Lotte center (Hànội)


Version française
Version anglaise

Tọa lạc ở giữa thành phố Hànội trong quận Ba Đình, trung tâm  Lotte center Hànôi   gồm 65 tầng nổi và 5 tầng hầm. Toà nhà nầy cao thứ 2 Việt Nam từ năm 2014 cho tới khi landmark 81 của Saigon  vượt qua chiều cao của nó 2017 (bề cao 461,5m). Nơi nầy, ngoài khách sạn 5 sao, còn có  đại siêu thị Lotte Mart chiếm toàn bộ tầng hầm B1. Từ tầng 1 đến tầng 6  là trung tâm thương mại với các mặt hàng thời trang cao cấp. Đến đây , có thể nhìn thấy tổng quát Hà thành với  đài quan sát  Sky Walk ở tầng 65, cao tới 272 m.  Ngoài ra còn bố trí các quán bar để du khách giải lao và ăn uống. 

 

Trung Tâm Lotte

Le gratte-ciel Lotte center  est situé au cœur de la capitale de Hànội dans le district de Ba Đình.  Il a 65  étages et 5 étages en sous-sol.  Classé deuxième au Vietnam depuis 2014, il est devancé désormais par le gratte-ciel landmark 81 de Saigon. Ce dernier  a la  hauteur de 461,5m.  C’est ici qu’outre l’hôtel 5 étoiles, il y a encore le supermarché Lotte Mart. Celui-ci  occupe  carrément  l’étage en sous-sol B1. Du premier étage jusqu’au 6ème étage, c’est le centre commercial avec des boutiques de mode. La tour d’observation Sky Walk haute de 272m est  au 65 ème étage. On peut y avoir la vue d’ensemble  magnifique  de la capitale Hanoï.  Le cadre est aussi superbe avec les bars et restaurants. Les visiteurs peuvent  s’y  détendre.

The Lotte Center skyscraper is located in the heart of the capital Hanoi, in the Ba Đình district. It has 65 floors and 5 basement levels. Ranked second in Vietnam since 2014, it is now surpassed by the Landmark 81 skyscraper in Saigon. The latter has a height of 461.5m. Here, in addition to the 5-star hotel, there is also the Lotte Mart supermarket, which occupies the entire B1 basement floor. From the first floor to the 6th floor, there is a shopping center with fashion boutiques. The Sky Walk observation tower, 272m high, is on the 65th floor. You can enjoy a magnificent overall view of the capital Hanoi. The setting is also superb with bars and restaurants. Visitors can relax there.

 

[RETURN]

Musée des beaux-arts (Bảo tàng mỹ thuật Hànội)

 

Bảo tàng mỹ thuật

Version française

Tọa lạc ở giữa lòng thủ đô Hànội  ngang mặt Văn Miếu , bảo tàng mỹ thuật ít  được biết  so với bảo tàng dân tộc học.  Tuy nhiên chính là địa điểm không nên bỏ qua được cho những ai thích mỹ thuật Việt Nam từ thời tiền sử cho đến ngày nay.  Chính ở  nơi nầy tìm thấy  ở ba tầng rất nhiều kiệt tác được phân phối trưng bài theo chủ đề và khám phá   các kỹ thuật gồm có nhiều lĩnh vực (như gốm, điêu khắc,  sơn mài,  tranh lụa hay giấy dó, nghệ thuật dân gian vân vân …). 

Gian nhà dành cho sơn mài rất tráng lệ với các tượng tổ sư của phái Thiền Tông và các vị Kim Cương ở chùa Tây Phương. Có thể nói các tượng nầy được xem như là đạt được đến đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc cổ Việtnam dưới triều đại Tây Sơn dù thời đai nầy chỉ có tồn tại 14 năm  (1788-1802). Chính qua các tư thế và hình dáng đáng ngạc nhiên của các tượng mà nhận ra được không những sự thành hình phong cách cá biệt mà còn làm trội lên tính hiên thực và tính nhân văn.

Dù có tính chất tôn giáo, mỗi tượng là một kiệt tác được hoàn thành một cách tĩ mĩ bỡi người điêu khắc với chủ đích làm sao để nổi bật nét đặc thù cá tính, cảm giác và sùng kính mà họ  có. Có thể mất hai tiếng dẽ dàng khi đến tham quan bảo tàng mĩ lệ nầy. Ít có du khách lắm  nhưng cũng đáng  để đến tham quan khi có dip đến Hànội.

 

Version française

Le musée des beaux-arts est  situé en plein cœur de la capitale Hànội. Il est en face du temple de la littérature (Văn Miếu). Il est peu connu par rapport à celui d’ethnographie.  De la préhistoire jusqu’à nos jours,  l’art vietnamien y est bien présenté. On s’y voit proposer un très large éventail d’œuvres.   Celles-ci  sont réparties sur trois étages thématiques. On peut y découvrir l’ensemble des techniques: céramique, sculpture, laque, peinture sur soie et sur papier de mûrier, arts populaires etc…. 

La partie réservée aux laques est très magnifique. On y trouve  la belle collection des Bouddhas de la pagode Tây Phương. C’est le point culminant de la sculpture ancienne  du Vietnam  à l’époque de Tây Sơn. Cette dernière  ne subsiste que 14 ans (1788-1802). Ses statues sont dans des postures et des attitudes assez surprenantes.  On y voit  un style particulier mais aussi le réalisme et l’humanisme.   

Le sculpteur artisan réalise  chaque statue  avec soin malgré le caractère religieux. Il tente   de montrer la particularité de sa propre personnalité, ses sentiments et sa dévotion.  On peut  passer facilement  deux heures dans ce beau musée.  Il y a peu de visiteurs. Cela vaut quand même le détour lorsqu’on a l’occasion de visiter Hànội.

66 Nguyễn Thái Học, Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam

Fine art museum

Non nước Cao Bằng (Monts et Eaux Cao Bằng)

Le fleuve Nho Quế se faufile comme un serpent à travers les montagnes

Version française
English version
Galerie des photos

Sau công viên địa chất Đồng Văn (Hà Giang), Việt Nam đuợc có thêm  công viên địa chất thứ hai  Non nước Cao Bằng gia nhập vào  mạng lưới công viên địa chất toàn cầu  mà tổ chức Liên Hiệp Quốc  UNESCO công nhận vào tháng 4 vừa qua (2018). Tỉnh   Cao Bằng  cùng tên nầy thuộc vùng đông bắc Việt Nam, giáp ranh giới với khu tự trị Quảng Tây của Trung Quốc. Cao Bằng nằm cách xa thủ đô Hànội 286 km.  Đến từ Hà Giang, tụi nầy chọn đi qua con đèo độc đáo Mã Pí Lèng. Đèo nầy nằm giữa cao nguyên Đồng Văn, một bên là vách núi Mã Pí Lèng còn một bên là sông Nho Quế. Đèo nầy  không dài chi cho mấy chỉ khoảng 20 km nhưng nó rất hùng vĩ ngoạn mục nhất ở Việt Nam vì trong tầm mắt trên cao nhìn xuống đèo nó nhỏ  như  sợ chỉ, như con rắn bò qua hàng ngàn núi đá  trọc màu xám trùng trùng điệp điệp lô nhô cây cối.  Đèo nầy được ví như « vua của các đèo » ở Việtnam vì nó rất nguy hiểm với những đoạn cua tay lổn nhổn đá hộc, hai ô tô phải né tránh nhau với tiếng kèn.  Sở dĩ đèo nầy mang cái tên Mã Pí Lèng vì theo tiếng Quảng Đông là sóng mũi con ngựa. Tuy nhiên các người Hmong họ cho là sóng mũi con mèo.

Theo lời kể dân gian, các con ngựa cái leo qua đèo nầy  dễ bị trụy thai vì  dốc nó cao  quá chừng khiến con ngựa đuối sức trèo lên tắc thở.   Đường nầy được mang tên Hạnh Phúc nhưng thật sư đựợc thành hình với mồ hôi, xương máu và nước mắt của đội quân cảm tử thuộc  16 dân tộc thiểu số (Tày, Mèo, Lolo, Pù Péo vân vân …) cùng nhau đục đẽo từng viên đá ngày đêm trong thời gian suốt  6 năm liền. Có thể nói là con đường gian nan khổ sở nhất cho những ai lái xe nhưng nó cũng là một niềm vui không ít cho những người du lịch thích cảnh vật thiên nhiên  hoang dã. Có đến đây mới thành hảo hán vì đây được xem như là Vạn Lý Trường Thành của Việt Nam, có đến đây mới thấy đất nước Việt Nam rất xinh đẹp  và xanh tươi.

Cao Bằng là một tỉnh ít bị ô nhiễm nhất chỉ có khoảng chừng 500.000 dân. Cao Bằng nổi tiếng có thác Bản Giốc, có động Ngườm Ngao, có khu di tích Pắc Bó. Chính ở nơi nầy mà người anh hùng của dân tộc Tầy Nùng, Nùng Trí Cao khởi nghĩa dành độc lập chống lại nhà Tống như tộc Lạc Việt với Ngô Quyền. Mặc dầu việc quật khởi không thành, ông được xem là người anh hùng của dân tộc Choang (Tày Nùng) và được tôn thờ ở Cao Bằng nhất là ở chùa Phật Tích Trúc Lâm Bản Giốc. Chính ở nơi nầy mà theo lời chỉ dẩn của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm  mà con cháu nhà Mạc chạy về đây cố thủ, làm vua được ba đời thêm vào thế kỷ 16.

Version française 

Après la reconnaissance du parc karstique de Đồng Văn , le Vietnam a eu  récemment le deuxième parc  géologique Non Nước Cao Bằng reconnu comme   membre du Réseau global des parcs géologiques de la part de l’UNESCO en avril dernier (2018). La  province Cao Bằng  est  située au nord-est du Vietnam et a une frontière commune avec la région autonome Kouang Si (Quảng Tây) de la Chine. Elle est distante  de la capitale Hànội de 286 km. En partant de Hà Giang, nous sommes décidés de prendre la route menant au col majestueux Mã Pí Leng. Celui-ci est situé au cœur du plateau calcaire Đồng Văn avec d’un côté les falaises de Mã Pí Leng  et de l’autre  le fleuve Nho Quế. Ce col fait environ 20 km de long mais il est grandiose et  très spectaculaire au Vietnam car à portée de vue en haut, le col  ressemble à un fil mince ou à un serpent se faufilant à travers des milliers de rochers nus et gris qui se succèdent  et se laissent  envahir par la végétation.  Il est considéré comme le « roi des cols »  au Vietnam car il est tellement  dangereux  avec des tronçons de route  en forme de coude  et remplis  de blocs de pierre  équarris en désordre que  le klaxon  des  voitures doit retentir sans cesse pour éviter les risques de collision.

C’est pourquoi ce col porte le nom « Mã Pí Lèng » car selon le cantonais, c’est le bout avant du  nez du cheval. Mais pour les Hmong c’est le bout avant du  nez du chat. Selon l’on-dit,  en prenant ce col, la jument enceinte aurait le risque d’avortement car  la pente est tellement  haute que  le cheval serait mort d’épuisement pour la montée. Cette route sinueuse est appelée souvent  « route du bonheur »  mais elle  a été construite  avec la sueur, le sang et les larmes des volontaires recrutés parmi les  16 ethnies minoritaires  (Tày, Mèo, Lolo, Pù Péo etc.) du Vietnam,  ne cessant pas de travailler jour et nuit durant les six années consécutives  pour cette réalisation titanesque. 

On peut dire que c’est la route la plus difficile pour les chauffeurs. En passant par ce col, on se sent fier d’être un brave car on le  considère comme la Muraille de Chine du Vietnam. C’est aussi une  joie immense pour les touristes, en particulier pour ceux qui aiment la nature sauvage. En venant ici, on s’aperçoit que le Vietnam est un très beau pays et qu(il il est incroyablement vert.

La province Cao Bằng est la moins polluée car elle n’a qu’à peu près 500.000 habitants. Cao Bằng est connue pour ses chutes d’eau Bản Giốc, sa grotte Nguờm Ngao,  le site historique Pắc Bó. C’est ici que le héros national du peuple Choang Nùng Trí Cao a tenté le soulèvement populaire  contre les Song (Chinois) pour établir un royaume Đại Nam au sud de la Chine comme les Vietnamiens avec le général Ngô Quyền.  Malgré l’échec de ce soulèvement, il est considéré comme un héros du peuple  Choang et vénéré partout à Cao Bằng, en particulier à la pagode Phật Tích en face des chutes d’eau Bản Giốc. C’est ici que sur les recommandations du Nostradamus vietnamien Nguyễn Bỉnh Khiêm que les descendants de la dynastie des Mạc se réfugièrent  au 16ème  siècle pour se défendre et maintenir encore leur règne pour trois générations.

English version

After the recognition of the Đồng Văn Karst Park, Vietnam recently had the second Non Nước Cao Bằng Geological Park recognized as a member of the Global Network of Geological Parks by UNESCO last April (2018). Cao Bằng Province is located in the northeast of Vietnam and shares a border with the Kouang Si (Quảng Tây) Autonomous Region of China. It is 286 km from the capital Hanoi. Leaving Hà Giang, we decided to take the road leading to the majestic Mã Pí Leng Pass. This is located in the heart of the Đồng Văn limestone plateau with the cliffs of Mã Pí Leng on one side and the Nho Quế River on the other.

This pass is about 20 km long but it is grandiose and very spectacular in Vietnam because from the top, the pass looks like a thin thread or a snake winding through thousands of bare and gray rocks that follow one another and are invaded by vegetation. It is considered the « king of passes » in Vietnam because it is so dangerous with sections of road in the shape of an elbow and filled with disorderly squared stone blocks that the car horns must sound constantly to avoid the risk of collision. This is why this pass is called « Mã Pí Lèng » because according to Cantonese, it is the front tip of the horse’s nose. But for the Hmong it is the front tip of the cat’s nose. According to the saying, when passing through this pass, the pregnant mare would have the risk of abortion or the slope is so steep that the horse would die of exhaustion while climbing it. This winding road is often called « road of happiness » but it was built with the sweat, blood and tears of volunteers recruited from the 16 ethnic minorities (Tày, Mèo, Lolo, Pù Péo etc.) of Vietnam, who did not stop working day and night for six consecutive years for this titanic achievement.

One can say that this is the most difficult road for drivers. Passing through this pass, one feels proud to be brave because this pass is considered the Great Wall of China of Vietnam. It is also a great joy for tourists, especially those who love wild nature. Coming here, one realizes that Vietnam is a very beautiful country and incredibly green.

Cao Bằng province is the least polluted because it has only about 500,000 inhabitants. Cao Bằng is known for its Bản Giốc waterfalls, Nguờm Ngao cave, and the historical site Pắc Bó. It is here that the national hero of the Choang Nùng people, Trí Cao, attempted a popular uprising against the Song (Chinese) to establish a Đại Nam kingdom south of China, like the Vietnamese with General Ngô Quyền. Despite the failure of this uprising, he is considered a hero of the Choang people and is venerated everywhere in Cao Bằng, especially at the Phật Tích pagoda opposite the Bản Giốc waterfalls. It is here, on the recommendations of the Vietnamese Nostradamus Nguyễn Bỉnh Khiêm, that the descendants of the Mạc dynasty took refuge in the 16th century to defend themselves and maintain their rule for three more generations.

Galerie des photos (de Hà Giang à Cao Bằng)

 

Le palais fortifié du roi des Hmong (Dinh thự của vua Mèo)

Version vietnamienne
Version anglaise
Galerie des photos

De passage à Hà Giang, on a l’occasion de visiter le palais fortifié du roi des Hmong Vương Chính Đức. Celui-ci est situé à une vingtaine de kilomètres de Đồng Văn au cœur de la vallée de la  commune Sa Phìn. Selon l’on-dit, Vuơng Chính Đức a choisi cet emplacement du fait qu’il y a  un bloc de terre semblable à la carapace de la tortue, ce qui permet d’avoir une belle carrière pour lui et ses descendants dans l’optique des géomanciens.

Basée sur le modèle de Yamen Manchu (bâtisse d’un mandarin à l’époque des Qing) et construite dans les années 1920 à 1600 m d’altitude sur une superficie de 3000 m2, cette magnifique résidence est une belle œuvre architecturale, un mélange subtil de l’art traditionnel Hmong, chinois et français. Cela   nécessite quand même 8 ans de travaux effectués  avec acharnement par les ouvriers venant de Yunnan et de Đồng Văn.  Elle est composée de 3 constructions  sur pilotis à 2 étages dont l’une  est située jusque derrière  l’entrée et les deux autres dépendances  sont opposées entre elles et forment avec la première  un angle droit. Tout est fait en bois précieux (planchers, cloisons, colonnes etc…) avec la toiture toujours en tuiles Yin et Yang.

Il y a au moins 64 pièces et   trois cours intérieures. Grâce à l’ajout de de deux donjons en pierre  à l’arrière de cette résidence, celle-ci est appelée souvent sous le nom « château ».  À l’époque où le roi des Hmong était en vie, il y avait plus de 100 personnes qui étaient logés dans cette résidence, y compris ses 3 femmes et ses enfants. 

Vue prise de l’entrée de la résidence jusqu’au fond à travers les cours

Maison principale avec ses deux dépendances opposées

Ai có đến Hà Giang thì cũng có dịp đến tham quan nhà của vua Mèo Vương  Chính Đức. Được tọa lạc cách Đồng Văn gần hai chục cây số ở giữa lòng một thung lũng thuộc địa phận xã Sa Phìn. Theo lời  đồn, Vương Chính Đức chọn nơi nầy vì ở đây có một khối đất được xem như là cái mai rùa khiến sẻ  có sự nghiệp tốt đẹp cho ông và con cháu theo cái nhìn quan sát của các nhà rành về phong thủy. Dựa trên mẫu nhà của Yamen Manchu (những dinh thất của các quan dưới thời đại nhà Thanh) và  được xây cất  ở độ cao 1600 thước vào các năm 1920 với một diện tích 3000 mét vuông, dinh thự nầy là một kiệt tác kiến trúc, một hỗn hợp tinh vi của nghệ thuật truyền thống của người Hmong, người Hoa và người Pháp. Thế cũng phải  mất 8 năm xây dựng nhọc nhằn bỡi những người thợ chuyên môn đến từ Vân Nam và Đồng Văn. Dinh thự  nầy gồm có 3 tòa nhà mà nhà chính thì được tọa lạc ngay sau cửa vào và hai nhà phụ thì đối diện với nhau và tạo với nhà chính các góc vuông.

Tất cả đều được làm bằng gỗ qúy từ sàn nhà cho đến cột trụ qua đến vách ngăn.  Tất cả mái nhà  nơi nầy đều được lợp với ngói âm dương. Có ít nhất 64 phòng và ba sân  nội.  Nhờ thêm hai vọng lâu xây  bằng đá ở phiá sau dinh thự mà dinh nầy thuờng được gọi là lầu đài.   Dạo thời vua Mèo còn sống thì có hơn một trăm người sống ở đây kể luôn ba bà vợ  của ông và các con cháu.

Based on the model of a Manchu Yamen (a mandarin’s residence during the Qing dynasty) and built in the 1920s at an altitude of 1600 meters over an area of 3000 m², this magnificent residence is a beautiful architectural work, a subtle blend of traditional Hmong, Chinese, and French art. It still required 8 years of hard work by laborers coming from Yunnan and Đồng Văn. It is composed of 3 two-story stilt buildings, one of which is located right behind the entrance, and the other two outbuildings are opposite each other, forming a right angle with the first. Everything is made of precious wood (floors, partitions, columns, etc.) with the roof always covered with Yin and Yang tiles.

Passing through Hà Giang, one has the opportunity to visit the fortified palace of the Hmong king Vương Chính Đức. It is located about twenty kilometers from Đồng Văn in the heart of the Sa Phìn commune valley. According to legend, Vương Chính Đức chose this location because there is a block of earth resembling a turtle shell, which provides a good position for him and his descendants according to geomancers.

There are at least 64 rooms and three inner courtyards. Thanks to the addition of two stone towers at the back of this residence, it is often called a « castle. » At the time when the Hmong king was alive, more than 100 people lived in this residence, including his 3 wives and children.

Galerie des photos

palais_roi_hmong

[RETOUR]

Nghệ thuật ẩm thực của người Việt

amthucvn

French version
English version

Người dân Việt rất chú trọng nhiều về nghệ thuật ẩm thực  nhất là các món ăn hằng ngày. Việc ăn uống nó trở thành một điều tất yếu  quan trọng trong cuộc sống và văn hóa của người dân Việt. Cũng không có gì phải ngạc nhiên khi một số từ họ thường dùng đều có chữ ăn dù biết rằng các từ nầy không có liên quan mật thiết  đến chữ ăn. Trong các  từ nầy, thường thấy chăng hạn: ăn nói, ăn mặc, ăn ở, ăn tiêu, ăn ngủ, ăn gian, ăn hối lộ, ăn hiếp vân vân … Chúng ta thường nghe : Trời đánh tránh bữa ăn để nói lên ông Trời có giận dỗi đi nữa cũng phải tránh quấy rầy buổi ăn của người dân Việt.

Các thức ăn của họ được chế biến một cách kỹ lưỡng theo thuyết Âm Dương Ngũ Hành, một cơ bản chủ yếu của nền văn minh Văn Lang. Âm Dương là biểu tượng của hai thực thể vừa đối lập và bổ sung của vạn vật trong vũ trụ. Thuộc về Âm tất cả những gì có tính chất  lỏng, lạnh, ẩm, thụ động, nội hay bản chất nữ tính như trời, mặt trăng, tối, nước và mùa đông. Ngược lại thuộc về Dương tất cả những gì có tính cứng, nóng, khô, năng động, ngoại, hay bản chất nam tính như đất, mặt trời, sáng, lửa và mùa hè. Con người thường được xem là dấu gạch nối giữa hai thực thể đó hay nói đúng là giữa  Trời (Âm) và Đất (Dương). Sự hài hoà có thể có được nhờ sự thăng bằng mà con người mang lại cho môi trường, vũ trụ và trong  cơ thể của con người. Qua  cách thức chế biến tỉ mỉ chu đáo và cá biệt trong mối quan hệ biện chứng của thuyết âm dương,  các món ăn của người Việt  còn biểu lộ  được sự tôn trọng truyền thống văn hóa đã có cả nghìn năm của một nước nông nghiệp và một nền văn minh rực rỡ với kỹ thuật trồng lúa nước. Chính vỉ thế mà gạo không thể thiếu trong một buổi cơm của người  Việt. Chính gạo là phần chủ yếu của các món ăn của người  Việt:   bánh cuốn, bánh xèo, phở, bún , bánh tráng, bánh chưng vân vân. Gạo có thể chỉ xay bỏ vỏ trấu (gạo lứt), dài, tròn, ghiền, thơm hay nếp (không có gluten) vân vân…  Còn hơn là một thức ăn, gạo là bằng chứng xác thực của người dân Việt thuộc về đại tộc Bách Việt và cũng là dấu ấn còn lại của một nền văn minh không bị hũy diệt   dưới sự thống trị lâu dài của người Hoa.

Âm Dương trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt

Cách thức ăn uống của người dân Việt cũng không ngoài lệ với  việc tìm kiếm cái trung dung mà được ca tụng trong lý thuyết Âm Dương. « Ngồi ăn chung » thường đòi hỏi phải có sự  kính  nể và trình độ văn hóa  trong nghệ thuật ăn uống bỡi vì có sự tương thuộc hiển nhiên giữa những người  thực khách  trong việc chia sẻ thức ăn và không gian. Chính vì vậy mà người ta thường nói:  Ăn trông nồi , ngồi trông hướng. Không những thận trọng để ý nồi cơm mà còn phải chú ý đến hướng khi ngồi vào ăn. Đó là  câu châm ngôn mà cha mẹ người Việt thường nói với các con khi lúc còn nhỏ. Phải biết xử sự cho đúng với hai chữ trung dung khi được mời ăn. Không được ăn mau quá vì sẻ bị xem như  vô lễ mà cũng không dược ăn chặm quá vỉ để người khác phải chờ đợi. Cũng không thể ăn hết các thức ăn hay cơm trong nồi vì thể hiện quá đỗi  sự tham ăn. Ngược lại ăn ít  quá thì sẻ bị xem như là người thiếu lịch sự nhất là có thể làm phật ý chủ nhà. Cái thái độ thận trọng nầy thường được nhắc nhở qua câu tục ngữ nầy: Ăn hết bị đòn, ăn còn mất vợ. Chính vì vậy người dân Việt phải cố kiên trì   tìm kiếm  cho mình với sự khéo léo cái cân bằng nầy của lý thuyết Âm Dương  trong bữa cơm.  Tính cách đa dạng trong  các  thức ăn mà người  Việt  biến chế,  cũng  thể hiên rỏ ràng sự dồi dào phong phú của  các nguyên liệu.  Trong bữa cơm, thường có rất nhiều thức ăn, màu sắc  và hương vị  chung quanh bát cơm ý là chưa kể đến sự biểu lộ của ngũ giác quan mà  đuợc cảm nhận như sau:  

Khứu giác : từ các mùi thơm ngào ngạt  của các thức ăn.

Thị giác: tìm thấy qua các  màu sắc của các nguyên liệu trong việc chế biến thức ăn.

Vị giác: cảm nhận được các vị truyền thống: mặn, ngọt, chua, cay và đắng trong các thức ăn.

Thính giác: thu nhận được tiếng động khi uống trà hay ăn canh.

Xúc giác:   cảm giác được khi dùng các đôi đũa.

Với  vài món ăn như gà nướng, gà luộc, gỏi cuốn , việc dùng tay rất được thích hợp. Phần đông người Tây Phương thường quen nghỉ rằng  văn hóa dùng đũa thuộc về người Hoa. Tuy nhiên nó là sản phẩm của cái nôi  văn hóa trồng lúa được  tọa lạc ở Đông Nam Á. Chính nhà sử gia Trung Hoa , ông Đàm Gia Kiện công nhận  trong quyển sách tựa đề : Lịch sử văn hóa Trung Hoa (1993, trang 769).

Nhớ lại trước  thời kỳ Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, người Hoa vẫn còn ăn bốc thức ăn với tay. Đây là một truyền thống thường thấy ở các dân tộc sống trồng kê, mạch và ăn bánh bao thịt. Họ chỉ biết dùng đũa khi họ mở mang bờ cõi trong cuộc nam tiến. Sự khẳng định nầy nó được xác nhận lại qua các cuộc khám phá gần đây. 

Các đôi đũa nầy chỉ làm ra được từ những vùng có nhiều tre.  Chỉ có vùng phía nam Trung Quốc và Đông Nam Á.  Đũa là công cụ thô sơ được chế biến theo hình giống mỏ chim để có thế bắt lấy dễ dàng hột gạo hay cá và tránh việc bẩn tay với các món ăn có nước (súp, cháo, nước  mắm vân vân …). Người ta tìm thấy ở nơi người dân Việt một triết lý giản dị và hóm hỉnh trong việc dùng đôi đũa.  Đôi đũa thường được xem như cặp vợ chồng:
Vợ chồng như đôi đũa có đôi
Bây giờ chồng thấp vợ cao như đôi đũa lệch so sao cho bằng.

Dưới thời nhà Lê, việc bẻ gãy đôi đũa đồng nghĩa với hai chữ ly dị.  Thà có một bà vợ ngây ngô hơn là có một cặp đũa cong vòng.  Chính vì vậy ta thường nghe qua tục ngữ nầy như sau : Vợ dại không hại bằng đũa vênh

Ngoài tính cách nhanh nhẹn và linh hoạt trong việc dùng đũa, người ta không thể quên tính cách tập thể mà thuờng gán cho đũa. Thông thuờng người ta ám chỉ bó đũa để nhắc đến sự đoàn kết. Tục ngữ : Vơ đũa cả nắm phản ánh cái ý niệm nầy khi người ta muốn chỉ trích người nào hay gia đình của họ từ một cuộc tranh cãi hay thảo luận nào không cần biết tính cá biệt.

Trong cách thức ăn  uống, người dân  Việt vẫn coi trọng sự thăng bằng  của lý thuyết Âm Dương. Một bữa cơm ngon  phải thích hợp với  các tiêu chuẩn mà thường phụ thuộc lẫn nhau:

Nó phải phù hợp với khí hậu. Nó không thể nói là ngon dù có những món ăn thú vị.
Nó phải ở nơi nào và có một bầu không khí thỏa mái nếu không nó cũng không ngon.
Nó phải chia sẻ với các người bạn thân thiết nếu không chữ ngon cũng không thể gán cho nó.

Từ các tiêu chuẫn  được nêu ở trên đây, một bữa cơm ngon  không nhất thiết phải có thức ăn nhiều.  Đôi khi tìm thấy ít ỏi thức ăn trong bữa cơm ngon. Đó là bữa cơm của người nghèo mà sự kết hợp khéo léo các rau thơm khiến   giữ được một vai trò  quan trọng trong bữa cơm ngon. Việc tìm kiếm sự thăng bằng thích đáng trong lý thuyết âm dương thường được được nêu lên biểu lộ hiển nhiên trong các món ăn, cơ thể con người và giữa người và môi trường. Trong nghệ thuật ẩm thực, 3 điểm quan trọng sau đây được nêu lên:

1°) Sự thăng bằng Âm Dương trong các món ăn.

Dựa trên cách phận loại mà người Việt  thiết lập theo ngũ hành của Âm Dương thì mới nhận thấy được người Việt   rất chú ý  đến chuyện phân biệt các món ăn: hàn  (Nước), nhiệt (Hỏa), ôn (Mộc), lương (kim) và bình (Thổ). Họ  lưu ý đến  chuyện  bù đấp tương tác và kết hợp của các nguyên liệu và  gia vị trong việc chế biến  các thức ăn. Có một bản liệt kê  rau cỏ và gia vị   được ghi nhận lại   nhờ các công thức nấu ăn của người  Việt.  Được  dùng để trị các chứng bệnh phong hàn (ho, cúm vân vân ..),  gừng  (thuộc về Dương)   thường thấy được xử dụng nhiều  ở trong các món ăn có xu hướng mang tính chất hàn (lạnh): bí đao, cải bắp,  rau cải hay cá. Ớt (thuộc về Dương) có hương vị cay  thường được dùng ở các món ăn  có xu hướng mang tính chất lạnh hay ôn (hải sản, cá hấp vân vân…). Nguời ta có thói quen ăn trứng gà hay vịt lộn   (thuộc về Âm) nên thường  ăn với rau răm (thuộc về Dương). Cũng như dưa hấu (thuộc về Âm)  thường ăn lúc nào cũng có muối (thuộc về Dương).  Nước chắm  đặc biệt của người dân Việt vẫn là nước mắm. Trong cách pha nước mắm, thường thấy có 5 hương vị được xếp theo ngũ hành của Âm Dương: mặn với nước mắm, đắng với vỏ chanh, chua với nước chanh hay  giấm,  cay với ớt ghiền nát hay thái nhỏ và ngọt với đường bột.  Năm mùi  vị (mặn, đắng, chua, cay, ngọt) nầy  phối hợp và  được tìm thấy trong nước mắm tương ứng hoàn toàn với 5 hành chỉ định trong lý thuyết Âm Dương (Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ).

2°) Sự thăng bằng Âm Dương  trong cơ thể con người.

Các thức ăn  người Việt   dùng thường được xem như là một vị thuốc hữu hiệu với chủ đích để bổ khuyết  loạn năng gây ra bỡi sự thiếu thăng bằng Âm Dương trong cơ thể con người. Đối với người Việt,  kịch bản mà thường thấy ở trong tạo hóa hay tái diễn lại trong cơ thể của họ.  Khi một bộ phận có « âm » nhiều quá thì con người sẻ cảm nhận có sự suy giảm chuyển hóa sinh lý ngay (cảm giác lạnh,  nhỉp tim chậm lại, tiêu hóa khó khăn vân vân…). Còn ngược lại nếu có « dương » nhiều quá thì sẻ có sự tăng nhanh  chuyển  hóa sinh lý (cảm giác nhiệt nhiều,  nhịp tim đập mau, sự tăng động thất thường thể xác hay trí tuệ vân vân…). Bỡi vậy cần có lại  sự thăng bằng  Âm Dương để duy trì cuộc sống và đảm bảo sức khỏe. Để khôi phục lại sự thăng bằng nầy, một người bệnh có nhiều « âm » quá phải cần dùng các thức ăn có tính chất dương. Ngược lại với một người bệnh có « dương » nhiều thì phải chửa bệnh với các thức ăn mang nhiều tính chất « âm ». Đối với người Việt , ăn tức là tự chữa bệnh. Nguời bị chứng táo bón ( bệnh thuộc về dương)  được khỏi bệnh với các thức ăn có tính chất âm (chè đậu, chè đậu xanh vân vân …). Nguợc lại bị tiêu chảy hay đau bụng (bệnh thuộc về âm) thì chỉ trị có hữu hiệu với các thức ăn có nhiều gia vị (gừng, riềng vân vân mang tính chất dương). Người bị cảm lạnh chỉ tìm được giải pháp qua một tô cháo có nhiều khoanh gừng.

3°) Sự thăng bằng Âm Dương với môi trường.

Người  dân Việt hay thường nói : Ăn ở theo mùa. Câu tục ngữ nầy phản ánh thái độ của người dân Việt lúc nào cũng muốn có sự hài hòa với thiên nhiên và môi trường  trong các thức ăn. Mùa hè nóng nực  thì có rất nhiều rau cỏ, hải sản và cá. Người  Việt thường thích cá và rau cỏ.  Họ quen nấu nước để luộc rau, làm dưa hay làm gỏi. Các món ăn có nước cũng được ưa chuộng nhất là phở, món ăn truyền thống của người dân Việt. Các vị đắng và chua cũng không thể thiếu  được trong thức ăn của người Việt. Đó là  món canh chua  thường  được nấu với cá hay tôm, me (hay dứa) và cà chua.  Nguợc lại  với mùa đông, để chống lạnh,  người Việt  thích ăn thịt và các món ăn thường  có mỡ (thuộc về Dương).  Việc sử dụng các dầu thực vật hay động vật  và nhiều thứ gia vị như gừng, ớt, tỏi, tiêu vân vân … cũng  không ít. Rim thịt với nước mắm,  xào hay rán là những phương pháp nấu chín thường thông dụng và đáp ứng với sự thay đổi thời tiết. Việtnam là một nước nhiệt đới (thuộc về Dương) nên có rất nhiều món ăn mang tính chất «lạnh ». (thuộc về Âm). Đây là sự nhận xét mà ông tổ của ngành y học cổ truyền Việtnam, Hải Thương Lãn Ông (Lê Hữu Trác) có dịp ghi lại trong quyển sách mang tên là Nữ Công Thắng Lãm. Trên 120 thực phẩm liệt kê, ông đã  chứng minh có  một trăm thực phẩm có tính chất Âm.  Sự nhận xét nầy  làm sáng tỏ sự ưa thích hiển nhiên của người Việt với  các món ăn có tính chất Âm trong cấu trúc ăn uống truyền thống   và sự quan tâm của họ trong việc tìm kiếm thăng bằng với môi trường và thiên nhiên.

Ở Tây Phương,  số  người thích ăn  các món ăn việt càng ngày càng nhiều.  Ngược lại các món ăn ngoại quốc mà nước sốt  giữ một vai trò quan trọng,  các món ăn việt chỉ dùng rất nhiều các rau cỏ và gia vị mà còn được xem là  các món ăn nhẹ nhàng và   dễ tiêu.  It mỡ so với các món ăn của người Trung Hoa nhưng nhờ  có nét độc đáo và  tinh tế nên  cũng có  được đến 500 món ăn mà mọi người  biết nhiều  nhất là món  chã giò hay nem. 

Chính trong các món ăn việt nầy người ta tìm thấy không những  sự hài hoà của các hương vị và các biến đổi tinh tế chung quanh bát cơm mà còn có sự hòa hợp sâu sắc và mật thiết với thiên nhiên và môi trường. 

Âm Dương  không mất đi sinh lực  cũng như

người dân Việt tâm hồn và khí chất.

 

La bourgade de Đồng Văn (Phố cổ Đồng Văn)

Version française
Version anglaise
Galerie des photos

Nằm ở giữa lòng thung lũng của cao nguyên đá Đồng Văn, phố nầy lúc ban đầu có khoảng chừng 40  cái nhà mà thôi. Khu phố nầy được thành hình vào đầu  thế kỷ 20 dưới chân núi  với vài gia đình người Hmong, người Tày và người Hoa. Bởi vì được xây cất với các thợ  được thuê đến từ Tứ Xuyên nên các nhà ở đây mang dấu ấn  khá  sâu đậm của người Hoa qua lối kiến trúc hai tầng trình tường, mái  ngói âm dương và trước cửa nhà có đèn lồng treo cao. Nay trở thành một địa điểm quan trọng mà du khách không thể bỏ qua được khi đến Hà Giang. Nhà cửa ở đây cũng xây cất lại, nhà trọ cũng có nhiều, giá cả cũng  phải chẵn, du khách ngoại quốc nhất là dân đi phượt cũng đông cuối tuần và thích ngủ nhà sàn.

Rất tiếc chiều hôm đó, mưa quá to nên chụp hình không được nhiều. Chỉ sáng hôm sau, trời lại nắng nên mới có vài tấm ảnh để lưu niệm nhưng cũng có dịp viếng thăm một nhà cổ của người Hmong nay thành nhà trọ và có dịp chứng kiến cách thức dùng nước suối rửa cây linh (lin)  trước khi dệt vãi.  Đi miền núi như mình rất mệt nhưng  học hỏi rất nhiều về tập quán nhất là Hà Giang có đến 22 dân tộc thiểu số  và rất thích thú trong cuộc hành trình nầy. 

Située au cœur de la vallée du plateau karstique de Đồng Văn, cette bourgade avait  seulement au moment de sa construction  une quarantaine de maisons.  Elle prit forme au début  du XXème siècle au pied des montagnes rocheuses avec quelques familles Hmong, Tày et Hoa (ou Chinois).  Comme ses maisons ont été construites par des ouvriers recrutés  venant de Sichuan, cette bourgade continue à garder  une  profonde empreinte chinoise à travers son architecture typique à deux étages, son toit avec des tuiles tubulaires âm dương (Yin-Yang) et ses lampions suspendus devant l’entrée.

Aujourd’hui, elle devient un passage obligatoire pour ceux qui visitent Hà Giang.  La plupart de ses maisons sont rénovées et ses « homestay » (logement chez l’habitant) sont nombreux avec un prix assez raisonnable. Les touristes étrangers  sont en majorité des routards ou des gens aimant l’aventure de l’extrême et préférant dormir dans des maisons sur pilotis   et ils sont nombreux à la fin de la semaine.   

C’est regrettable pour nous d’avoir la pluie torrentielle le soir de notre arrivée. C’est seulement le lendemain avec le retour du soleil que je peux faire quelques photos ci-dessus. J’ai aussi l’occasion de visiter une vieille maison devenant aujourd’hui un  « logement chez l’habitant » et d’apprendre la façon de laver le lin avec l’eau de source  avant le tissage des vêtements pratiqué par les Hmong.  L’excursion à la montagne est épuisante   mais elle me permet d’avoir des choses à apprendre en particulier les coutumes et les traditions lorsque la région Hà Giang a 22 minorités ethniques. Je suis très content de ce voyage mémorable. 

La bourgade Đồng Văn au fil de la nuit.

Laver le lin avant le tissage des vêtements par les Hmong.

Located in the heart of the Đồng Văn karst plateau valley, this small town had only about forty houses at the time of its construction. It took shape at the beginning of the 20th century at the foot of the rocky mountains with some Hmong, Tày, and Hoa (or Chinese) families. Since its houses were built by workers recruited from Sichuan, this town continues to retain a strong Chinese influence through its typical two-story architecture, its roof with âm dương (Yin-Yang) tubular tiles, and its lanterns hanging in front of the entrance. Today, it has become a must-visit stop for those visiting Hà Giang. Most of its houses have been renovated, and its homestays are numerous with quite reasonable prices. The majority of foreign tourists are backpackers or people who love extreme adventure and prefer to sleep in stilt houses, and many of them come at the end of the week.

It is unfortunate for us to have torrential rain on the evening of our arrival. It is only the next day, with the return of the sun, that I can take some photos above. I also had the opportunity to visit an old house that has now become a « homestay » and to learn how to wash flax with spring water before weaving clothes, a practice of the Hmong. The mountain excursion is exhausting, but it allows me to learn many things, especially the customs and traditions since the Hà Giang region has 22 ethnic minorities. I am very happy with this memorable trip.

 

bourgade_dong_van

[RETOUR]

Hà Giang, vẽ đẹp của miền sơn cước

 


Version française
Version anglaise
Galerie des photos

Nằm ở vùng núi phía Bắc Vietnam, Hà Giang là một tỉnh có nhiều núi rừng, giáp ranh giới vói tỉnh Vân Nam của Trung Quốc. Dân số ở nơi nầy rất thưa, chỉ có khoảng chừng 900.000 người theo điều tra dân số năm 2016. Tuy nhiên chính ở nơi nầy tụ hơp rất nhiều dân tộc thiểu số (22 dân tộc) trong đó đáng kể nhất là người Hmong (hay Miêu) tiếp đó người Tày, người Dao và người Nùng. Đến đây mới thấy được cái đẹp tư nhiên của tạo hóa, cái hùng vĩ của non nước, cái nhọc nhằn, công lao của ông cha ta gìn giữ bờ cõi đất nước trước hiểm họa của người phương bắc. Chính cũng ở nơi nầy mới có cảm xúc nhiều khi lặn lội trèo lên 389 bậc thang ở đỉnh Lũng Cú mà thường được gọi là đỉnh núi Rồng (Long Sơn) (1700 mét), nơi mà danh tướng Lý Thường Kiệt phá Tống bình Chiêm dựng lên lúc ban sơ cây cột cờ để khẳng định chủ quyền Vietnam trên mãnh đất nầy.

Tuy Hà Giang nó rất còn hoang sơ của miền sơn cước nhưng nó có cái gì thiêng liêng mà không thể diễn tả được khi đến với mãnh đất nầy. Tôi còn nhớ trước ngày đi đến, ai cũng khuyên không nên đi vỉ tuần trước đường xá sạt lở vì bão Sơn Tinh. Có thể nguy hiểm cho tánh mạng và có thể hủy đi lịch trình Hà Giang khiến tôi sẻ mất một tuần ở Vietnam nhưng rồi tôi cũng quyết tâm đi cùng các con cháu. Tôi mới có dịp nhìn thấy được nét đẹp của Hà Giang, đến tham quan cao nguyên đá Đồng Văn mà cơ quan UNESCO chín thức công nhận là Công Viên địa chất toàn cầu đầu tiên của Vietnam và thứ hai ở Đông Nam Á sau Langkawi (Mã Lai)  vào năm 2010.

Hôm đi, không có gì trở ngại cả, cứ lấy quốc lộ 2 đến Tuyên Quang rồi sau đó đến thành phố Hà Giang nghỉ một đêm ở một khách sạn trong thành phố Hà Giang. Trên đường, có một quán bán nước mía không thấy có ruồi chi cả dù có bã mía rất nhiều trong thùng rác. Thấy vậy tôi,  các con cháu và cháu  tài xế mới mua uống  mỗi người một ly. Hai vợ chồng bán nước mía nầy họ trồng sau vườn các bụi mía. Thât ngon và sạch nhất là ở đất nầy không thấy có  ruồi có lẽ tại khí hậu của rừng núi và dân số quá thưa. Lâu lắm rồi mới uống được một ly nước mía trong sạch chớ bao giờ dám uống mỗi lần vê Việtnam. 

Chiều đó  còn được một cặp vợ chồng bạn con dâu mình mời và  đãi một buổi cơm với món ăn đặc trưng ở Hà Giang là lẩu ngựa. Ăn kèm theo rau rừng, mùi vị béo ăn cũng không ngán để làm ấm lại con người khi  không gian thời tiết se lạnh hay mưa rỉ rả trong đêm. Sáng sớm mưa vẫn rơi, tụi nầy tiếp tục hành trình đi Đồng Vạc với quốc lộ 4C, mình hơi lo, cứ nhủ thầm trong lòng, cứ  sương mù xuống nửa lừng đồi thêm mưa rỉ rả  như vầy  thì chuyện chụp hình của mình cũng hỏng chưa nói chuyện sạt lở đất ở giữa đường đi, đôi khi có một  tảng đá to lớn vài tấn nằm bên hông đường. Không có chỉ dẩn rõ ràng chi cả có đi đuợc hay không, cháu tài xế Minh cứ lẳng lặng lái xe.

Chính nhờ  sự bình tĩnh cũa Minh và tính tiền định có ở nơi người con Việt mà sự  lo âu của mình cũng dần dần biến mất nhất là có những đọan đường không có mây đen trời lại nắng khiến mình mãi mê chụp hình mà quên tất cả. Nhưng có những đoạn đường quanh co nguy hiểm đến đổi phải sửng sốt đèo nầy qua thì đèo khác tới khiến làm ai cũng mệt  nhất là chỉ có tổng cộng hơn 200 cây số mà 6, 7  tiếng đồng hồ phải mất .  Mệt thì có mệt nhưng với không gian yên tĩnh, con người hiền hòa của vùng sơn cước thì  cũng nên cần có  chớ không như ở Saïgon hay Hànội  cái ồn ào ầm ĩ của tiếng kèn, cái không gian sôi động không ngừng. 

Cũng không có trộm cắp như các đô thị khác theo lời kể của cháu tài xế. Cụ thể là gà, vịt, trâu và bò vẫn ngẩn ngơ do dự   từng bước  sang ngang trên quốc lộ mà tất cả xe lớn xe nhỏ phải tránh và dù tụi nó  xa nhà của chủ nhân có cả cây số. Cũng không ai dám cán  chúng nó vì sợ chủ nhân đòi đền gấp  nhiều lần hơn. Dọc theo quốc  lộ,  lúc nào cũng thấy các cánh đồng ngô xanh của dân tộc Hmong. Họ rất giỏi về làm ruộng. Bởi vậy từ thưở nào người Trung Hoa  dùng chữ  tựơng hình điền  thêm trên đầu  chữ  tượng hình thảo (lúa)  ám chỉ nguời Hmong 苗 hay Miêu, những người  giỏi về canh tác đấy. 

Cũng đúng thôi vì nhìn  trên tản đá chỉ cần một tí đất là  cây ngô có thể chồi ra dễ dàng. Đôi khi dọc theo đường nhìn sâu qua kiến xe có một  hay hai cái nhà của người Hmong nằm cheo leo sườn núi không biết họ xây dưng làm sao và đi thể nào để vào đó.  

Cũng có phần  may mắn khi  đến Đồng Văn có một nhà trọ mới sửa ở phố cổ nên tụi nầy được trọ đêm thứ nhì ở  đây. Mưa vẫn rơi tầm tã nên đèn đuốc cũng lờ mờ, không có trông đẹp như Hội An, Phố cổ Hànội. Có lẽ tụi nầy đến giữa tuần nên không có nhộn nhịp như lúc cuối tuần. Sáng ngày thứ ba, tụi nầy mới có dịp ăn điểm tâm ở đây, ăn bánh cuốn trứng  Đồng Văn, đặc sản ở  miền sơn cước.

Nó cũng được tráng từ bột gạo và nhân làm từ lợn xay ra, chỉ có khác là thay vì ăn kèm với nước mắm pha chanh đường thì họ dùng với nước hầm (ninh) xương kèm theo hai chiếc giò lụa nhỏ.  Mình chỉ  thấy có một hương vị đặc biệt nhưng vì có mỡ của xuơng nên ăn dễ  ngán lắm. Có lẽ là một cách ăn để ấm lòng và  xua đuổi cái lạnh của rừng Tây Bắc cũng như ở Pháp thường ăn bơ với mùa đông. Sau đó tụi nầy  đi một vòng ở phố cổ Đồng văn, mới có dịp nhìn thấy được cách thức rửa cây lin  mà người Hmong dùng để  dệt vãi  với nước suối trước khi đi tham quan đỉnh Lũng Cú và nhà vua Mèo Vương Chính Đức.  Biết bao nhiêu kỷ niệm khó quên và cảm xúc không ít với ba ngày ở Hà Giang nhất là có các con cháu bên cạnh, lúc nào cũng trơ lực  trong chuyến đi nầy từ Hà Giang đến Cà Mau, hai cái mốc của đất nước cách xa  1535 cây số.

Située dans la région montagneuse du Nord Vietnam, Hà Giang est une province partageant la frontière commune avec  la contrée du sud-ouest de la Chine, Yunnan. Sa population est peu dense et estimée à peu près de 900.000 habitants selon la statistique démographique en 2016. Pourtant c’est une région où il y a la concentration importante  des ethnies minoritaires du Vietnam (22 ethnies) parmi lesquelles il faut citer d’abord les Hmongs suivis par les Tày, les Dao et les Nùng. C’est ici qu’on découvre la beauté extraordinaire du Créateur,  la nature grandiose et magnifique du Vietnam fascinant, le labeur et le mérite de nos ancêtres dans l’action de résister à la menace des gens du Nord. C’est ici seulement qu’on ressent une émotion intense lorsqu’on grimpe les 389 marches de l’escalier en pierre de la colline Lũng Cú qu’on est habitué à appeler la « colline du Dragon » à 1700 mètres d’altitude. C’est ici aussi que le général vainqueur  des Song et pacificateur du Chămpa  Lý Thường Kiệt a édifié au début un mât en bois de quelques mètres pour affirmer  avec intransigeance la souveraineté du Vietnam sur ce territoire.

Bien que ce dernier ait l’air d’une région montagneuse  sauvage et difficilement pénétrable, il y a quelque chose sacrée que je n’arrive pas à décrire en venant ici. Je rappelle bien que la veille de mon départ, tout le monde m’a recommandé d’abandonner le projet de visiter Hà Giang  car elle a été dévastée la semaine précédente par la tempête « Sơn Tinh« . Cela pourrait provoquer des ennuis pour moi et me faire perdre une semaine de vacances au Vietnam. Malgré cela, je continue à persister dans le dessein d’y aller. J’ai ainsi l’occasion d’admirer le charme irrésistible  de Hà Giang et de visiter le plateau karstique Đồng Văn que la fondation  UNESCO a reconnu comme le deuxième parc géologique de l’Asie du Sud Est après celui de la Malaisie (Langkawi) en 2010.

Nous  n’avons  aucun souci le jour du départ. Nous  n’avons  qu’à prendre la route nationale n°2 pour aller à la ville Tuyên Quang avant de rejoindre ensuite  la ville Hà Giang pour passer la nuit à l’hôtel.  Sur la route, nous avons l’occasion de rencontrer un kiosque  détenu par un couple et spécialisé dans la vente du jus de canne à sucre. Nous constatons  qu’il n’y a pas de mouches aux alentours malgré la présence d’une poubelle remplie de déchets de canne à sucre broyés. Nous pensons que le climat joue un rôle important et la démographie n’est pas importante. Nous sommes tentés, chacun  de prendre un verre de jus de canne à sucre. C’est extrêmement délicieux car jusqu’à ce jour je n’ose pas à le prendre quand je reviens au Vietnam.

Le soir  même, nous sommes invités par un couple d’amis de  ma belle-fille Oanh dans un restaurant connu pour sa spécialité locale (lẫu ngựa)(ou fondue vietnamienne de viande de cheval). Accompagné par les légumes de la région montagneuse, ce plat ayant la saveur grasse ne nous dégoûte pas mais il nous réchauffe tellement  lorsque le temps commence à se refroidir et la pluie est sporadique durant toute  la nuit. Le lendemain, la pluie continue à tomber toujours. Malgré cela, nous prenons   la route nationale 4C  en direction de Đồng Văn. 

L’inquiétude commence à m’envahir car si le brouillard continue à s’épaissir de plus en plus à mi-hauteur de la colline avec la pluie persistante comme celle de la nuit, l’idée de faire les photos  serait tombée à l’eau sans  évoquer les dégâts causés sur la route par la dernière tempête ( plusieurs  gros bloc de pierre de plusieurs tonnes  étant souvent visibles au bord de la route). Aucune indication n’est fournie pour connaître la praticabilité de la route ou non. Notre chauffeur Minh continue à conduire avec assiduité sans être inquiété par l’absence de l’indication.

C’est grâce à son calme et à l’attitude fataliste reçue des Vietnamiens  que mon inquiétude s’estompe au fil de la journée. Sur certains tronçons de la route,  le retour du soleil m’incite  à tout oublier et à me  consacrer entièrement  à  faire des clichés. Par contre il y a des tronçons de route très dangereux et tellement sinueux que cela nous rend tous fatigués. Pour 200 kilomètres de trajet, il faut compter au minimum 6 ou 7 heures de route. Malgré cela, nous sommes contents d’avoir cet espace tranquille et  les gens gentils et  aimables de la région montagneuse au lieu de retrouver à Saïgon ou à Hanoï le bruit incessant des klaxons et l’espace tellement animé et pollué.

Selon le chauffeur Minh, il n’y a pas non plus le vol comme on le trouve dans les villes.  Les poulets, les canards,  les buffles ou les bœufs hésitant dans leur marche peinent à  traverser la route sans que leur propriétaire s’inquiète de les perdre même s’ils sont loin de leur enclos.

Personne n’aime à les écraser car il faut payer  un prix très fort au propriétaire. Sur le bord de la route, on trouve souvent les champs de maïs des Hmong. Ils sont experts dans le domaine de la culture. C’est pourquoi les Chinois se servent depuis longtemps du pictogramme  điền   (champ) au dessus duquel est ajouté  le pictogramme thảo  (riz paddy) pour désigner les Hmong (ou Miêu), les gens doués pour la culture du sol.

C’est ce que nous constatons en découvrant de près sur une roche garnie d’une  petite motte de terre l’apparition d’une plante de maïs. Parfois à travers la vitrine de la voiture, nous  découvrons au loin  une ou deux maisons des Hmong perchées  sur le flanc de la montagne. On se demande comment arrivent-ils à les construire et à y accéder?

Nous avons la chance de passer la deuxième nuit  à Đồng Văn  dans un homestay récemment rénové au centre de la vieille ville. La pluie continue à tomber le soir. C’est pourquoi aucune attraction n’a lieu et les lampions sont clairsemés par rapport à ceux de Hội An et de la vieille ville de Hànội. Du fait que nous sommes arrivés au milieu de la semaine, nous ne trouvons aucune   animation organisée fréquemment  en fin de la semaine. Le matin du  troisième jour, pour prendre le petit déjeuner,  nous cherchons de bonne heure un restaurant spécialisé dans la préparation d’une crêpe à l’œuf (bánh cuốn trứng)  typique de Đồng Văn.

 Étant une spécialité de la région montagneuse, cette crêpe  est faite à partir de la farine de riz et de la viande hachée et se déguste  en la trempant  dans une sauce mijotée à petit feu avec des os de porc et accompagnée toujours par deux petits morceaux de pâté de viande.  Ce plat a une saveur particulière mais à cause de la consistance graisseuse de la sauce, il est difficile de renouveler l’envie.   

C’est peut-être la façon de se réchauffer et d’évacuer le froid provenant de la forêt Nord-Ouest comme en France  on est habitué à manger du beurre en hiver. Nous allons faire ensuite un tour à Đồng Văn. Nous avons l’occasion de voir la façon des Hmongs de laver  le lin avant de s’en servir pour le tissage de leurs vêtements avec l’eau de source. Puis    nous visitons  la colline Lũng Cú et le palais fortifié du roi des Hmongs Vương Chính Đức. J’ai tellement des souvenirs et des moments d’émotion intense qu’il est difficile de remémorer pour ces trois jours de visite à Ha Giang en  compagnie de  mes enfants et de mon petit-fils qui ne cessent pas de me soutenir dans ce projet depuis le début jusqu’à la fin de ce voyage inoubliable. (de Hà Giang jusqu’à la pointe de Cà Mau, 1535 km à parcourir).

English version

Located in the mountainous region of Northern Vietnam, Hà Giang is a province sharing a common border with the southwestern region of China, Yunnan. Its population is sparse and estimated at about 900,000 inhabitants according to demographic statistics in 2016. Yet, it is a region with a significant concentration of Vietnam’s ethnic minorities (22 ethnic groups), among which the Hmongs are the most notable, followed by the Tày, the Dao, and the Nùng. It is here that one discovers the extraordinary beauty of the Creator, the grand and magnificent nature of fascinating Vietnam, the labor and merit of our ancestors in resisting the threat from the northern people. It is only here that one feels an intense emotion when climbing the 389 steps of the stone staircase on Lũng Cú hill, commonly called the « Dragon Hill, » at an altitude of 1,700 meters. It is also here that the general who defeated the Song and pacified Champa, Lý Thường Kiệt, initially erected a wooden pole a few meters high to firmly assert Vietnam’s sovereignty over this territory.

Although it looks like a wild and hardly accessible mountainous region, there is something sacred that I cannot describe when coming here. I clearly remember that the day before my departure, everyone recommended that I abandon the project of visiting Hà Giang because it had been devastated the previous week by the storm « Sơn Tinh« . This could cause trouble for me and make me lose a week of vacation in Vietnam. Despite this, I continued to persist in the intention to go there. I thus had the opportunity to admire the irresistible charm of Hà Giang and to visit the Đồng Văn karst plateau, which the UNESCO foundation recognized as the second geological park in Southeast Asia after the one in Malaysia (Langkawi) in 2010.

We had no problem on the day of departure. We just had to take national road No. 2 to go to the city of Tuyên Quang before then joining the city of Hà Giang to spend the night at the hotel. On the way, we had the opportunity to encounter a kiosk owned by a couple and specialized in selling sugarcane juice. We noticed that there were no flies around despite the presence of a trash bin filled with crushed sugarcane waste. We think that the climate plays an important role and that the demography is not important. We are each tempted to have a glass of sugarcane juice. It is extremely delicious because until now I have not dared to have it when I return to Vietnam.

That same evening, we are invited by a couple of friends of my daughter-in-law Oanh to a restaurant known for its local specialty (lẫu ngựa) (or Vietnamese horse meat fondue). Accompanied by vegetables from the mountainous region, this dish, with its rich flavor, does not disgust us but warms us up so much as the weather begins to cool and the rain is sporadic throughout the night. The next day, the rain continues to fall. Despite this, we take National Road 4C towards Đồng Văn.

Worry begins to overwhelm me because if the fog continues to thicken more and more halfway up the hill with persistent rain like that of the night, the idea of taking photos would be ruined, not to mention the damage caused to the road by the last storm (several large stone blocks weighing several tons are often visible at the roadside). No indication is provided to know whether the road is passable or not. Our driver Minh continues to drive diligently without being concerned by the lack of signs.

It is thanks to his calm and the fatalistic attitude inherited from the Vietnamese that my anxiety fades throughout the day. On certain stretches of the road, the return of the sun encourages me to forget everything and fully dedicate myself to taking pictures. However, there are very dangerous and winding sections of the road that make us all tired. For 200 kilometers of travel, it takes at least 6 or 7 hours on the road. Despite this, we are happy to have this peaceful space and the kind and friendly people of the mountainous region instead of returning to Saigon or Hanoi with the incessant noise of horns and the very lively and polluted environment.

According to the driver Minh, there is also no theft like what is found in the cities. Chickens, ducks, buffaloes, or oxen hesitating in their walk struggle to cross the road without their owners worrying about losing them even if they are far from their pens. No one likes to run them over because a very high price must be paid to the owner. Along the roadside, you often find the Hmong’s cornfields. They are experts in the field of cultivation. That is why the Chinese have long used the pictogram điền (field) above which is added the pictogram thảo (rice paddy) to designate the Hmong (or Miêu), the people skilled in soil cultivation.

This is what we observe when closely discovering, on a rock adorned with a small clump of earth, the appearance of a corn plant. Sometimes, through the car window, we spot one or two Hmong houses perched on the mountainside in the distance. We wonder how they manage to build and access them?

We are fortunate to spend the second night in Đồng Văn at a recently renovated homestay in the center of the old town. The rain continues to fall in the evening. This is why no attractions take place and the lanterns are sparse compared to those in Hội An and the old town of Hà Nội. Since we arrived midweek, we find no frequently organized events at the end of the week. On the morning of the third day, to have breakfast, we early on look for a restaurant specializing in preparing an egg pancake (bánh cuốn trứng) typical of Đồng Văn.

Being a specialty of the mountainous region, this pancake is made from rice flour and minced meat and is enjoyed by dipping it in a sauce simmered slowly with pork bones, always accompanied by two small pieces of meat pâté. This dish has a particular flavor, but due to the greasy consistency of the sauce, it is hard to want to have it again.

It may be a way to warm up and get rid of the cold coming from the Northwest forest, just like in France where we are used to eating butter in winter. Then we will take a tour of Đồng Văn. We have the opportunity to see how the Hmongs wash the flax before using it to weave their clothes with spring water. Then we visit Lũng Cú hill and the fortified palace of the Hmong king Vương Chính Đức. I have so many memories and moments of intense emotion that it is difficult to recall these three days of visiting Ha Giang in the company of my children and my grandson who have continuously supported me in this project from the beginning to the end of this unforgettable journey. (From Hà Giang to the tip of Cà Mau, 1535 km to travel).

Cuộc hành trình Hà Giang  theo hình ảnh 

 

Paris 28/08/2018 

[RETOUR]

Việt Nam Quê Hương tôi. Đất Rồng và Huyền Thoại

Địa chỉ email:anh_tuan.dang@vietnammonpaysnatal.fr 

Paris, kinh đô ánh sáng

Việt Nam hai tiếng nhớ nhung

Việt Nam của 54 sắc tộc

Tại sao chọn gọi là Đất Rồng và Huyền Thoại ?


intro

Version française
English version
Thư viện hình

Việt Nam là một quốc gia ở Đông Dương mà người dân rất yêu chuộng hoà bình, độc lập và tự do. Là người dân Việt  thì phải có khả năng kháng cự lại trước hết việc đồng hóa hay là tư tưởng ngoại bang và hảnh diện có mang ở trong tĩnh mạch dòng máu của cha Rồng. Đối với người dân Việt, không còn sự  hoài nghi nào cả vì qua truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên có từ thuở nào, họ là con cháu của  cha Rồng mặc dầu họ biết rõ  từ nay nguồn gốc qua các công trình khoa học di truyền (Văn hóa Lương ChửThạch Gia Hà). Họ là người thừa kế của nền văn hóa Hòa Bìnhvăn hóa Phùng Nguyên  và thuộc về đại tộc Bách Việt, những bộ tộc sống rải rác ở phía nam sông Duơng Tử. Nuớc ở nơi nầy nó thấm nhuần với đất vì có thể là vậy nên quốc gia của họ thường được gọi là Đất Nước.

Cũng  trên mãnh đất của đồng bằng sông Hồng nầy đã qua bao nhiêu thế kỷ trước Công Nguyên có một vương quốc sáng lâp một triều đại với các vua Hùng huyền thoại (nước Văn Lang). Sau đó được thay  thế bởi nước Âu Việt của An Dương Vương (Thục Phán) mà thành trì Cổ Loa là thủ đô, một bằng chứng cụ thể của vương quốc nầy bị thôn tính về sau bởi  Triệu Đà, một danh tướng của hoàng đế Trung Hoa Tần Thủy Hoàng. Ông nầy sáng lập ra nước Nam Việt (Nan Yue) lại bị thôn tính lúc đầu bởi  Hán Vũ Đế và về sau bởi quân Tàu của danh tướng Mã Viện (Ma Yuan) dưới thời  Hán Quang Vũ Đế (Guang wudi) với một nghìn năm bắc thuộc  trước khi có cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của tuớng Ngô Quyền với chiến thắng rực rỡ trên vịnh Hạ Long, một trong di sản thế giới của Việt Nam.

Trong thời kỳ đô hộ, văn hóa Đồng Sơn bị hủy diệt. Người ta tìm thấy trong văn hóa nầy các thạp đồng và nhất là cái trống đồng uy nghiêm biểu hiệu quyền lực và đặc tính của dân tộc Việt đã bao lần suýt bị hủy diệt bởi đế  chế Trung Hoa theo dòng lich sử.  Đây không phải  là lịch sử của các triều đại vua chúa (Đinh, Tiền Lê,, Trần, Hậu Lê, Nguyễn  vân vân…) hay các phong trào tư tưởng mà chính đây là lịch sử của dân tộc nông dân bền bỉ từ biên cương Việt Trung (Cao Bằng) đến mũi Cà Mau, vất vã khó nhọc để lại dấu ấn cho quang cảnh của mãnh đất nầy. Sự hy sinh của họ không phải là một từ vô ích. Các hào kiệt của họ thà làm qủi phương nam thay vì làm các vương công phương Bắc. Còn các nữ hào kiệt cũng không ngần ngại đáp lời sông núi. Đó là hai bà Trưng Trắc Trung Nhị, Dương Vân Nga Triệu Ẩu, Ỷ LanNguyễn Thị Giang (Cô Giang), Nguyễn thị Minh khai vân vân. Không người con Việt nào có thể quên câu nói bất diệt của Nguyễn Thái Học trước cái chết :

Chết vì Tổ Quốc.
Đây là số mệnh quá cao thượng,  đáng khen

Trên chiến trường, không có lực luợng  ngoại bang nào có thể  đánh bại khi có chạm trán với người dân  Việt. Chính họ dành được  sự thắng lợi  nhờ ba yếu tố nầy: Thiên Thời, Đia Lợi và Nhân Hòa. Chính yếu tố sau cùng  nầy nó  đem lại sự khác biệt trong cuộc chiến tranh tiêu hao. Nguyễn Trãi đã có dip nói rằng thà chinh phục nhân tâm hơn là chiếm đoạt thành trì. Hiên ngang trước quân giặc mạnh  hơn họ thì họ cần phải kiên nhẫn nghĩ đến các thể thức thường được áp dụng trong lý thuyết Âm Dương : Lấy Yếu chống Mạnh hay Lấy Cụt chống Dài. Chính nhờ mưu lược nầy mà   được Thống soái Trần Hưng Đạo sử dụng để chống lại hạm đội xâm lược Nguyên-Mông của Hốt Tất Liệt trong trận chiến sông Bạch Đằng năm 1288 và sau đó sĩ phu Nguyễn Trãi dành phần thắng lợi  trong cuộc chống giặc nhà Minh của hoàng đế Vĩnh Lạc, người xây dựng Cố Cung ở Bắc Kinh được thiết kế bởi người Việt tên là Nguyễn An (Ruan An) và xua đuổi quân Tàu ra khỏi Việt Nam vào năm 1428.

Dùng chiến thuật di quân (Dương) trước sự bất động của quân nhà Thanh (Âm) phù hợp hoàn toàn với địa lợi, vua Quang Trung  đánh bại  chớp nhoáng quân địch vào năm 1788 trong 5 ngày Tết  để lấy lại Thăng Long. Chính cũng Quang Trung lợi dụng sự không biết đia thế của quân địch mà dành phần thắng lợi thần tốc ở  rạch Gầm-Xoài Mút (Mỹ Tho) với quân Xiêm La (Thái Lan) của tướng Chakri  khi ông nầy gởi sang 50 vạn binh tiếp viện cho vua Gia Long. Không có dân tộc nào có thể cưởng lại trước sự  bành trướng  của người dân Việt trong cuộc Nam Tiến đến mũi Cà Mau. Đó là trường hợp của hai vương quốc Chămpa ở miền trung và Chân Lạp đồng bằng sông Cửu Long.

Dù bị nghìn năm bắc thuộc và  có sự đóng góp văn hóa ngọai bang, những người nông dân con Việt  mảnh khảnh  nầy, chân vùi dưới bùn ở giữa các ruộng lúa, đã  gìn giữ được  những gì qúi giá nhất của các dân tộc trên thế giới. Đó là những truyền thống ( ca dao chẵng hạn)  và tiếng Việt dựa trên chữ Hán sau nầy dùng chữ Latinh với ông thầy tu dòng tên là  Alexandre de Rhodes. Chỉ còn bộ tộc Lạc Việt duy nhất  thuộc đại tộc Bách Việt không bị hán  hóa qua nhiều  thế kỷ. Chính Đức Khổng Tử  đã có từng  so sánh sinh lực  có ở nơi người Trung Hoa và người Lạc Việt, tổ tiên của người Việt Nam ngày nay: can đảm và vũ lực thuộc về người Trung Hoa, còn Lạc Việt thì khoan dung và  nhân từ.

Tuy nhiên người dân Việt luôn luôn gắn bó sâu đậm với đất nước khiến họ không nhường bộ trong cuộc đấu tranh vì thế theo sự suy luận của một nhóm người, họ là những kẻ đi chinh phục tàn nhẫn và đáng sợ nhưng còn nhóm người khác thì  họ là những người bảo vệ chính đáng trong công cuộc chiến  dành lại độc lập và tư do. Dù sao họ đã hy sinh quá nhiều trong quá khứ về sinh mạng cho hai khái niệm: độc lập và tự do mà họ  không có quen để lựa chọn hay tách biệt. Chính vì  vậy họ vẫn trong tình trạng khổ tâm không ít. Rồi họ cũng  có lần lượt  hai khái niệm nầy với  cái giá  mạng người quá đắt. Việc ý thức tập thể bất đầu thành hình qua nhiều năm với Nguyễn An Ninh.

Mặc dầu ba vị vua trẻ Việt Nam Hàm Nghi, Thành TháiDuy Tân bị lưu đày ở Algérie và La Réunion và việc xử trảm nhiều nhà cách mạng trong đó  có một chàng trai trẻ tài ba Nguyễn Thái Học, người dân Việt vẫn  không mất nhuệ khí trong các cuộc nổi dậy và dành lại độc lập với chiến thắng ở Điên Biên Phủ vào năm 1954. Việc  thả ba trăm tấn bom (265 kí cho mỗi người dân Việt)  và 60 triệu lít chất làm rụng lá cũng không làm nản lòng người dân Việt trên con đường thống nhất  lại đất nước với sự sụp đổ chính quyền Saïgon  vào năm 1975 sau đó dẫn đến việc đày  biết bao nhiêu người lính miền nam đến trại học tập và cuộc di tản  chưa từng thấy, có rất nhiều người thuyền nhân  chết đuối  và bị hảm hại bởi hải tặc ở biển Đông và vịnh Thái Lan để đi tìm tự do.

Theo lời tường thuật của nhiều tác giả Tây Âu, (Barry Wain, Magali Barbieri) có dịp nghiên cứu về vấn đề nầy thì có ít nhất  tổi thiểu là 250.000 người Việt vượt biên chết  ở biển. Theo sự dự tính của cơ quan HCR (Haut  Commissariat pour les Réfugiés), từ 1975 đến 1991, trong 16 năm, có gần một triệu người dân Việt mà trong đó có 8 trăm nghìn người di tản đã lìa bỏ Việt Nam. Con đường hòa giải dân tộc rất còn xa vời vì nó đầy gian nan, cạm bẩy và vụng về sau ba thập niên chiến tranh và đau khổ.

Một trang lịch sữ đã khép lại  nhưng Việt Nam phải trả  giá rất đắt không những trên phương diện con người và môi trường bởi vì vẫn tiếp tục nhận  những hậu quả không  ước lượng nổi của bao nhiêu thập niên chiến tranh (chất độc da cam chẵng hạn). Theo tờ báo thông tin của Unesco ghi lại tháng năm năm 2000, một tổ chức làm việc dưới sự bảo hộ của Liên Hiệp Quốc, ước tính có một phần năm rừng ở miền nam bị hủy hoại bởi các thuốc diệt cỏ của Hoa Kỳ.

Người trai nước Việt  ngày nay không biết hận thù  và cũng không có nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh. Nhưng thách thức  nghèo đói  vẫn  còn rình rập đeo đuổi. Bóng ma chiến tranh nó vẫn còn đó theo dòng ngày  tháng  ở biển Đông với các đảo Hoàng Sa bị cưởng đoạt  năm 1974 và Trường Sa gần đây bởi người phương Bắc mà  mối đe dọa càng ngày càng quá khiêu khích. Trước tham vọng quá đỗi của Trung Quốc, bài thiên sữ thi « Nam Quốc Sơn Hà » của tướng Lý Thường Kiệt phá Tống bình Chiêm, khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam, nó trở lại ám ảnh tâm trí và vang âm trong trái tim của người con Việt.  

Tuy rằng với bao nỗi lo âu và cuộc sống quá tồi tệ, không ai có thể quên đi  được mãnh đất  nầy mà người con Việt thường gọi là Quê Hương vì  chỉ ở nơi  nầy  có thể tìm lại kỷ niệm của tuổi ấu thơ, mái trường xưa, nguồn gốc và  quá khứ. Mặc dầu mãnh đất nầy  nó đồng nghĩa với chữ nghèo nàn và khổ cực, nó là lý lẽ sống đấy vì ông cha ta  tranh đấu và giành được từ  khi lập nước với mồ hôi, nước mắt và xương máu. Cũng như mẹ, mỗi người con dân Việt  chỉ có một người mẹ duy nhất trong đời không ai có thể thay thế được. Ngoài làng ra, hình ảnh đình làng, con trâu, nón lá hay cây tre không bao giờ xoá mờ trong kí ức tập thể của người con Việt cả. Đối với những người con Việt viễn xứ, đây chỉ là một khoảng thời gian tạm thời thôi  chớ nó không phải là một kết cục chính. Hình bóng Quê Hương nó vẫn  đeo đuổi mãi  họ như chiếc đòn gánh trên vai  của người bán hàng rong với biết bao nhiêu trìu mến và luyến tiếc.

PCHTVN

No Images found.

Tại sao chọn gọi là Đất Rồng và Huyền Thoại ?
 
Người Việt cổ có thói quen xăm mình trên cơ thể. Tục lệ « man rợ » này, thường được nhắc đến trong các biên niên sử Trung Quốc. Nếu chúng ta dựa vào các văn bản Việt Nam thì đây là tục lệ nhằm bảo vệ họ để tránh sự tấn công của các con thuồng luồng (chắc đây là các con sấu hay giao long). Ngoài ra, họ thường nói bóng gíó qua các truyền thuyết để cho phép hậu thế truy tìm ra được nguồn gốc bởi sự hủy diệt có hệ thống nhất là nền văn hóa và trống đồng  và sự đàn áp không ngừng của nguời Trung Hoa trong thời kỳ bắc thuộc gần đến một ngàn năm.
 
Theo nhà nghiên cứu người Pháp Paul Pozner, sử học Việt Nam dựa trên một truyền thống lịch sử truyền khẩu rất lâu đời có trước thời đại của chúng ta dưới dạng truyền thuyết ở trong các đền thờ tổ tiên. Nhà văn Phạm Duy Khiêm, người Việt Nam đầu tiên đỗ tú tài cổ điển Pháp ở thời thuộc địa, đã có dịp kể lại cho chúng ta các truyền thuyết và các câu chuyện cổ tích nầy trong cuốn sách nổi tiếng có mang tựa đề “Légendes des terres sereines” mà ông được giải « Prix littéraire d’Indochine » vào năm 1943 về văn hóa và trí tuệ của người dân Việt. Chính vì những lý do nêu trên đây mà chúng ta chọn vùng đất của các con rồng huyền thoại để chỉ định nước Việt Nam.
 

Cập nhật 3 tháng 10 2025

 

 

Eglise Notre Dame de Paris (Nhà thờ Đức Bà Paris)

 

Version française

Notre Dame de Paris

Từ một nhà thờ nhỏ bé với phong cách xưa (romane) mà đến phong cách gothique thì có một đoạn đường khá dải hơn hai thế kỷ từ  1160 đến giữa thế kỷ 14, có nhiều sửa chữa và bổ túc khiến nhà thờ nầy trở thành một kiệc tác của Paris mà không ai có thể quên khi đến tham quan Paris. Số lượng người đi xem  là 13 triệu người mỗi năm có nghĩa là hơn 30.000 du khách mỗi ngày. Nó luôn luôn đứng đầu trong danh sách các nơi tham quan ở Paris, trước tháp Eiffel  và điện Louvre. Nhà thờ nầy là một trong những nhà thờ xây dựng đầu tiên  với phong cách gothique. Phong cách nầy dựa trên các vòm mà có ở các nơi bắt tréo hình nhọn  và gân cung. Nhờ vậy trọng lượng của vòm nó không dựa trên hai trụ mà 4 trụ. Phong cách nầy đem lại không những sự  sáng sủa nhờ có nhiều cửa sổ mà còn cao vút tạo ra sự tao nhã lạ thường. Tại sao gọi gothique ? Thuật ngữ gothique dùng  bởi người La Mã để ám chỉ dân  Goth, dân mọi rợ đến từ phiá  Bắc (người Pháp thưở xưa). Nhà thờ Đức Bà được  sùng tu lại sau khi bi hỏa hoạn xảy ra vào ngày 15 Tháng tư 2019 và mở lại cho dân chúng từ cuối năm 2024. 

Galerie des photos

 

Notre Dame de Paris

  

Partant d’une église romane jusqu’à devenir une église gothique, il y a un long chemin à parcourir prenant plus de deux siècles, de 1160 jusqu’au milieu du 14ème  siècle.  Beaucoup de modifications et d’ajouts étant ajoutés, elle devient ainsi un chef-d’œuvre de Paris que personne ne peut oublier  lors de son passage à Paris. Le nombre de visiteurs s’élève à 13 millions par an ou plus 30.000 touristes par jour.  Elle est toujours la première sur la liste des sites touristiques à Paris devant la tour Eiffel et le musée du Louvre.  Cette église est l’une des premières églises construites avec le style gothique. Celui-ci est basé essentiellement sur la technique de la voûte sur croisée d’ogive  (ses arcs brisés se croisent en  diagonales et s’appuient non pas sur deux piliers mais sur quatre piliers). Cette technique apporte non seulement la lumière grâce à un nombre élevé de fenêtres (vitraux)  mais aussi l’élévation et la finesse extraordinaire. Pourquoi gothique ? Ce mot est employé par les Romains pour faire allusion à des Goths,  des peuplades barbares situées dans le Nord de l’Europe (les Français d’autrefois). Notre Dame de Paris à Paris est restauré cause d’une incendie ayant eu lieu le 15 Avril 2019 et est re-ouvert au public à la fin de l’année 2024. 

Les Mayas (Nền văn minh Maya): Partie 2

Version française

English version

Cho đến năm 1950, nhờ  nhà ngôn ngữ nga Yuri Knorosov mà  hệ thống chữ viết Maya được giãi mã.  Ông nầy đã  chứng minh  lối  viết của người Maya trong việc phiên âm là loại logo âm tiết (từ 900 đến 1200 dấu) so với lối viết của người Ai Cập (734 dấu). Rồi đến 1978, nhà nghiên cứu  văn khắc người Mỹ, ông J. Juteson của đại học Stanford đưa vào trong luận án dành về văn tự của người Maya, một ý niệm về việc bổ sung ngữ âm. Có luôn cả văn phạm của người Maya được cung cấp gần đây trong những năm 1980-1990 với các công việc của L. Schele (1982), B. Macleod (1983) và  V. Bricker (1986). Nhờ đó mà sự hiểu biết về lối viết của người Maya đuợc thông suốt từ đây. Ngày nay, có thể khẳng định là chữ viết của người Maya là loại logo âm tiết.  Nhờ sự tiến triển trong việc giãi mã và các cuộc khai quật mà  cái nhìn về người Maya cũng được thay đổi nhất là với những gì họ để lại trong kho tàng tượng hình gồm có hiện nay hơn mười ngàn  văn bản. Muốn hiểu một văn tự của người Maya, chúng ta phải đọc từ trái qua phải và từ trên xuống dưới.

Trước đây, chúng ta thường cho rằng người Maya là những người hiền hòa so với người Aztec hiếu chiến. Nhưng nhờ những khám phá khảo cổ gần đây về một số văn bản chữ tượng hình bao gồm các cột (hoặc tấm bia) kỷ niệm, bàn thờ, bản treo tường vân vân…  chúng ta mới  biết rằng họ cũng rất  ưa thích chiến tranh. Đế chế của họ không dựa trên một tổ chức tập trung như của người Inca ở dãy núi Andes. Tuy nhiên, giống như người Hy Lạp, họ sống tập trung ở các thành bang và liên tục chiến đấu với nhau để chiếm quyền  bá chủ. Họ đôi khi được gọi là người Hy Lạp của thế giới mới.

Trong mỗi thành phố, có một vị vua thần linh, người nầy được giao nhiệm vụ làm trung gian giữa  thần dân và thế giới thần linh, tựa như  pháp sư thời xưa. Ngoài việc cung cấp thực phẩm và dùng  sức  dành được  chiến thắng chống lại kẻ thù của mình, nhà vua cần phải bắt tù nhân  để hiến tế máu sau đó  và  mong có được ân huệ của các vị thần linh nhằm đảm bảo sự vĩnh cửu của thành phố của mình trước những thảm họa thiên nhiên (động đất, bão, biến đổi khí hậu vân vân). Người ta cũng thường thấy các chức sắc  cao cấp Maya thực hiện nghi lễ trích  máu với dao bằng bạch kim hoặc cái gai nhọn của con cá đuối. Mặc dù họ đã phải chịu đựng những hình thức đau đớn trên lưỡi và dương vật của họ, họ vẫn thấy rằng đây là  hành động tự nguyện của họ, một sự hy sinh cao cả, vì máu được coi là tài sản quý giá nhất của con người, được dùng để duy trì trật tự vũ trụ và lợi ích của triều đại.

Các lễ vật cúng  được thấy rất nhiều và đa dạng. Ngoài máu, họ còn có thể nuôi dưỡng các vị thần bằng mùi và vị. Đôi khi, theo truyền thống của họ, họ quen ném nạn nhân, đặc biệt là các cô gái và trẻ em còn trinh, xuống giếng (hoặc cenote). Đây là trường hợp của Giếng Hy sinh tại Chichen Itza, nơi xương người được tìm thấy (13 sọ của đàn ông, 21 trẻ em và 8 phụ nữ) nhờ quá trình thoát nước được thực hiện bởi các nhà khảo cổ học. Người cai tri (hay lãnh chúa) hay thường tổ chức việc thờ cúng các thần thánh này nên được họ bảo vệ và tôn trọng trong tư tưởng của người Maya. Chính vì thế khi qua đời, lãnh chúa  được đi theo con đường  gắn liền với  sự chuyển động vũ trụ của mặt trời hay mặt trăng để xâm nhập vào âm phủ (thế giới ngầm) và tái sinh ở thiên giới để trở thành một thần thánh nhờ sức mạnh siêu nhiên được ban cho bởi  các vị thần. Mặt khác, đối với một người Maya bình thường thì  người nầy phải chết trong địa ngục sau một hành trình gian nan đầy nguy hiểm nhưng có thể trở lại trần gian trong một số dịp nhất định với sự đồng ý của thần chết để tham gia vào các nghi lễ do con cháu người nầy thực hiện.

Sự tôn kính mà người Maya bày tỏ với các vị thần của họ thông qua việc hiến tế con người và sự hy sinh bản thân (sẹo và đâm xuyên qua da thịt) đã làm mờ  đáng kể cho hình ảnh của họ. Đây là lý do tại sao khi đến  lãnh thổ của họ, người Tây Ban Nha xem coi họ là người man rợ tại vì những phong tục nhất định nầy. Tuy nhiên, họ đã phát minh ra con số 0 hai thế kỷ trước khi người châu Âu mượn nó từ người Ả Rập sau các cuộc Thập tự chinh. Số 0 này thường được biểu thị bằng một cái vỏ, một bông hoa và đôi khi là một hình xoắn ốc. Họ quan tâm đến toán học và thiên văn học. Họ biết cách sử dụng riêng các số dương.

Dân tộc Maya là một trong số ít các dân tộc  bị thu hút bởi thời gian. Nhờ biết sử dụng hệ thống vigesimal (dựa trên hệ nhị thập phân), họ đã thiết lập nhiều lịch để dự đoán các sự kiện quan trọng (ví dụ như các lời tiên tri), xác định các ngày quan trọng trong lịch sử và chuẩn bị thời gian thuận lợi cho các nghi lễ để các lực siêu nhiên mang lại tích cực cho nông nghiệp và cuộc sống hàng ngày của họ bằng cách trở lại các mùa màng và thời kỳ màu mỡ của trái đất. Lịch của họ cũng chính xác như lịch của chúng ta. Họ đã có thể tính toán được các giai đoạn của sao Kim và thời gian đồng hành của sao Hỏa với độ chính xác đáng kinh ngạc 780 ngày mặc dù chúng ta biết rằng vào thời điểm đó, họ hoàn toàn không có các thiết bị quang học. Người ta có thể nghĩ rằng ngoài khả năng quan sát và kiên nhẫn của họ, họ còn có khả năng suy luận và kết luận rất xuất sắc. Đây là trường hợp của một trong những đài quan sát của người Maya ở Chichén Itzá, Yucatan, Caracol (hay con ốc sên trong tiếng Tây Ban Nha), nơi người ta có thể theo dõi nơi chân trời  các vị trí khác nhau của các thiên thể (mặt trời, mặt trăng hoặc sao Kim)  từ cửa sổ của tháp. Sự di chuyển của các thiên thể vẫn là một lĩnh vực đặc biệt đối với người Maya vì nó có liên quan chặt chẽ đến việc thờ phượng các vị thần linh. Những vị thần này có mặt ở khắp mọi nơi, ngay cả trong thế giới bên dưới, nơi có nhiều vị thần linh  và nhiều cấp độ (9 vị thần, 9 tầng dưới đất).

[ Trở về Người Maya : Phần 1]

mayas_photos

Malgré cela, une percée significative dans le déchiffrement de l’écriture maya eut lieu dans les années 1950 grâce aux travaux du linguiste russe Yuri Knorosov. Ce dernier parvint à prouver que l’écriture utilisée par les Mayas pour la transcription de leur langue, était de type logo-syllabique (de 900 à 1200 signes) comparable à l’égyptien classique (734 signes). Puis en 1978, l’épigraphiste américain de l’université Stanford, J. Justeson introduisit dans sa thèse consacrée à l’écriture maya, l’idée de compléments phonétiques. Même une grammaire se constitua récemment dans les années 1980-1990 avec les travaux de L. Schele (1982), B. Macleod (1983) et V. Bricker (1986). Cela facilite la meilleure compréhension de la tradition écrite par des Mayas.

Aujourd’hui, on peut dire que l’écriture maya est de type logo-phonétique. Grâce à cette avancée dans le décryptage et dans les fouilles archéologiques, on est obligé de modifier la vision qu’on a eue à l’égard des Mayas en saisissant tout ce qu’ils avaient laissé dans le corpus hiéroglyphique composé actuellement de plus de dix mille textes. Pour connaître le contenu d’un texte maya, il faut suivre l’ordre de lecture qui s’effectue de gauche à droite et de haut en bas.

Dans le passé, on avait l’habitude de présenter les Mayas comme pacifiques, comparés à des Aztèques belliqueux et guerriers. Mais grâce aux découvertes archéologiques récentes de plusieurs textes hiéroglyphiques couvrant les colonnes commémoratives (ou stèles), les autels, les panneaux muraux etc…, on sait qu’ils étaient aussi adeptes de la guerre.

Leur empire ne s’appuyait pas sur une organisation centralisée comme les Incas des Andes. Par contre, analogues aux Grecs, ils vivaient regroupés dans les cités-états et ils ne cessaient pas de guerroyer entre eux en quête d’hégémonie. On les appelle parfois sous le nom des Grecs du nouveau monde.

Dans chaque cité, il y a un roi d’essence divine, chargé d’être le médiateur entre ses sujets et le monde des dieux comme le chaman de jadis. Outre la procuration de la nourriture et la force de travail gratuite en cas des victoires contre ses ennemis, le monarque a besoin de faire des prisonniers destinés aux sacrifices de sang dans le but de s’attirer les grâces des dieux et d’assurer l’éternité de sa cité face aux calamités naturelles (séismes, ouragans, changements climatiques etc…). Il est fréquent de voir aussi l’acte rituel de la saignée effectuée par les hauts dignitaires mayas à l’aide d’un couteau en obsidienne ou d’un aiguillon de pastenague. Malgré les mortifications très douloureuses soit sur leur langue soit leur pénis, ces derniers trouvaient dans leur acte volontaire une sacrifice suprême car le sang qui était considéré comme le bien le plus précieux de l’homme, servait à maintenir l’ordre cosmique et les intérêts dynastiques.

Les offrandes étaient multiples et diverses. Outre le sang, ils pouvaient nourrir les dieux avec des odeurs et des saveurs. Parfois, dans leur tradition, ils étaient habitués à jeter dans le puits (ou cénote) des victimes, en particulier des jeunes filles vierges et des enfants. C’est le cas de la Cenote du Sacrifice à Chichen Itza où on a retrouvé des ossements humains ( 13 crânes d’hommes, 21 d’enfants et 8 de femmes) lors du drainage effectué par des archéologues. Le souverain qui célébrait ainsi ce culte divin était traité avec respect et protégé par les divinités dans la pensée maya. C’est pourquoi lors de sa mort, il emprunta le même chemin lié au mouvement cosmique du soleil ou de la lune pour pénétrer dans l’inframonde (milieu souterrain) et renaquit dans le monde céleste pour devenir une divinité grâce au pouvoir surnaturel accordé par les dieux.

Par contre, pour un Maya ordinaire, il devait mourir au fond de l’inframonde après un long parcours périlleux mais il pouvait revenir sur terre en certaines occasions avec le consentement des dieux de la mort pour participer aux rites pratiqués par ses descendants. L’hommage que les Mayas avaient accordé à leurs dieux par les sacrifices humains et les autosacrifices (scarification et percement des chairs) porte un préjudice considérable à leurs images. C’est pourquoi, lors de l’arrivée des Espagnols sur leur territoire, ils étaient considérés comme des barbares à cause de certaines coutumes. Pourtant ils ont inventé le zéro deux siècles avant l’emprunt des Européens aux Arabes après les croisades. Ce chiffre 0 était représenté souvent par une coquille, une fleur et parfois une spirale. Ils étaient férus de mathématiques et d’astronomie. Ils savaient utiliser exclusivement des nombres positifs.

Les Mayas étaient l’un des rares peuples qui ont été fascinés par le temps. Grâce à leur système vigésimal (à base 20), ils établissaient plusieurs calendriers permettant de prédire d’importants évènements (les prophéties par exemple), de fixer les grandes dates de l’histoire et de préparer les moments propices aux cérémonies destinées à influencer positivement l’effort des forces surnaturelles sur leur agriculture et leur vie quotidienne par le retour des saisons et les époques de fertilité de la terre. Leur calendrier solaire était aussi précis que le nôtre. Ils ont réussi à calculer les phases de Vénus et la période synodique de Mars de 780 jours avec une précision stupéfiante bien qu’on sache qu’à cette époque, ils furent dépourvus entièrement des instruments d’optique.

On est amené à penser qu’outre leur faculté d’observation et leur patience inouïe, ils avaient un sens de la logique et une déduction extrêmement remarquable. C’est le cas de l’un des observatoires mayas trouvés dans le Yucatan à Chichén Itzá, le Caracol (ou l’escargot en espagnol) où on peut suivre à l’horizon différentes positions des astres (soleil, lune ou Vénus) depuis les lucarnes de la tour. Le mouvement de ceux-ci restait un domaine privilégié pour les Mayas car il était lié étroitement au culte des dieux. Ces derniers foisonnaient partout même dans l’inframonde où il y avait autant de dieux que de niveaux. (9 dieux, 9 niveaux souterrains).

[Retour à la page MAYA]

Despite this, a significant breakthrough in deciphering Maya writing occurred in the 1950s thanks to the work of the Russian linguist Yuri Knorosov. He managed to prove that the writing used by the Mayas for transcribing their language was of a logo-syllabic type (ranging from 900 to 1200 signs), comparable to classical Egyptian (734 signs). Then, in 1978, the American epigraphist from Stanford University, J. Justeson, introduced the idea of phonetic complements in his thesis dedicated to Maya writing. Even a grammar was developed recently in the 1980s-1990s with the work of L. Schele (1982), B. Macleod (1983), and V. Bricker (1986). This facilitates a better understanding of the written tradition by the Mayas.

Today, it can be said that Maya writing is of the logo-phonetic type. Thanks to this progress in decipherment and archaeological excavations, we are forced to change the view we had of the Mayas by understanding everything they left in the hieroglyphic corpus currently composed of more than ten thousand texts. To know the content of a Maya text, one must follow the reading order which is done from left to right and from top to bottom.

In the past, the Mayas were usually presented as peaceful, compared to the warlike and warrior Aztecs. But thanks to recent archaeological discoveries of several hieroglyphic texts covering commemorative columns (or stelae), altars, mural panels, etc., we know that they were also keen on war.

Their empire was not based on a centralized organization like the Incas of the Andes. However, similar to the Greeks, they lived grouped in city-states and continuously waged war among themselves in search of hegemony. They are sometimes called the Greeks of the New World.

In each city, there is a king of divine essence, responsible for being the mediator between his subjects and the world of the gods, like the shaman of old. Besides providing food and free labor in case of victories against his enemies, the monarch needs to take prisoners destined for blood sacrifices to gain the favor of the gods and ensure the eternity of his city in the face of natural calamities (earthquakes, hurricanes, climate changes, etc.). It is also common to see the ritual act of bloodletting performed by high Maya dignitaries using an obsidian knife or a stingray spine. Despite the very painful mortifications on their tongue or penis, they found in their voluntary act a supreme sacrifice because the blood, considered the most precious asset of man, served to maintain cosmic order and dynastic interests.

The offerings were many and varied. In addition to blood, they could feed the gods with smells and flavors. Sometimes, in their tradition, they were accustomed to throwing victims into the well (or cenote), especially virgin girls and children. This is the case of the Cenote of Sacrifice in Chichen Itza where human bones (13 skulls of men, 21 of children and 8 of women) were found during the drainage carried out by archaeologists. The sovereign who celebrated this divine cult in this way was treated with respect and protected by the deities in Mayan thought. Therefore, upon his death, he took the same path linked to the cosmic movement of the sun or the moon to enter the underworld (underground environment) and was reborn in the celestial world to become a divinity thanks to the supernatural power granted by the gods.

On the other hand, for an ordinary Maya, he had to die at the bottom of the underworld after a long perilous journey but he could return to earth on certain occasions with the consent of the gods of death to participate in the rites practiced by his descendants. The homage that the Maya had paid to their gods through human sacrifices and self-sacrifices (scarification and piercing of the flesh) caused considerable harm to their image. This is why, when the Spanish arrived on their territory, they were considered barbarians because of certain customs. Yet they invented zero two centuries before the Europeans borrowed it from the Arabs after the Crusades. This number 0 was often represented by a shell, a flower and sometimes a spiral. They were keen on mathematics and astronomy. They knew how to use only positive numbers.

The Maya were one of the few peoples fascinated by time. Using their vigesimal (base 20) system, they established several calendars that allowed them to predict important events (prophecies, for example), to fix the major dates in history, and to prepare the right moments for ceremonies designed to positively influence the efforts of supernatural forces on their agriculture and daily life through the return of the seasons and the periods of fertility of the earth. Their solar calendar was as precise as ours. They managed to calculate the phases of Venus and the synodic period of Mars of 780 days with astonishing precision, although it is known that at this time they were entirely deprived of optical instruments.

We are led to believe that in addition to their powers of observation and their incredible patience, they had a sense of logic and an extremely remarkable deduction. This is the case of one of the Mayan observatories found in the Yucatan at Chichén Itzá, the Caracol (or the snail in Spanish) where one can follow on the horizon different positions of the stars (sun, moon or Venus) from the skylights of the tower. The movement of these remained a privileged domain for the Mayans because it was closely linked to the worship of the gods. The latter abounded everywhere even in the underworld where there were as many gods as there were levels. (9 gods, 9 underground levels).

[Return to the page  MAYA]