  avec soin malgré le caractère religieux. Il tente   de montrer la particularité de sa propre personnalité, ses sentiments et sa dévotion.  On peut  passer facilement  deux heures dans ce beau musée.  Il y a peu de visiteurs. Cela vaut quand même le détour lorsqu’on a l’occasion de visiter Hànội.

66 Nguyễn Thái Học, Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam

Fine art museum

Non nước Cao Bằng (Monts et Eaux Cao Bằng)

Le fleuve Nho Quế se faufile comme un serpent à travers les montagnes

Version française

English version

Sau công viên địa chất Đồng Văn (Hà Giang), Việt Nam đuợc có thêm  công viên địa chất thứ hai  Non nước Cao Bằng gia nhập vào  mạng lưới công viên địa chất toàn cầu  mà tổ chức Liên Hiệp Quốc  UNESCO công nhận vào tháng 4 vừa qua (2018). Tỉnh   Cao Bằng  cùng tên nầy thuộc vùng đông bắc Việt Nam, giáp ranh giới với khu tự trị Quảng Tây của Trung Quốc. Cao Bằng nằm cách xa thủ đô Hànội 286 km.  Đến từ Hà Giang, tụi nầy chọn đi qua con đèo độc đáo Mã Pí Lèng. Đèo nầy nằm giữa cao nguyên Đồng Văn, một bên là vách núi Mã Pí Lèng còn một bên là sông Nho Quế. Đèo nầy  không dài chi cho mấy chỉ khoảng 20 km nhưng nó rất hùng vĩ ngoạn mục nhất ở Việt Nam vì trong tầm mắt trên cao nhìn xuống đèo nó nhỏ  như  sợ chỉ, như con rắn bò qua hàng ngàn núi đá  trọc màu xám trùng trùng điệp điệp lô nhô cây cối.  Đèo nầy được ví như « vua của các đèo » ở Việtnam vì nó rất nguy hiểm với những đoạn cua tay lổn nhổn đá hộc, hai ô tô phải né tránh nhau với tiếng kèn.  Sở dĩ đèo nầy mang cái tên Mã Pí Lèng vì theo tiếng Quảng Đông là sóng mũi con ngựa. Tuy nhiên các người Hmong họ cho là sóng mũi con mèo.

Theo lời kể dân gian, các con ngựa cái leo qua đèo nầy  dễ bị trụy thai vì  dốc nó cao  quá chừng khiến con ngựa đuối sức trèo lên tắc thở.   Đường nầy được mang tên Hạnh Phúc nhưng thật sư đựợc thành hình với mồ hôi, xương máu và nước mắt của đội quân cảm tử thuộc  16 dân tộc thiểu số (Tày, Mèo, Lolo, Pù Péo vân vân …) cùng nhau đục đẽo từng viên đá ngày đêm trong thời gian suốt  6 năm liền. Có thể nói là con đường gian nan khổ sở nhất cho những ai lái xe nhưng nó cũng là một niềm vui không ít cho những người du lịch thích cảnh vật thiên nhiên  hoang dã. Có đến đây mới thành hảo hán vì đây được xem như là Vạn Lý Trường Thành của Việtnam, có đến đây mới thấy đất nước Việtnam rất xinh đẹp  và xanh tươi.

Cao Bằng là một tỉnh ít bị ô nhiễm nhất chỉ có khoảng chừng 500.000 dân. Cao Bằng nổi tiếng có thác Bản Giốc, có động Ngườm Ngao, có khu di tích Pắc Bó. Chính ở nơi nầy mà người anh hùng của dân tộc Tầy Nùng, Nùng Trí Cao khởi nghĩa dành độc lập chống lại nhà Tống như tộc Lạc Việt với Ngô Quyền. Mặc dầu việc quật khởi không thành, ông được xem là người anh hùng của dân tộc Choang (Tày Nùng) và được tôn thờ ở Cao Bằng nhất là ở chùa Phật Tích Trúc Lâm Bản Giốc. Chính ở nơi nầy mà theo lời chỉ dẩn của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm  mà con cháu nhà Mạc chạy về đây cố thủ, làm vua được ba đời thêm vào thế kỷ 16.

Galerie des photos (de Hà Giang à Cao Bằng)

Version française 

Après la reconnaissance du parc karstique de Đồng Văn , le Vietnam a eu  récemment le deuxième parc  géologique Non Nước Cao Bằng reconnu comme   membre du Réseau global des parcs géologiques de la part de l’UNESCO en avril dernier (2018). La  province Cao Bằng  est  située au nord-est du Vietnam et a une frontière commune avec la région autonome Kouang Si (Quảng Tây) de la Chine. Elle est distante  de la capitale Hànội de 286 km. En partant de Hà Giang, nous sommes décidés de prendre la route menant au col majestueux Mã Pí Leng. Celui-ci est situé au cœur du plateau calcaire Đồng Văn avec d’un côté les falaises de Mã Pí Leng  et de l’autre  le fleuve Nho Quế. Ce col fait environ 20 km de long mais il est grandiose et  très spectaculaire au Vietnam car à portée de vue en haut, le col  ressemble à un fil mince ou à un serpent se faufilant à travers des milliers de rochers nus et gris qui se succèdent  et se laissent  envahir par la végétation.  Il est considéré comme le « roi des cols »  au Vietnam car il est tellement  dangereux  avec des tronçons de route  en forme de coude  et remplis  de blocs de pierre  équarris en désordre que  le klaxon  des  voitures doit retentir sans cesse pour éviter les risques de collision.

C’est pourquoi ce col porte le nom « Mã Pí Lèng » car selon le cantonais, c’est le bout avant du  nez du cheval. Mais pour les Hmong c’est le bout avant du  nez du chat. Selon l’on-dit,  en prenant ce col, la jument enceinte aurait le risque d’avortement car  la pente est tellement  haute que  le cheval serait mort d’épuisement pour la montée. Cette route sinueuse est appelée souvent  « route du bonheur »  mais elle  a été construite  avec la sueur, le sang et les larmes des volontaires recrutés parmi les  16 ethnies minoritaires  (Tày, Mèo, Lolo, Pù Péo etc.) du Vietnam,  ne cessant pas de travailler jour et nuit durant les six années consécutives  pour cette réalisation titanesque. 

On peut dire que c’est la route la plus difficile pour les chauffeurs. En passant par ce col, on se sent fier d’être un brave car on le  considère comme la Muraille de Chine du Vietnam. C’est aussi une  joie immense pour les touristes, en particulier pour ceux qui aiment la nature sauvage. En venant ici, on s’aperçoit que le Vietnam est un très beau pays et qu(il il est incroyablement vert.

La province Cao Bằng est la moins polluée car elle n’a qu’à peu près 500.000 habitants. Cao Bằng est connue pour ses chutes d’eau Bản Giốc, sa grotte Nguờm Ngao,  le site historique Pắc Bó. C’est ici que le héros national du peuple Choang Nùng Trí Cao a tenté le soulèvement populaire  contre les Song (Chinois) pour établir un royaume Đại Nam au sud de la Chine comme les Vietnamiens avec le général Ngô Quyền.  Malgré l’échec de ce soulèvement, il est considéré comme un héros du peuple  Choang et vénéré partout à Cao Bằng, en particulier à la pagode Phật Tích en face des chutes d’eau Bản Giốc. C’est ici que sur les recommandations du Nostradamus vietnamien Nguyễn Bỉnh Khiêm que les descendants de la dynastie des Mạc se réfugièrent  au 16ème  siècle pour se défendre et maintenir encore leur règne pour trois générations.

English version

After the recognition of the Đồng Văn Karst Park, Vietnam recently had the second Non Nước Cao Bằng Geological Park recognized as a member of the Global Network of Geological Parks by UNESCO last April (2018). Cao Bằng Province is located in the northeast of Vietnam and shares a border with the Kouang Si (Quảng Tây) Autonomous Region of China. It is 286 km from the capital Hanoi. Leaving Hà Giang, we decided to take the road leading to the majestic Mã Pí Leng Pass. This is located in the heart of the Đồng Văn limestone plateau with the cliffs of Mã Pí Leng on one side and the Nho Quế River on the other.

This pass is about 20 km long but it is grandiose and very spectacular in Vietnam because from the top, the pass looks like a thin thread or a snake winding through thousands of bare and gray rocks that follow one another and are invaded by vegetation. It is considered the « king of passes » in Vietnam because it is so dangerous with sections of road in the shape of an elbow and filled with disorderly squared stone blocks that the car horns must sound constantly to avoid the risk of collision. This is why this pass is called « Mã Pí Lèng » because according to Cantonese, it is the front tip of the horse’s nose. But for the Hmong it is the front tip of the cat’s nose. According to the saying, when passing through this pass, the pregnant mare would have the risk of abortion or the slope is so steep that the horse would die of exhaustion while climbing it. This winding road is often called « road of happiness » but it was built with the sweat, blood and tears of volunteers recruited from the 16 ethnic minorities (Tày, Mèo, Lolo, Pù Péo etc.) of Vietnam, who did not stop working day and night for six consecutive years for this titanic achievement.

One can say that this is the most difficult road for drivers. Passing through this pass, one feels proud to be brave because this pass is considered the Great Wall of China of Vietnam. It is also a great joy for tourists, especially those who love wild nature. Coming here, one realizes that Vietnam is a very beautiful country and incredibly green.

Cao Bằng province is the least polluted because it has only about 500,000 inhabitants. Cao Bằng is known for its Bản Giốc waterfalls, Nguờm Ngao cave, and the historical site Pắc Bó. It is here that the national hero of the Choang Nùng people, Trí Cao, attempted a popular uprising against the Song (Chinese) to establish a Đại Nam kingdom south of China, like the Vietnamese with General Ngô Quyền. Despite the failure of this uprising, he is considered a hero of the Choang people and is venerated everywhere in Cao Bằng, especially at the Phật Tích pagoda opposite the Bản Giốc waterfalls. It is here, on the recommendations of the Vietnamese Nostradamus Nguyễn Bỉnh Khiêm, that the descendants of the Mạc dynasty took refuge in the 16th century to defend themselves and maintain their rule for three more generations.

 

Le palais fortifié du roi des Hmong (Dinh thự của vua Mèo)

Version vietnamienne

De passage à Hà Giang, on a l’occasion de visiter le palais fortifié du roi des Hmong Vương Chính Đức. Celui-ci est situé à une vingtaine de kilomètres de Đồng Văn au cœur de la vallée de la  commune Sa Phìn. Selon l’on-dit, Vuơng Chính Đức a choisi cet emplacement du fait qu’il y a  un bloc de terre semblable à la carapace de la tortue, ce qui permet d’avoir une belle carrière pour lui et ses descendants dans l’optique des géomanciens. Basée sur le modèle de Yamen Manchu (bâtisse d’un mandarin à l’époque des Qing) et construite dans les années 1920 à 1600 m d’altitude sur une superficie de 3000 m2, cette magnifique résidence est une belle œuvre architecturale, un mélange subtil de l’art traditionnel Hmong, chinois et français. Cela   nécessite quand même 8 ans de travaux effectués  avec acharnement par les ouvriers venant de Yunnan et de Đồng Văn.  Elle est composée de 3 constructions  sur pilotis à 2 étages dont l’une  est située jusque derrière  l’entrée et les deux autres dépendances  sont opposées entre elles et forment avec la première  un angle droit. Tout est fait en bois précieux (planchers, cloisons, colonnes etc…) avec la toiture toujours en tuiles Yin et Yang.
Il y a au moins 64 pièces et   trois cours intérieures. Grâce à l’ajout de de deux donjons en pierre  à l’arrière de cette résidence, celle-ci est appelée souvent sous le nom « château ».  À l’époque où le roi des Hmong était en vie, il y avait plus de 100 personnes qui étaient logés dans cette résidence, y compris ses 3 femmes et ses enfants. 

Vue prise de l’entrée de la résidence jusqu’au fond à travers les cours

Maison principale avec ses deux dépendances opposées

palais_roi_hmong

Ai có đến Hà Giang thì cũng có dịp đến tham quan nhà của vua Mèo Vương  Chính Đức. Được tọa lạc cách Đồng Văn gần hai chục cây số ở giữa lòng một thung lũng thuộc địa phận xã Sa Phìn. Theo lời  đồn, Vương Chính Đức chọn nơi nầy vì ở đây có một khối đất được xem như là cái mai rùa khiến sẻ  có sự nghiệp tốt đẹp cho ông và con cháu theo cái nhìn quan sát của các nhà rành về phong thủy. Dựa trên mẫu nhà của Yamen Manchu (những dinh thất của các quan dưới thời đại nhà Thanh) và  được xây cất  ở độ cao 1600 thước vào các năm 1920 với một diện tích 3000 mét vuông, dinh thự nầy là một kiệt tác kiến trúc, một hỗn hợp tinh vi của nghệ thuật truyền thống của người Hmong, người Hoa và người Pháp. Thế cũng phải  mất 8 năm xây dựng nhọc nhằn bỡi những người thợ chuyên môn đến từ Vân Nam và Đồng Văn. Dinh thự  nầy gồm có 3 tòa nhà mà nhà chính thì được tọa lạc ngay sau cửa vào và hai nhà phụ thì đối diện với nhau và tạo với nhà chính các góc vuông.   Tất cả đều được làm bằng gỗ qúy từ sàn nhà cho đến cột trụ qua đến vách ngăn.  Tất cả mái nhà  nơi nầy đều được lợp với ngói âm dương. Có ít nhất 64 phòng và ba sân  nội.  Nhờ thêm hai vọng lâu xây  bằng đá ở phiá sau dinh thự mà dinh nầy thuờng được gọi là lầu đài.   Dạo thời vua Mèo còn sống thì có hơn một trăm người sống ở đây kể luôn ba bà vợ  của ông và các con cháu.

La bourgade de Đồng Văn (Phố cổ Đồng Văn)

Version française

Nằm ở giữa lòng thung lũng của cao nguyên đá Đồng Văn, phố nầy lúc ban đầu có khoảng chừng 40  cái nhà mà thôi. Khu phố nầy được thành hình vào đầu  thế kỷ 20 dưới chân núi  với vài gia đình người Hmong, người Tày và người Hoa. Bởi vì được xây cất với các thợ  được thuê đến từ Tứ Xuyên nên các nhà ở đây mang dấu ấn  khá  sâu đậm của người Hoa qua lối kiến trúc hai tầng trình tường, mái  ngói âm dương và trước cửa nhà có đèn lồng treo cao. Nay trở thành một địa điểm quan trọng mà du khách không thể bỏ qua được khi đến Hà Giang. Nhà cửa ở đây cũng xây cất lại, nhà trọ cũng có nhiều, giá cả cũng  phải chẵn, du khách ngoại quốc nhất là dân đi phượt cũng đông cuối tuần và thích ngủ nhà sàn. Rất tiếc chiều hôm đó, mưa quá to nên chụp hình không được nhiều. Chỉ sáng hôm sau, trời lại nắng nên mới có vài tấm ảnh để lưu niệm nhưng cũng có dịp viếng thăm một nhà cổ của người Hmong nay thành nhà trọ và có dịp chứng kiến cách thức dùng nước suối rửa cây linh (lin)  trước khi dệt vãi.  Đi miền núi như mình rất mệt nhưng  học hỏi rất nhiều về tập quán nhất là Hà Giang có đến 22 dân tộc thiểu số  và rất thích thú trong cuộc hành trình nầy. 

bourgade_dong_van

Située au cœur de la vallée du plateau karstique de Đồng Văn, cette bourgade avait  seulement au moment de sa construction  une quarantaine de maisons.  Elle prit forme au début  du XXème siècle au pied des montagnes rocheuses avec quelques familles Hmong, Tày et Hoa (ou Chinois).  Comme ses maisons ont été construites par des ouvriers recrutés  venant de Sichuan, cette bourgade continue à garder  une  profonde empreinte chinoise à travers son architecture typique à deux étages, son toit avec des tuiles tubulaires âm dương (Yin-Yang) et ses lampions suspendus devant l’entrée. Aujourd’hui, elle devient un passage obligatoire pour ceux qui visitent Hà Giang.  La plupart de ses maisons sont rénovées et ses « homestay » (logement chez l’habitant) sont nombreux avec un prix assez raisonnable. Les touristes étrangers  sont en majorité des routards ou des gens aimant l’aventure de l’extrême et préférant dormir dans des maisons sur pilotis   et ils sont nombreux à la fin de la semaine.   C’est regrettable pour nous d’avoir la pluie torrentielle le soir de notre arrivée. C’est seulement le lendemain avec le retour du soleil que je peux faire quelques photos ci-dessus. J’ai aussi l’occasion de visiter une vieille maison devenant aujourd’hui un  « logement chez l’habitant » et d’apprendre la façon de laver le lin avec l’eau de source  avant le tissage des vêtements pratiqué par les Hmong.  L’excursion à la montagne est épuisante   mais elle me permet d’avoir des choses à apprendre en particulier les coutumes et les traditions lorsque la région Hà Giang a 22 minorités ethniques. Je suis très content de ce voyage mémorable. 

 

La bourgade Đồng Văn au fil de la nuit.

Laver le lin avant le tissage des vêtements par les Hmong.

Việt Nam Quê Hương tôi. Đất Rồng và Huyền Thoại

Địa chỉ email:anh_tuan.dang@vietnammonpaysnatal.fr 

Việt Nam hai tiếng nhớ nhung

Tại sao Việt Nam không bị đồng hóa?

Tranh khắc dân gian của Henri Oger

Văn hóa Đồng Sơn (500 TCN – 43 SCN)


Tại sao chọn gọi là Đất Rồng và Huyền Thoại ?
intro

Version française
English version

Việt Nam là một quốc gia ở Đông Dương mà người dân rất yêu chuộng hoà bình, độc lập và tự do. Là người dân Việt  thì phải có khả năng kháng cự lại trước hết việc đồng hóa hay là tư tưởng ngoại bang và hảnh diện có mang ở trong tĩnh mạch dòng máu của cha Rồng. Đối với người dân Việt, không còn sự  hoài nghi nào cả vì qua truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên có từ thuở nào, họ là con cháu của  cha Rồng mặc dầu họ biết rõ  từ nay nguồn gốc qua các công trình khoa học di truyền (Văn hóa Lương ChửThạch Gia Hà). Họ là người thừa kế của nền văn hóa Hòa Bìnhvăn hóa Phùng Nguyên  và thuộc về đại tộc Bách Việt, những bộ tộc sống rải rác ở phía nam sông Duơng Tử. Nuớc ở nơi nầy nó thấm nhuần với đất vì có thể là vậy nên quốc gia của họ thường được gọi là Đất Nước.

Cũng  trên mãnh đất của đồng bằng sông Hồng nầy đã qua bao nhiêu thế kỷ trước Công Nguyên có một vương quốc sáng lâp một triều đại với các vua Hùng huyền thoại (nước Văn Lang). Sau đó được thay  thế bởi nước Âu Việt của An Dương Vương (Thục Phán) mà thành trì Cổ Loa là thủ đô, một bằng chứng cụ thể của vương quốc nầy bị thôn tính về sau bởi  Triệu Đà, một danh tướng của hoàng đế Trung Hoa Tần Thủy Hoàng. Ông nầy sáng lập ra nước Nam Việt (Nan Yue) lại bị thôn tính lúc đầu bởi  Hán Vũ Đế và về sau bởi quân Tàu của danh tướng Mã Viện (Ma Yuan) dưới thời  Hán Quang Vũ Đế (Guang wudi) với một nghìn năm bắc thuộc  trước khi có cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của tuớng Ngô Quyền với chiến thắng rực rỡ trên vịnh Hạ Long, một trong di sản thế giới của Việt Nam.

Trong thời kỳ đô hộ, văn hóa Đồng Sơn bị hủy diệt. Người ta tìm thấy trong văn hóa nầy các thạp đồng và nhất là cái trống đồng uy nghiêm biểu hiệu quyền lực và đặc tính của dân tộc Việt đã bao lần suýt bị hủy diệt bởi đế  chế Trung Hoa theo dòng lich sử.  Đây không phải  là lịch sử của các triều đại vua chúa (Đinh, Tiền Lê,, Trần, Hậu Lê, Nguyễn  vân vân…) hay các phong trào tư tưởng mà chính đây là lịch sử của dân tộc nông dân bền bỉ từ biên cương Việt Trung (Cao Bằng) đến mũi Cà Mau, vất vã khó nhọc để lại dấu ấn cho quang cảnh của mãnh đất nầy. Sự hy sinh của họ không phải là một từ vô ích. Các hào kiệt của họ thà làm qủi phương nam thay vì làm các vương công phương Bắc. Còn các nữ hào kiệt cũng không ngần ngại đáp lời sông núi. Đó là hai bà Trưng Trắc Trung Nhị, Dương Vân Nga Triệu Ẩu, Ỷ LanNguyễn Thị Giang (Cô Giang), Nguyễn thị Minh khai vân vân. Không người con Việt nào có thể quên câu nói bất diệt của Nguyễn Thái Học trước cái chết :

Chết vì Tổ Quốc.
Đây là số mệnh quá cao thượng,  đáng khen

PCHTVN

 

Trên chiến trường, không có lực luợng  ngoại bang nào có thể  đánh bại khi có chạm trán với người dân  Việt. Chính họ dành được  sự thắng lợi  nhờ ba yếu tố nầy: Thiên Thời, Đia Lợi và Nhân Hòa. Chính yếu tố sau cùng  nầy nó  đem lại sự khác biệt trong cuộc chiến tranh tiêu hao. Nguyễn Trãi đã có dip nói rằng thà chinh phục nhân tâm hơn là chiếm đoạt thành trì. Hiên ngang trước quân giặc mạnh  hơn họ thì họ cần phải kiên nhẫn nghĩ đến các thể thức thường được áp dụng trong lý thuyết Âm Dương : Lấy Yếu chống Mạnh hay Lấy Cụt chống Dài. Chính nhờ mưu lược nầy mà   được Thống soái Trần Hưng Đạo sử dụng để chống lại hạm đội xâm lược Nguyên-Mông của Hốt Tất Liệt trong trận chiến sông Bạch Đằng năm 1288 và sau đó sĩ phu Nguyễn Trãi dành phần thắng lợi  trong cuộc chống giặc nhà Minh của hoàng đế Vĩnh Lạc, người xây dựng Cố Cung ở Bắc Kinh được thiết kế bởi người Việt tên là Nguyễn An (Ruan An) và xua đuổi quân Tàu ra khỏi Việt Nam vào năm 1428.

Dùng chiến thuật di quân (Dương) trước sự bất động của quân nhà Thanh (Âm) phù hợp hoàn toàn với địa lợi, vua Quang Trung  đánh bại  chớp nhoáng quân địch vào năm 1788 trong 5 ngày Tết  để lấy lại Thăng Long. Chính cũng Quang Trung lợi dụng sự không biết đia thế của quân địch mà dành phần thắng lợi thần tốc ở  rạch Gầm-Xoài Mút (Mỹ Tho) với quân Xiêm La (Thái Lan) của tướng Chakri  khi ông nầy gởi sang 50 vạn binh tiếp viện cho vua Gia Long. Không có dân tộc nào có thể cưởng lại trước sự  bành trướng  của người dân Việt trong cuộc Nam Tiến đến mũi Cà Mau. Đó là trường hợp của hai vương quốc Chămpa ở miền trung và Chân Lạp đồng bằng sông Cửu Long.

Dù bị nghìn năm bắc thuộc và  có sự đóng góp văn hóa ngọai bang, những người nông dân con Việt  mảnh khảnh  nầy, chân vùi dưới bùn ở giữa các ruộng lúa, đã  gìn giữ được  những gì qúi giá nhất của các dân tộc trên thế giới. Đó là những truyền thống ( ca dao chẵng hạn)  và tiếng Việt dựa trên chữ Hán sau nầy dùng chữ Latinh với ông thầy tu dòng Tên  Alexandre de Rhodes. Chỉ còn bộ tộc Lạc Việt duy nhất  thuộc đại tộc Bách Việt không bị hán  hóa qua nhiều  thế kỷ. Chính Đức Khổng Tử  đã có từng  so sánh sinh lực  có ở nơi người Trung Hoa và người Lạc Việt, tổ tiên của người Việt Nam ngày nay: can đảm và vũ lực thuộc về người Trung Hoa, còn Lạc Việt thì khoan dung và  nhân từ.

Tuy nhiên người dân Việt luôn luôn gắn bó sâu đậm với đất nước khiến họ không nhường bộ trong cuộc đấu tranh vì thế theo sự suy luận của một nhóm người, họ là những kẻ đi chinh phục tàn nhẫn và đáng sợ nhưng còn nhóm người khác thì  họ là những người bảo vệ chính đáng trong công cuộc chiến  dành lại độc lập và tư do. Dù sao họ đã hy sinh quá nhiều trong quá khứ về sinh mạng cho hai khái niệm: độc lập và tự do mà họ  không có quen để lựa chọn hay tách biệt. Chính vì  vậy họ vẫn trong tình trạng khổ tâm không ít. Rồi họ cũng  có lần lượt  hai khái niệm nầy với  cái giá  mạng người quá đắt. Việc ý thức tập thể bất đầu thành hình qua nhiều năm với Nguyễn An Ninh.

Mặc dầu ba vị vua trẻ Việt Nam Hàm Nghi, Thành TháiDuy Tân bị lưu đày ở Algérie và La Réunion và việc xử trảm nhiều nhà cách mạng trong đó  có một chàng trai trẻ tài ba Nguyễn Thái Học, người dân Việt vẫn  không mất nhuệ khí trong các cuộc nổi dậy và dành lại độc lập với chiến thắng ở Điên Biên Phủ vào năm 1954. Việc  thả ba trăm tấn bom (265 kí cho mỗi người dân Việt)  và 60 triệu lít chất làm rụng lá cũng không làm nản lòng người dân Việt trên con đường thống nhất  lại đất nước với sự sụp đổ chính quyền Saïgon  vào năm 1975 sau đó dẫn đến việc đày  biết bao nhiêu người lính miền nam đến trại học tập và cuộc di tản  chưa từng thấy, có rất nhiều người thuyền nhân  chết đuối  và bị hảm hại bởi hải tặc ở biển Đông và vịnh Thái Lan để đi tìm tự do.

Theo lời tường thuật của nhiều tác giả Tây Âu, (Barry Wain, Magali Barbieri) có dịp nghiên cứu về vấn đề nầy thì có ít nhất  tổi thiểu là 250.000 người Việt vượt biên chết  ở biển. Theo sự dự tính của cơ quan HCR (Haut  Commissariat pour les Réfugiés), từ 1975 đến 1991, trong 16 năm, có gần một triệu người dân Việt mà trong đó có 8 trăm nghìn người di tản đã lìa bỏ Việt Nam. Con đường hòa giải dân tộc rất còn xa vời vì nó đầy gian nan, cạm bẩy và vụng về sau ba thập niên chiến tranh và đau khổ.

Một trang lịch sữ đã khép lại  nhưng Việt Nam phải trả  giá rất đắt không những trên phương diện con người và môi trường bởi vì vẫn tiếp tục nhận  những hậu quả không  ước lượng nổi của bao nhiêu thập niên chiến tranh (chất độc da cam chẵng hạn). Theo tờ báo thông tin của Unesco ghi lại tháng năm năm 2000, một tổ chức làm việc dưới sự bảo hộ của Liên Hiệp Quốc, ước tính có một phần năm rừng ở miền nam bị hủy hoại bởi các thuốc diệt cỏ của Hoa Kỳ.

Người trai nước Việt  ngày nay không biết hận thù  và cũng không có nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh. Nhưng thách thức  nghèo đói  vẫn  còn rình rập đeo đuổi. Bóng ma chiến tranh nó vẫn còn đó theo dòng ngày  tháng  ở biển Đông với các đảo Hoàng Sa bị cưởng đoạt  năm 1974 và Trường Sa gần đây bởi người phương Bắc mà  mối đe dọa càng ngày càng quá khiêu khích. Trước tham vọng quá đỗi của Trung Quốc, bài thiên sữ thi « Nam Quốc Sơn Hà » của tướng Lý Thường Kiệt phá Tống bình Chiêm, khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam, nó trở lại ám ảnh tâm trí và vang âm trong trái tim của người con Việt.  

Tuy rằng với bao nỗi lo âu và cuộc sống quá tồi tệ, không ai có thể quên đi  được mãnh đất  nầy mà người con Việt thường gọi là Quê Hương vì  chỉ ở nơi  nầy  có thể tìm lại kỷ niệm của tuổi ấu thơ, mái trường xưa, nguồn gốc và  quá khứ. Mặc dầu mãnh đất nầy  nó đồng nghĩa với chữ nghèo nàn và khổ cực, nó là lý lẽ sống đấy vì ông cha ta  tranh đấu và giành được từ  khi lập nước với mồ hôi, nước mắt và xương máu. Cũng như mẹ, mỗi người con dân Việt  chỉ có một người mẹ duy nhất trong đời không ai có thể thay thế được. Ngoài làng ra, hình ảnh đình làng, con trâu, nón lá hay cây tre không bao giờ xoá mờ trong kí ức tập thể của người con Việt cả. Đối với những người con Việt viễn xứ, đây chỉ là một khoảng thời gian tạm thời thôi  chớ nó không phải là một kết cục chính. Hình bóng Quê Hương nó vẫn  đeo đuổi mãi  họ như chiếc đòn gánh trên vai  của người bán hàng rong với biết bao nhiêu trìu mến và luyến tiếc.


Tại sao chọn gọi là Đất Rồng và Huyền Thoại ?
 
Người Việt cổ có thói quen xăm mình trên cơ thể. Tục lệ « man rợ » này, thường được nhắc đến trong các biên niên sử Trung Quốc. Nếu chúng ta dựa vào các văn bản Việt Nam thì đây là tục lệ nhằm bảo vệ họ để tránh sự tấn công của các con thuồng luồng (chắc đây là các con sấu hay giao long). Ngoài ra, họ thường nói bóng gíó qua các truyền thuyết để cho phép hậu thế truy tìm ra được nguồn gốc bởi sự hủy diệt có hệ thống nhất là nền văn hóa và trống đồng  và sự đàn áp không ngừng của nguời Trung Hoa trong thời kỳ bắc thuộc gần đến một ngàn năm.
 
Theo nhà nghiên cứu người Pháp Paul Pozner, sử học Việt Nam dựa trên một truyền thống lịch sử truyền khẩu rất lâu đời có trước thời đại của chúng ta dưới dạng truyền thuyết ở trong các đền thờ tổ tiên. Nhà văn Phạm Duy Khiêm, người Việt Nam đầu tiên đỗ tú tài cổ điển Pháp ở thời thuộc địa, đã có dịp kể lại cho chúng ta các truyền thuyết và các câu chuyện cổ tích nầy trong cuốn sách nổi tiếng có mang tựa đề “Légendes des terres sereines” mà ông được giải « Prix littéraire d’indochine » vào năm 1943 về văn hóa và trí tuệ của người dân Việt. Chính vì những lý do nêu trên đây mà chúng ta chọn vùng đất của các con rồng huyền thoại để chỉ định nước Việt Nam.
 

 

Cập nhật 26 tháng Septembre 2025

 

 

Eglise Notre Dame de Paris (Nhà thờ Đức Bà Paris)

 

Version française

Notre Dame de Paris

Từ một nhà thờ nhỏ bé với phong cách xưa (romane) mà đến phong cách gothique thì có một đoạn đường khá dải hơn hai thế kỷ từ  1160 đến giữa thế kỷ 14, có nhiều sửa chữa và bổ túc khiến nhà thờ nầy trở thành một kiệc tác của Paris mà không ai có thể quên khi đến tham quan Paris. Số lượng người đi xem  là 13 triệu người mỗi năm có nghĩa là hơn 30.000 du khách mỗi ngày. Nó luôn luôn đứng đầu trong danh sách các nơi tham quan ở Paris, trước tháp Eiffel  và điện Louvre. Nhà thờ nầy là một trong những nhà thờ xây dựng đầu tiên  với phong cách gothique. Phong cách nầy dựa trên các vòm mà có ở các nơi bắt tréo hình nhọn  và gân cung. Nhờ vậy trọng lượng của vòm nó không dựa trên hai trụ mà 4 trụ. Phong cách nầy đem lại không những sự  sáng sủa nhờ có nhiều cửa sổ mà còn cao vút tạo ra sự tao nhã lạ thường. Tại sao gọi gothique ? Thuật ngữ gothique dùng  bởi người La Mã để ám chỉ dân  Goth, dân mọi rợ đến từ phiá  Bắc (người Pháp thưở xưa). Nhà thờ Đức Bà được  sùng tu lại sau khi bi hỏa hoạn xảy ra vào ngày 15 Tháng tư 2019 và mở lại cho dân chúng từ cuối năm 2024. 

Galerie des photos

 

Notre Dame de Paris

  

Partant d’une église romane jusqu’à devenir une église gothique, il y a un long chemin à parcourir prenant plus de deux siècles, de 1160 jusqu’au milieu du 14ème  siècle.  Beaucoup de modifications et d’ajouts étant ajoutés, elle devient ainsi un chef-d’œuvre de Paris que personne ne peut oublier  lors de son passage à Paris. Le nombre de visiteurs s’élève à 13 millions par an ou plus 30.000 touristes par jour.  Elle est toujours la première sur la liste des sites touristiques à Paris devant la tour Eiffel et le musée du Louvre.  Cette église est l’une des premières églises construites avec le style gothique. Celui-ci est basé essentiellement sur la technique de la voûte sur croisée d’ogive  (ses arcs brisés se croisent en  diagonales et s’appuient non pas sur deux piliers mais sur quatre piliers). Cette technique apporte non seulement la lumière grâce à un nombre élevé de fenêtres (vitraux)  mais aussi l’élévation et la finesse extraordinaire. Pourquoi gothique ? Ce mot est employé par les Romains pour faire allusion à des Goths,  des peuplades barbares situées dans le Nord de l’Europe (les Français d’autrefois). Notre Dame de Paris à Paris est restauré cause d’une incendie ayant eu lieu le 15 Avril 2019 et est re-ouvert au public à la fin de l’année 2024.